“Đức tin có thực sự là quyền lực
biến đổi đời sống của chúng ta, đời sống của tôi
hay chăng?”
(ĐTC Biển Đức XVI - Năm Đức Tin - Thứ Tư
18/10/2012
Bài 1 loạt bài Giáo lý về Đức Tin)
Anh chị em thân mến,
Hôm nay tôi muốn giới thiệu một
loạt bài giáo lý mới sẽ được khai triển suốt Năm
Đức Tin mới được khai mạc, và là một loạt bài
giáo tý tạm thời sẽ gây gián đoạn cho loạt bài
giáo lý về học đường cầu nguyện. Tôi đã mở
Năm đặc biệt này bằng Tông Thư Cửa Đức Tin, để
Giáo Hội có thể cảm nghiệm được một nhiệt tình
mới nơi niềm tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Cứu Thế duy nhất của thế giới, có thể làm
tái bừng lên niềm vui của mình trong việc bước
trên con đường được Người vạch ra cho chúng ta,
và có thể làm chứng một cách tỏ tường cho quyền
lực biến đổi của đức tin.
Việc kỷ niệm 50 năm khai mạc Công
Đồng Chung Vaticanô II là một cơ hội quan trọng
để trở về với Thiên Chúa, để đào sâu và sống đức
tin của mình một cách can trường hơn, để củng cố
ý nghĩa thuộc về Giáo Hội của mình, một Giáo Hội là “thày dạy của
nhân loại”, một Giáo Hội, qua việc loan báo Lời
Chúa, việc cử hành các Bí Tích cùng với các việc
làm bác ái, dẫn chúng ta tới chỗ gặp gỡ và nhận
biết Chúa Kitô là Thiên Chúa thật và là người
thật. Đó là một cuộc gặp gỡ không phải với
một thứ tư tưởng hay là một thứ dự án nào đó của
cuộc sống, mà là với một Con Người sống động,
Đấng sâu xa biến đổi chúng ta từ bên trong bằng
việc tỏ ra cho chúng ta thấy căn tính đích thực
của chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
Việc gặp gỡ Chúa Kitô là những gì
canh tân đổi mới những liên hệ về nhân loại của
chúng ta bằng cách ngày ngày hướng chúng về một
tình liên kết và huynh đệ cao cả hơn, hợp với lý
lẽ của yêu thương. Đức tin vào Chúa không
phải là một cái gì đó chỉ tác dụng tới trí khôn
của chúng ta, tác dụng đến lãnh vực của kiến
thức trí tuệ; trái lại, nó là một thứ thay
đổi bao gồm toàn thể cuộc sống của chúng ta: các
thứ tình cảm của chúng ta, tâm can của chúng ta,
trí khôn của chúng ta, ý muốn của chúng ta, thân
xác của chúng ta, các cảm xúc của chúng ta và
những liên hệ về con người của chúng ta.
Nhờ đức tin, hết mọi sự đều được đổi thay trong
chúng ta và cho chúng ta, và nó sẽ rõ ràng cho
thấy định mệnh tương lai của chúng ta, sự thật
về ơn gọi của chúng ta trong lịch sử, ý nghĩa
của cuộc sống chúng ta, niềm vui đang là người
lữ hành trên con đường về quê hương thiên quốc.
Thế nhưng – chúng ta tự hỏi – đức
tin có thực sự là quyền lực biến đổi đời sống
của chúng ta, đời sống của tôi hay chăng? Hay
nó chỉ là một phần trong đời sống, chứ không
phải là một thứ yếu tố quyết định bất khả thiếu?
Qua những bài giáo lý này cho Năm Đức Tin, chúng
ta sẽ hành trình dọc theo con đường củng cố hay
tái khám phá ra niềm vui của đức tin, bằng việc
nhận thức rằng đức tin không phải là một
cái gì đó xa lạ và tách biệt khỏi đời sống thực
tế, trái lại, nó là chính hồn sống của đời sống. Đức
Tin vào một Vị Thiên Chúa là tình yêu và là Đấng
đến gần với con người bằng việc hóa thành nhục
thể và hiến mình trên Thập Giá để cứu độ chúng
ta cùng tái mở cửa Thiên Đàng, rõ ràng nói với
chúng ta rằng tầm vóc trọn vẹn của con người là
ở nguyên tình yêu thương mà thôi.
