Kính
thưa quý vị và các bạn,
Trong bài trước, chúng tôi đã cố gắng nêu bật ảnh hưởng của thần
học về hôn nhân của công đồng Vaticano II đối với bộ giáo luật
1983. Một đặc tính của quan điểm ấy là tính cách liên bản vị của
giá thú: giá thú không phải chỉ một khế ước quy định những nghĩa
vụ và quyền lợi, nhưng tiên vàn là một sự trao ban và chấp nhận
hỗ tương, giữa một người nam và một người nữ: sự trao ban ấy có
tính cách độc hữu và vĩnh viễn. Chính từ tình yêu trao hiến ấy
mà nảy ra sự sống mới như là hoa trái của nó. Cho đến đây, chúng
ta vẫn còn ở cấp bậc tự nhiên, nghĩa là xét hôn nhân theo kế
hoạch của Đấng Tạo hóa.
Đối với các Kitô hữu, hôn nhân còn mang một đặc tính khác nữa:
nó là một bí tích, dấu chỉ của mối tình trao hiến giữa đức Kitô
với Hội thánh. Ở số 48 của hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” công
đồng Vatican II viết rằng: “Đức Kitô đến gặp gỡ các đôi bạn Kitô
hữu qua bí tích hôn nhân. Người lưu lại với họ ngõ hầu, qua sự
trao ban cho nhau, họ có thể yêu nhau chung thủy trót đời như
Người đã yêu Hội thánh và trao hiến mình cho người bạn của mình.
Tình yêu chân chính giữa vợ chồng đã được thu hút vào trong tình
yêu của Chúa, và được điều khiển cùng tăng cường nhờ sức mạnh
cứu chuộc của đức Kitô và nhờ hành động cứu rỗi của Hội thánh;
nhờ vậy họ được dẫn dắt cách hữu hiệu tới cùng Thiên Chúa và
được giúp đỡ cùng trợ lực trong thiên chức làm cha mẹ”. Công
đồng nói thêm rằng bí tích là nguồn thánh hóa cho đôi bạn, và
nói được như là hiến thánh họ vào những nghĩa vụ và phẩm giá của
hôn nhân; nhờ bí tích, toàn thể đời sống của họ được thấm nhiễm
tinh thần đức Kitô, ngõ hầu họ tiến tới sự trọn lành thánh
thiện.
Tuy nhiên, từ sau công đồng Vaticano II, một cuộc tranh luận
được nêu lên chung quanh vấn đề bí tích của hôn nhân giữa các
Kitô hữu. Đạo lý chính thức của Giáo hội cho rằng khi hai người
Kitô hữu kết bạn với nhau, thì hôn nhân của họ đương nhiên là bí
tích: không thể nào tách rời hôn nhân tự nhiên và hôn nhân siêu
nhiên được. Dĩ nhiên đạo lý này đã có một truyền thống lâu đời
cũng như dựa trên luận chứng vững chắc của thần học. Thế nhưng,
khi làm việc mục vụ, nhiều linh mục nhận thấy rằng nhiều người
Kitô hữu chẳng còn đức tin gì nữa, và do đó họ chẳng muốn lãnh
nhận bí tích hôn nhân nhưng họ chỉ muốn kết hôn như thói tục của
bao nhiêu con người khác. Vấn đề được đặt ra như thế này: khi
những Kitô hữu chỉ muốn kết lập giá thú tự nhiên chứ không muốn
lãnh nhận bí tích, thì giá thú của họ có thành sự không ? Cả bộ
giáo luật cũ (đ.1012 §2) lẫn bộ giáo luật 1983 (đ.1055 §2) đều
trả lời rằng giá thú ấy sẽ vô hiệu: “Giữa những người đã chịu
phép rửa tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng
thời không phải là bí tích” (inter baptizatos nequi
matrimonialis contractus validus consistere, quin sit eo ipso
sacramentum).
Tuy lập trường của Giáo hội đã dứt khoát như vậy, nhưng thần học
vẫn tiếp tục đào sâu thêm vấn đề, xét vì những hậu quả thần học,
pháp lý và mục vụ của nó. Đành rằng đám cưới thuần túy dân sự
của những kitô hữu bị giáo luật coi là vô hiệu bởi vì không tuân
giữ thể thức giáo luật (forma canonica); nhưng Giáo hội không
thể đối xử với những cặp vợ chồng đó như những đôi ngoại tình
công khai, ăn ở chung với nhau mà không có phép tắc ! Vấn đề trở
nên gai góc hơn dưới khía cạnh thần học: giả như một người Kitô
hữu xin cử hành hôn nhân theo phép đạo (thí dụ vì muốn làm vui
lòng gia đình, vì họa theo phong tục) nhưng mà chẳng có tin
tưởng gì hết, thì hôn nhân đó có phải là bí tích hay không ?
