Không thể nói đến
con đường tu đức dành cho những người sống bậc vợ chồng mà không bàn đến
ý nghĩa và mục đích của hôn nhân trong chương trình của Thiên Chúa. Để
có thể nên thánh trong ơn gọi hôn nhân, thiết tưởng cần phải hiểu rõ con
đường mà chính Thiên Chúa đã vạch ra.
1. Theo quan niệm thông thường, quan hệ vợ chồng thường được xem như một
tình cảm tự phát mù quáng. Người ta vẫn nói tình yêu mù quáng. Nhưng
trong chương trình của Thiên Chúa, tình nghĩa vợ chồng không phải là một
hấp lực mù quáng, một sợi tơ hồng của định mệnh mà là một xây dựng để bổ
túc cho nhau. Thật thế, Thiên Chúa đã thiết lập sự bổ túc giữa người nam
và người nữ, đến độ con người không thể là một con người hoàn toàn nếu
không có người khác.
“Con người ở một mình không tốt”. Đó là một trong những khẳng định nền
tảng của Kinh Thánh về con người. Con người vừa là nam vừa là nữ, nghĩa
là người nam không thể tự mình có thể trở thành con người đầy đủ, người
nữ cũng không tự mình có thể trở thành con người hoàn toàn. Trong hôn
phối, hai người trở nên một xác thể và đạt được sự toàn vẹn của mình.
Như vậy, phải chăng những người sống độc thân vì Nước Trời là những con
người không thành toàn? Thật ra, những con người sống độc thân vì Nước
Trời cũng đi vào một cuộc hôn phối. Đó là hôn phối với Giáo Hội, với
cộng đoàn mà họ được chỉ định để phục vụ. Chính nhờ tình yêu dành cho
Giáo Hội, dành cho những con người mình phục vụ mà những người độc thân
vì Nước Trời được thành toàn.
Trong bậc hôn nhân cũng thế. Chính nhờ tình yêu tận hiến cho nhau mà hai
người phối ngẫu được thành toàn. Sự bổ túc mà hai người mang lại cho
nhau không chỉ là xoa dịu nhu cầu nhục cảm mà chính là sự quân bình tâm
sinh lý và trưởng thành nhân cách. Chính nhờ sự bổ túc cho nhau mà mỗi
người phối ngẫu mới có thể đạt được tầm mức viên mãn của Đức Kitô. Trong
chương trình của Thiên Chúa, mỗi người là con đường thành toàn của người
kia. Mỗi người là trường dạy cho người kia biết yêu thương và nhờ đó nên
trưởng thành.
2. Trong chương trình của Thiên Chúa, con cái cũng có một chỗ đứng đặc
biệt. Trong quá khứ, người đời xem con cái như một nhân lực cần thiết
cho công ăn việc làm. Người ta sinh con đẻ cái là để đảm bảo cho gia
nghiệp được trường tồn. Ngày nay, nhiều người xem con cái như một nối
dài của chính mình, sự nối dõi là một trong những bận tâm của nhiều
người. Trong cả hai trường hợp con cái chỉ được quan niệm như một phương
tiện để phục vụ cho một mục đích ích kỷ mà thôi. Trái lại, trong chương
trình của Thiên Chúa, con cái là hoa quả của tình yêu và sự sống. Chỉ
những ai hiểu được giá trị cao cả của sự sống mới khao khát được ban
tặng sự sống. Khi phục vụ sự sống như thế, con người trở thành cộng sự
viên của Thiên Chúa Tạo Hoá. Được có con cái không chỉ mang lại cho con
người niềm vui và sự thoả mãn mà còn khám phá được một giá trị cao cả.
Đó là phục vụ sự sống, sự sống ấy không chỉ là sự sống của một vài
người, nhưng là sự sống của toàn thể nhân loại mà mỗi người đều được mời
gọi để phục vụ.
Trong chương trình của Thiên Chúa, lạc thú trong đời sống vợ chồng cũng
được đặt đúng chỗ của nó. Thông thường, người đời xem lạc thú như là một
mục đích để đeo đuổi, người ta đặt lạc thú trên tất cả mọi giá trị khác
của cuộc sống. Trong chương trình của Thiên Chúa, lạc thú luôn luôn gắn
liền với một giá trị khác. Chẳng hạn chúng ta ăn uống không chỉ vì lạc
thú mà là để được sống hay vì một mục đích khác, như để chia sẻ, để tỏ
tình liên đới. Thiên Chúa ban cho con người lạc thú là để phục vụ sự
sống. Trong đời sống vợ chồng cũng thế, lạc thú là để phục vụ cho tình
yêu và sự sống. Tách biệt lạc thú ra khỏi tình yêu và sự sống, con người
chỉ hành động như thú vật.