Ngày nay, khi mà những cuộc biến
đổi về văn hóa đang diễn tiến thường cho thấy
những hình thức tính chất tàn bạo ác độc đang
xẩy ra dưới nhãn hiệu “những cuộc chinh phục của
văn minh”, cần phải minh bạch lập lại rằng: đức
tin khẳng định rằng không thể nào có một thứ
nhân loại đích thực ngoại trừ ở những nơi, ở
những hành động, ở những thời điểm và ở những
đường lối trong đó con người được tác động bởi
thứ tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa, được bày
tỏ như là một tặng ân và được biểu lộ nơi những
mối liên hệ dồi dào yêu thương, thương cảm, chăm
sóc và vô tư phục vụ cho kẻ khác. Ở đâu
xẩy ra tình trạng thống trị, chiếm hữu, khai
thác và biến kẻ khác thành món hàng rao bán gây
ra bởi cái tôi; ở đâu xẩy ra tình trạng ngạo mạn
của ‘Cái Tôi’ co quắp lấy mình thì ở đó con
người bị bần cùng hóa, bị hạ giá và biến dạng. Đức
tin Kitô giáo, một đức tin chủ động trong yêu
thương và mạnh mẽ trong hy vọng, không phải là
những gì hạn chế đời sống, trái lại, nhân bản
hóa nó và thật sự là làm cho nó trở thành hoàn
toàn nhân bản.
Đức tin là để tiếp nhận sứ điệp
biến đổi này vào đời sống của chúng ta; đức tin
là để lãnh nhận mạc khải của Thiên Chúa, Đấng
làm cho chúng ta biết Ngài là ai, cách thức Ngài
tác hành và đâu là dự án của Ngài giành cho
chúng ta. Thật sự là mầu nhiệm của Thiên Chúa
vĩng viễn là những gì vượt ra ngoài khả năng của
những gì chúng ta quan niệm và của những gì
chúng ta lập luận, của những thứ nghi thức chúng
ta cử hành và của những kinh nguyện chúng ta cầu
khẩn. Thế nhưng, bằng việc mạc khải của
mình, Thiên Chúa đã tự mình truyền đạt cho chúng
ta, Ngài nói với chúng ta về Ngài và Ngài làm
cho Ngài trở thành khả đạt. Và chúng ta
đã có thể lắng nghe thấy Lời của Ngài và lãnh
nhận sự thật của Ngài. Vậy, cái kỳ diệu
của đức tin là thế này: Thiên Chúa, theo tình
yêu của mình, tạo nên trong chúng ta – bằng
hành động của Thánh Linh – những điều kiện thích
đáng để chúng ta nhận ra Lời của Ngài. Chính
Thiên Chúa, theo ý muốn của Ngài muốn tỏ mình ra
cho chúng ta, đã tiến tới chỗ giao tiếp với
chúng ta và làm cho mình trở thành hiện diện
trong lịch sử, nhờ đó chúng ta có thể lắng nghe
Ngài và lãnh nhận Ngài. Thánh Phaolô đã hân hoan
và tri ân bày tỏ như thế này: “Chúng ta liên lỉ
tạ ơn Thiên Chúa về điều này, đó là khi anh chị
em lãnh nhận lời Chúa mà anh chị em đã nghe từ
chúng tôi là anh chị em đã chấp nhận nó không
phải như lời của con người mà là như những gì nó
thực sự là, đó là lời của Thiên Chúa là những gì
đang hoạt động nơi anh chị em là thành phần tín
hữu” (1Thes 2:13).
Thiên Chúa đã tỏ mình ra bằng
ngôn từ cũng như bằng việc làm dọc suốt một
giòng lịch sử dài về tình thân hữu với con
người, tột đỉnh ở nơi việc Nhập Thể của Con
Thiên Chúa và nơi mầu nhiệm tử nạn và phục sinh
của Người. Thiên Chúa chẳng những tỏ mình ra
trong lịch sử của một dân tộc; Ngài chẳng những
nói qua các vị tiên tri mà Ngài còn vượt qua
ngưỡng cửa Thiên Đàng để tiến vào miền đất của
con người như là một con người, nhờ đó chúng ta
có thể gặp gỡ Ngài và nghe thấy Ngài. Và từ
Giêrusalem, việc loan báo Phúc Âm cứu độ đã lan
truyền cho đến tận cùng trái đất. Giáo
Hội, được hạ sinh từ cạnh sườn của Chúa Kitô, đã
trở nên người loan báo một niềm hy vọng mới mẻ
và mạnh mẽ, đó là Chúa Giêsu Nazarét, tử giá và
phục sinh, Đấng Cứu Độ trần gian, Đấng đang ngự
bên hữu Cha và là Đấng phán xét kẻ sống và kẻ
chết. Đó là kerigma - bài giảng, là việc loan
báo chính yếu và khôn nguôi của đức tin.