Vì
những lý do ấy, một số tác giả đã đòi xét lại sự gắn chặt giữa
khế ước với bí tích hôn nhân: không thể coi bất cứ khế ước hôn
phối nào của người Kitô hữu cũng đương nhiên là bí tích; cần
phải có tối thiểu là đức tin vào bí tích. Chúng ta hãy theo dõi
những lý chứng của hai phe.
I. Lý chứng của phe chủ trương tách rời khế ước khỏi bí tích
Họ
dựa trên lý chứng thần học và lý chứng lịch sử.
A-
Xét về thần học, điều kiện tối thiểu để lãnh nhận
bí tích là phải muốn lãnh nhận nó. Nếu ai không tin và không
muốn lãnh bí tích (thậm chí họ đã minh thị gạt bỏ bí tích)
thì tại sao áp đặt người ta làm gì? Cách riêng về bí tích
hôn nhân, tác viên của bí tích chính là đôi bạn: họ biểu hiệu
của sự trao hiến giữa đức Kitô với Giáo hội. Thế thì nếu mà
chính họ không tin thì làm sao bảo họ làm tác viên được?
B-
Xét về lịch sử, thì vấn đề gắn liền giữa khế ước
với bí tích không phải là một chân lý đức tin, nhưng là một biện
pháp của Giáo hội để đáp lại những học thuyết tại Âu châu hồi
cuối thế kỷ XIX muốn tách rời hôn nhân khỏi sự kiểm soát của
giáo quyền.
II. Những lý chứng của phe chủ trương không thể tách rời
Phe này dựa trên trật tự khách quan của bí tích hơn là tâm tình
nội tại của người lĩnh nhận bí tích. Theo họ, tính cách bí tích
của hôn nhân gắn chặt với bí tích rửa tội: khi lãnh bí tích rửa
tội, con người đã lĩnh ấn tích, nghĩa là đã được in dấu của Chúa
Kitô: dấu ấy không thể nào bị xóa nhòa, và không tùy thuộc vào
lòng tin chủ quan của con người. Do đó, đối với người Kitô hữu,
không thể nào có hôn phối “tự nhiên” được nữa, xét vì những gì
là tự nhiên nơi họ thì đã được đem vào lãnh vực cứu rỗi rồi. Khả
năng biểu hiệu tình yêu của đức Kitô đối với Giáo hội không tùy
thuộc vào lòng tin hay ý muốn của người tín hữu nhưng nằm trong
bản chất của hôn nhân theo ý định của chính đức Kitô. Người tín
hữu cần được huấn giáo để hiểu biết giá trị đó và chấp nhận
trong đức tin.
Khỏi nói ai cũng hiểu, chủ trương này đi sát với lập trường
chính-thức của Giáo hội, được biểu lộ qua bộ giáo luật cũng như
trong các văn kiện của Tòa thánh, thí dụ tông huấn “Đời sống gia
đình” của đức Gioan Phaolô II. Thêm vào đó, ta có thể kể văn
kiện của Ủy ban thần học quốc tế năm 1977 dưới tựa đề “Vài vấn
đề đạo lý của hôn nhân kitô giáo” (Problèmes doctrinaux du
mariage chrétien). Ngoài luận cứ dựa trên trật tự khách quan
của bí tích do đức Kitô ấn định chứ không tùy thuộc vào ý muốn
người lãnh nhận, văn kiện còn phân biệt giữa ý định (intention)
và lòng tin (foi personnelle) khi lãnh bí tích: a/ điều kiện cần
thiết để lãnh bí tích là ý định muốn làm điều mà
Chúa và Giáo hội muốn. Lòng tin của người lãnh bí
tích không có chi phối sự hữu hiệu của bí tích nhưng chỉ ảnh
hưởng tới hậu quả thiêng liêng do bí tích phát sinh. Tuy nhiên
văn kiện cũng nhìn nhận rằng lòng tin có thể chi phối ý định;
tiếc rằng, các tác giả không chịu đi sâu hơn để giải thích mối
liên hệ đó (số 2 và 3).
Tông huấn “Đời sống gia đình” cố gắng dung hòa hai lãnh vực. Một
đàng trên lãnh vực đạo lý, văn kiện này bảo vệ trật tự khách thể
của kế hoạch cứu rỗi; tính cách bí tích được gắn liền với hôn
nhân của các Kitô hữu là do ý định của Thiên Chúa chứ không tùy
thuộc ý muốn của họ. (số 13). Điều kiện tối thiểu đòi hỏi nơi họ
là chấp nhận điều mà Giáo hội đã ấn định khi cử hành hôn phối.