Trong chương trình của Thiên Chúa, thời kỳ quen biết và đính hôn cũng có
một ý nghĩa đặc biệt. Ngày nay, nhiều người cho rằng, thời kỳ quen biết
và đính hôn không còn là một chuẩn bị cho đời sống hôn nhân nhưng đã trở
thành một cuộc hôn nhân thử nghiệm, trong đó, hai người nam nữ được sống
thử như đôi vợ chồng thực thụ. Việc đốt giai đoạn như thế dĩ nhiên sẽ
làm cho hai người đánh mất tất cả giá trị và sự cao cả của đời sống vợ
chồng. Những giá trị như sự chung thuỷ và lòng chung thuỷ không còn chỗ
đứng trong cuộc hôn nhân thử nghiệm nữa. Nhưng điều quan trọng hơn là sự
tôn trọng và tinh thần trách nhiệm đối với sự sống cũng bị xem thường.
Trong chương trình của Thiên Chúa, thời gian đính hôn chính là trường
dạy yêu thương cho hai người nam nữ. Trước khi dấn thân vào cuộc sống
hôn nhân, đây là thời gian đào luyện cho chính mình những đức tính cần
thiết cho đời sống chung: như sự tôn trọng nhau, chịu đựng nhau, nhường
nhịn nhau. Đây cũng là thời kỳ giúp họ rèn luyện cho nhau sự trưởng
thành cần thiết bằng cách cùng nhau nhìn vào những trách nhiệm hoặc khó
khăn trong đời sống vợ chồng.
Cuối cùng, trong chương trình của Thiên Chúa, sợi dây bất khả phân ly
của hôn phối được thắt chặt bởi chính tình yêu chứ không bởi bất cứ một
quyền lực nào. Dưới mắt người đời, định chế hôn nhân là một khế ước giữa
một người nam và một người nữ được ràng buộc với nhau bởi những quyền
lợi và bổn phận hỗ tương. Nếu chỉ là một khế ước xây dựng trên một khoản
luật, thì hôn nhân cũng dễ dàng bị huỷ bỏ do lề luật của con người. Đó
là lý do tại sao luật pháp của nhiều quốc gia cho phép ly dị. Hôn nhân
bị xé bỏ một cách dễ dàng vì chỉ được quan niệm như một khế ước.
3. Trong chương trình của Thiên Chúa, hôn nhân là một cộng đồng yêu
thương. Mà bởi vì tình yêu luôn có tính cách chung thuỷ cho nên hôn nhân
cũng mang tính bất khả phân ly. Trong hôn phối, hai người cam kết yêu
thương nhau không phải chỉ trong một thời gian, với một số điều kiện mà
là yêu thương suốt đời và vô điều kiện. Hơn nữa, trong chương trình của
Thiên Chúa, tình yêu bền vững, thủy chung, trọn vẹn, phong phú giữa hai
vợ chồng cũng trở thành một biểu tỏ hữu hình của tình yêu Thiên Chúa đối
với con người.
Khi hai người phối ngẫu cố gắng thực hiện những gì mà Thiên Chúa làm cho
nhân loại, họ sẽ nối dài và hiện thực hoá những hành động yêu thương của
Ngài đối với con người. Khi hai người phối ngẫu thực hiện trọn vẹn ơn
gọi hôn nhân của mình, họ trở thành một mặc khải của Thiên Chúa. Đó
chính là ý nghĩa cao cả của bí tích Hôn Phối mà thánh Phaolô đã nêu
trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô 5, 32: “Mầu nhiệm này thật cao cả. Tôi
muốn nói đến tình yêu của Đức Kitô và Giáo Hội”.
Ơn gọi nên thánh trong bậc hôn nhân chính là trở thành dấu chứng của
tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Nên thánh là được tham dự vào sự
thánh thiện của Thiên Chúa, hay đúng hơn, trở thành một mạc khải sự
thánh thiện của Ngài. Đó chính là con đường nên thánh của các đôi vợ
chồng. |