Tuy nhiên, từ ban đầu đã xuất
hiện vấn đề về “qui luật của đức tin”,
chẳng hạn, về sự trung thành của các tín hữu đối
với chân lý của Phúc Âm, mà họ đã nắm vững, cũng
như đối với sự thật cứu độ về Thiên Chúa và về
con người, một sự thật đã được canh giữ và
truyền đạt. Thánh Phaolô viết: “Nhờ Phúc Âm, anh
chị em cũng đã được cứu độ, nếu anh chị em trung
thành với lời tôi đã rao giảng cho anh chị em.
Bằng không, anh chị em đã tin tưởng vô ích”
(1Cor 15:2).
Thế nhưng chúng ta tìm thấy
ở đâu cái công thức thiết yếu của đức tin đây? Ở
nơi đâu chúng ta tìm thấy những chân lý đã được
trung thực truyền đạt và là ánh sáng soi cho đời
sống hằng ngày của chúng ta đây? Câu trả
lời đơn giản thôi, đó là ở nơi Kinh Tin
Kính, nơi Bản Tuyên Xưng Đức Tin hay nơi Biểu
Hiệu của Đức Tin, chúng ta tái
giao tiếp với biến cố nguyên thủy về Con Người
và lịch sử của Đức Giêsu Nazarét. Nó cụ
thể hóa những gì vị Tông Đồ Dân Ngoại đã nói với
thành phần Kitô hữu ở Corintô: “Tôi đã truyền
đạt cho anh chị em như những gì quan trọng nhất
tôi cũng đã được lãnh nhận, đó là Đức Kitô đã
chết vì tội lỗi của chúng ta theo như lời Thánh
Kinh, Người đã được mai táng, Người đã sống lại
vào ngày thứ ba” (1Cor 15:3).
Cả đến ngày hôm nay, chúng ta cần
đến Kinh Tin Kính được biết đến hơn, được hiểu
biết hơn và nguyện cầu hơn. Nhất là ở chỗ Kinh Tin
Kính cần phải được “nhìn nhận” đúng như vậy.
Vì việc hiểu biết có thể là tác động thuần túy
tri thức, trong khi việc “nhìn nhận” bao gồm
việc khám phá ra mối liên hệ giữa những chân lý
chúng ta tuyên xưng nơi Kinh Tin Kính với đời
sống hằng ngày của chúng ta, đến độ những sự
thật này thực sự và tỏ tường trở nên – như chúng
vẫn thường hằng là – ánh sáng cho các bước đường
của đời sống chúng ta, là thứ nước làm giãn cơn
khát nnung nấu của chúng ta dọc theo cuộc hành
trình của chúng ta, và là sự sống chế ngự một số
những sa mạc nơiø thời đại tân tiến của chúng
ta. Đời sống luân lý của tín hữu được ghép
vào Kinh Tin Kính, và nó tìm thấy nền tảng của
nó và sự công chính của nó ở đó.
Không phải là tình cờ mà Chân
Phước Gioan Phaolô II muốn cuốn Sách Giáo
Lý của Giáo Hội Công Giáo – một chuẩn mực an
toàn cho việc giảng dạy đức tin và là một cơ bản
đáng tin cậy cho một thứ giáo lý mới – được mẫu
hóa theo Kinh Tin Kính. Đó là vấn đề của việc
khẳng định và bảo vệ cái cốt lõi của các chân lý
đức tin, trong khi đó lại đưa nó vào một thứ
ngôn ngữ dễ hiểu hơn cho con người của thời đại
chúng ta, cho chúng ta. Phận sự của Giáo Hội đó
là truyền đạt đức tin và truyền đạt Phúc Âm, nhờ
đó các chân lý của Kitô giáo được chiếu sáng lên
những biến đổi mới mẻ về văn hóa, và đồng thời
cũng nhờ đó Kitô hữu có thể thực hiện việc bênh
vực niềm hy vọng chất chứa nơi họ (cf. 1Pt
3:15).