Mặt khác, trên lãnh vực mục vụ, nếu chính người Kitô hữu khước
từ không chấp nhận học thuyết của Giáo hội về bí tích hôn nhân,
thì các mục tử không được cử hành nghi lễ hôn nhân cho họ (số
68). Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng không phải là Giáo hội
khước từ việc cử hành bí tích nhưng là chính họ đã khước từ. Đức
Thánh Cha cũng lưu ý các mục tử trong việc thẩm định cấp độ lòng
tin của những người xin lãnh bí tích: đây là một công chuyện rất
tế nhị và dễ rơi vào quyết định chủ quan. Có lẽ vì thế mà Ngài
muốn dựa vào tiêu chuẩn rõ rệt hơn, nghĩa là ý định (chủ ý:
recta intentio) làm theo kế hoạch của Chúa.
Hậu quả thực tế
Trên đây là những nguyên tắc thần học về tương quan giữa khế ước
hôn phối của các Kitô hữu với bí tích. Để kết thúc, chúng ta hãy
xét tới vài hậu quả thực tế.
1)
Giả như một đôi hôn nhân khô khan nguội lạnh nhưng xin cử hành
lễ nghi hôn phối ở nhà thờ, thì hôn phối vẫn hữu hiệu. Dĩ nhiên,
bổn phận của các mục tử là phải cố gắng chuẩn bị tâm hồn họ qua
việc huấn giáo.
2)
Giả như một đôi hôn nhân minh thị loại trừ tính cách bí tích của
hôn nhân (họ chỉ muốn cưới hỏi như hôn phối tự nhiên), thì một
số tác giả nghĩ rằng hôn nhân có thể vô hiệu dựa theo đ.1099 và
1101 §2, bởi vì đối với hôn nhân kitô giáo, việc loại bỏ tính
cách bí tích cũng phát sinh hậu quả giống như việc loại bỏ tính
cách đồng nhất và bất khả ly của hôn nhân.
3)
Giá thú thuần túy dân sự của các kitô hữu, tuy rằng vô hiệu xét
theo giáo luật vì thiếu thể thức pháp định, nhưng không thể bị
đồng hóa với các cặp trai gái sống chung không có giá thú (xem:
Tông huấn “Đời sống gia đình” số 82). Có những vấn đề mục vụ
được đặt ra cho những đôi vợ chồng ấy mà Đức Gioan Phaolô II đã
nêu lên. Nhưng xét dưới khía cạnh thần học và pháp lý, có tác
giả đã đặt vấn nạn như sau: bộ giáo luật hiện hành đã dự trù
trường hợp mà người công giáo không còn buộc phải giữ thể thức
pháp định khi kết hôn nữa, đó là trường hợp người đã công khai
bỏ đạo (đ.1117); thế nhưng tuy đương sự tuyên bố bỏ đạo nhưng ấn
tích rửa tội vẫn còn; thế thì phải coi hôn phối dân sự của họ là
hữu hiệu và là bí tích chứ?
4)
Công đồng Vaticano II đã chú trọng tới khía cạnh thánh hóa và
thánh hiến của Bí tích hôn nhân; điều này được bộ giáo luật lặp
lại ở đ.1134 của giáo luật. Tuy nhiên xem ra nhà lập pháp chú
trọng cách riêng đến một hậu quả của bí tích, tức là tính cách
bất khả ly (đ.1056); thực vậy, Giáo hội đã dự trù những trường
hợp chước chuẩn hôn nhân khi nó chưa phải là bí tích (những
trường hợp đặc ân đức tin).
Luôn tiện cũng nên biết là nhiều khó khăn trong cuộc tranh luận
về bí tích hôn phối xảy ra trong thần học latinh. Thần học
Latinh quan niệm rằng trong bí tích hôn phối chính đôi bạn vừa
là tác viên (chủ sự) vừa là thụ viên (người lãnh nhận); chính
trong lúc trao đổi sự thỏa thuận hôn nhân, thì đôi bạn kitô hữu
cũng thực hiện bí tích hôn phối. Quan điểm của thần học của Đông
phương thì khác: vị chủ sự bí tích hôn phối là linh mục. Linh
mục đọc lời cầu khẩn xin Chúa Thánh Thần chúc lành thánh hóa
tình yêu của đôi bạn. Theo quan điểm này, sự trao đổi ưng thuận
giữa đôi bạn chỉ là chất thể của bí tích; còn lời cầu của linh
mục mới là mô thức của bí tích. Sự khác biệt giữa hai truyền
thống đã được ghi lại trong Sách Giáo Lý Hội thánh công giáo số
1623.