Ngày nay chúng ta đang sống trong
một xã hội đã thay đổi sâu xa, thậm chí so với
quá khứ mới đây, và là một xã hội đang liên tục
chuyển động. Cái tiến trình của tình
trạng tục hóa và một thứ tâm thức trống rỗng
đang lan tràn, theo đó thì hết mọi sự đều tương
đối, đã gây một tác dụng sâu xa nơi tâm trạng
chung. Bởi thế, cuộc đời thường
được sống một cách nông nổi hời hợt, chẳng có
những lý tưởng rõ ràng và những niềm hy vọng
vững chắc, lỏng lẻo và tạm bợ nơi
những liên hệ về gia đình và xã hộiï.
Nhất là các thế hệ mới không được huấn luyện để
tìm kiếm chân lý và ý nghĩa sâu xa của đời sống
là những gì vượt lên trên tất cả các thứ đang
qua đi. Chúng cũng không được huấn luyện để có
được những cảm tình và gắn bó vững vàng cũng như
để tin tưởng tín thác. Ngược lại, tương đối chủ
nghĩa dẫn đến chỗ không còn một nền tảng vững
chắc nào. Tình trạng ngờ vực và bất nhất đang
gây ra những thứ lũng đoạn nơi các mối liên hệ
của loài người, trong khi đó cuộc đời được sống
bằng những kinh nghiệm không bền bỉ, thiếu trách
nhiệm. Nếu cá nhân chủ nghĩa và tương đối
chủ nghĩa dường như đang thống trị tâm trí của
nhiều người đương thời của chúng ta thì không
thể nói rằng thành phần tín hữu hoàn toàn thoát
khỏi bị lây nhiễm những thứ nguy hiểm ấy, những
thứ nguy hiểm chúng ta đang phải chạm trán trong
việc truyền đạt đức tin. Cuộc nghiên cứu
được phát động ở tất cả mọi châu lục để cử hành
Thượng Nghị Các Giám Mục Thế Giới về vấn đề Tân
Truyền Bá Phúc Âm Hóa, đã nhấn mạnh đến một
số những thứ nguy hiểm này, đó là
một đức tin được sống một cách thụ động hoặc
riêng tư, đó là vấn đề không thực hiện việc giáo
dục về đức tin, đó là tình trạng phân mảnh giữa
đời sống và đức tin.
Ngày nay, Kitô hữu thậm chí
thường không biết đến cốt lõi của đức tin Công
giáo của mình, Kinh Tin Kính. Điều này có thể là
một thứ bỏ ngỏ cho một thứ hòa đồng và tương đối
về tôn giáo thiếu tính cách sáng tỏ về những sự
thật chúng ta cần phải tin tưởng cũng như về
quyền lực cứu độ đặc thù của Kitô giáo. Ngày nay chúng ta không
xa vời với cái nguy cơ của việc thiết lập nên
một thứ tôn giáo “tùy nghi tự ý” –
“do-it-yourself”. Trái lại, chúng ta cần
phải trở về cùng Thiên Chúa, cùng Vị Thiên Chúa
của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta cần phải tái nhận
thức sứ điệp Phúc Âm và làm cho nó thấm nhiễm
hơn nữa vào lương tâm của chúng ta cũng như vào
đời sống hằng ngày.
Trong loạt bài giáo lý cho Năm
Đức Tin, tôi muốn cống hiến sự trợ giúp cho cuộc
hành trình này, cho việc tiếp tục và đi sâu vào
các chân lý chính yếu của đức tin về Thiên Chúa,
về con người, về Giáo Hội, về toàn thể thực tại
xã hội và vũ trụ, bằng việc suy niệm và chia sẻ
về các câu của Kinh Tin Kính. Và tôi muốn vấn đề phải trở nên
sáng tỏ ở chỗ nội dung hay các chân lý của
đức tin (fides quae – “faith which”) là
những gì trực tiếp liên hệ đến đời sống của
chúng ta, chúng cần đến một cuộc hoán cải đời
sống của chúng ta, chúng làm phát sinh một đường
lối mới mẻ trong việc tin tưởng vào Thiên Chúa (fides
qua – “faith by which”). Nhận biết
Thiên Chúa, gặp gỡ Ngài, khám phá ra những đường
nét nơi dung nhan của Ngài, là những gì làm cho
cuộc đời của chúng ta trở nên sinh động, vì Ngài
đang tiến vào những thứ năng động sâu xa của
việc làm người.
Chớ gì cuộc hành trình chúng ta
sẽ thực hiện năm nay giúp cho tất cả chúng ta
gia tăng về đức tin và tình yêu đối với Chúa
Kitô, nhờ đó chúng ta có thể biết sống động, nơi
những chọn lựa của chúng ta cũng như nơi các
hoạt động hằng ngày của chúng ta, một đời sống
tốt lành và mỹ lệ của Phúc Âm. Xin cám ơn anh
chị em.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến
ngày 18/10/2012
(nhan đề do người dịch tự đặt và
những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người
dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu
quan trọng)
Cảm nhận và chia sẻ
Bài Giáo Lý đầu
tiên trong loạt bài về Đức Tin này, Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhấn mạnh đến vấn
đề phải làm sao hiện thực hóa đức tin trong
đời sống, như những câu khẳng định tiêu biểu
thứ tự của ngài sau đây:
"Đức tin vào Chúa ... là một thứ thay đổi bao
gồm toàn thể cuộc sống của chúng ta: các thứ
tình cảm của chúng ta, tâm can của chúng ta, trí khôn của chúng ta, ý muốn của chúng
ta, thân xác của chúng ta, các cảm xúc của
chúng ta và những liên hệ về con người của
chúng ta".
"Đức tin có thực sự là
quyền lực biến đổi đời sống của chúng ta,
đời sống của tôi hay chăng? Hay nó chỉ là một phần trong đời sống, chứ không
phải là một thứ yếu tố quyết định bất khả
thiếu?"
"Đức tin không phải là một cái gì đó xa lạ và tách biệt khỏi
đời sống thực tế, trái lại, nó là chính hồn
sống của đời sống".
"Nội dung của đức tin hay các
chân lý của đức tin là những gì trực tiếp
liên hệ đến đời sống của chúng ta..."
Trong bài chia sẻ về Mẹ Maria là Mô Phạm Đức
Tin ở Đan Viện Biển Đức Thiên Tâm ở Kerens
Texas cho Ngày Tĩnh Tâm Khai Mạc Năm Đức Tin
Thứ Bảy 13/10/2012, tôi cũng đã chạm đến vấn
đề hiện thực hóa đức tin như thế.
Thật
vậy, căn cứ vào gương sống đức tin của Mẹ
Maria về hai khía cạnh: Đức tin tuân phục
(như trong Biến Cố Truyền Tin và Biến
Cố Đứng Bên Thập Giá Chúa Kitô) và đức tin
yêu thương (như Biến Cố Thăm Viếng và Biến
Cố Tiệc Cưới Cana), tôi đã gợi ý kiểm điểm
về việc sống đức tin như sau:
Nếu
chúng ta bình thường hằng ngày đọc kinh cầu
nguyện, hằng tuần tham dự Thánh Lễ và rước
lễ, thậm chí ăn chay v.v. thế nhưng
trong đời thường:
Chúng ta có sống đức tin tuân phục hay
chăng?
1- ở
chỗ ngừa thai tự nhiên thay vì ngừa thai
nhân tạo?
2- ở
chỗ chấp nhận những cái thai ngoài ý muốn,
kể cả trường hợp bị hiếp?
3- ở
chỗ sẵn sàng chấp nhận mọi sự theo Thánh Ý
Chúa cho dù gian nan khốn khó khổ đau?
Chúng ta có sống đức tin yêu thương hay
chăng?
1- ở
chỗ không dám khinh thường và nói phạm đến
những người anh chị em sa ngã phạm tội?
2- ở
chỗ cảm thấy đau đớn khi thấy anh chị em
mình làm mất lòng Chúa nên gắng hy sinh cầu
nguyện cho họ?
3- ở
chỗ sẵn sàng làm hòa với những ai xúc phạm
đến mình, bằng cách tự động tha thứ cho họ
chứ không cần họ đến xin lỗi mình?
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL