Close
Free HTML5 Bootstrap Template

About Me

Francisco Assisi. Maria
Nguyễn Yên CRM

Cuộc Đời Đức Mẹ IV Cuộc Đời Đức Mẹ VI

Cuộc Đời Đức Mẹ V

22. Lễ Cắt Bì: Thể theo luật dạy, Mẹ và Thánh Giuse đưa Con đến đền thờ để làm nghi thức cắt bì, mặc dù Chúa Hài Nhi thanh sạch không mắc tội Nguyên Tổ, nhưng để nêu gương trọng lề luật. Mẹ đã ãm Con trên tay như một bàn thờ tế lễ Con mình. Mẹ lấy khăn lót dưới lưng để đón nhận những di tích và máu Con khi chịu cắt bì. Qua nghi lễ cắt bì Chúa Hài Nhi đã dâng hiến Chúa Cha Hằng Hữu 3 lễ vật cao quí là: Chính thân phận tội nhân Ngài mặc lấy - Sự đau khổ Ngài chịu như con người - Tình yêu nhân loại nồng nàn khiến Ngài đổ máu cứu chuộc họ. Ngài lại cảm tạ Chúa Cha cách nồng nàn, vì Cha đã cho Ngài một thân xác có thể chịu đau khổ vì danh Cha để lập công cộng tác vào việc cứu độ loài người. Sau khi lễ cắt bì hoàn tất, Mẹ đã dâng cho Thầy Tư Tế một cây nến để dùng vào việc tế lễ và vài đồ vật nhỏ nữa. Suốt thời gian Hài Nhi chịu đau đớn, Mẹ cũng cảm thông nên không rời Chúa khỏi vòng tay, để Chúa bớt cảm thấy đau đớn. 23. Tiếp kiến các nhà Đạo Sĩ: Sau khi cắt bì cho Chúa, Thánh Giuse muốn bỏ hang đã mang nhiều bất tiện cho Chúa và Mẹ, nhưng Mẹ cùng các Thiên Thần tỏ ý cho biết Thiên Chúa muốn các nhà Đạo Sĩ tới thờ lạy Chúa nơi hang bò lừa này, nên Thánh Giuse biết ý nán lại chờ các Vương Quốc đến. Theo Thánh Kinh ba nhà Đạo Sĩ từ Ba Tư, Ả rập và Saba đi tới. Họ có ý niệm xác thực về Đấng Cứu Thế, nên khi các Thiên Thần đến báo tin, họ nhận thức rõ ràng hơn và thấy mình có trách vụ phải đi triều bái Chúa, nên họ không ngần ngừ lên đường có mang theo lễ vật dâng tế là vàng, nhũ hương và mộc dược. Họ theo ngôi sao lạ đến Giêrusalem thì sao lặn mất, nên phải vào đền vua Hêrôđê dò hỏi nơi vua mới sinh ra. Hêrôđê không biết, nên triệu tập các Thượng Tế hỏi cho biết nơi vị Ấu Chúa mới sinh ra. Hêrôđê được biết sự thể sẽ xẩy ra, nên sai Ba Vua đi tìm và khi về ghé qua báo tin cho ông để ông cũng đến triều bái Ngài. Tìm đến chính nơi ngôi sao đậu, họ thấy Chúa Hài Nhi và Mẹ, họ sấp mình bái kính suy tôn và dâng lễ vật. Cuộc triều bái kéo dài 3 giờ đồng hồ, rồi họ xin phép Mẹ đi tìm nơi tạm trú. Trong giấc ngủ, các Thiên Thần đến báo tin cho họ đi đường khác mà về xứ mình. Các Ngài về xứ, sống trong sự hạnh phúc và đức hạnh cho đến chết. Sau những ngày các vua đến triều bái, Chúa cho một bà nghèo khó đến dâng cho Thánh Gia căn nhà nghèo của bà, để Thánh Gia trú tạm cho tới ngày dâng Chúa trong đền thờ. Còn hang đá thì Tổng Thần Micae sai một Thiên Thần canh giữ không cho một con vật nào vào đó. 24. Dâng Chúa trong Đền Thờ: Theo luật Moisen, khi bà mẹ sinh con trai đầu lòng, phải lên đền thờ để thi hành thủ tục thanh tẩy và dâng con cho Chúa. Mẹ cũng hoàn toàn vâng phục luật đó, cho dù Mẹ hoàn toàn thanh sạch. Tới ngày đã định, Mẹ và Thánh Giuse từ giã phụ nữ đạo hạnh đã cho Mẹ ở nhờ và tặng cho bà một phần số vàng dành để giúp người nghèo, rồi lên Giêrusalem cách đó hai dặm, để hiến dâng Ấu Chúa cho Thiên Chúa Cha trong đền thờ. Hàng vạn các Thiên Thần sáng láng làm thành đoàn rước, vừa đi vừa ca hát mừng Đấng Cứu Thế đi dâng mình. Thượng Tế Simêon và Nữ Tiên Tri Anna được ơn soi sáng, đã tiến đến cửa đền thờ đón Ấu Chúa. Thánh Giuse được Chúa cho cảm thức niềm vui dạt dào, và lòng đầy hân hoan, khi Thượng Tế Simêon ãm Ấu Chúa nâng lên dâng cho Đức Chúa Cha. Ông nguyện rằng: "Xin Chúa cho con thác bình an, vì con đã được nhìn xem Đấng Cứu Chuộc dân Người". Ông còn nói: Mẹ sẽ bị một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn vì con trẻ, nhưng cũng vì con trẻ mà nhiều dân tộc được đứng vững. Sau cùng bà Anna cũng nói lên nhiều điều mầu nhiệm, về ơn cứu chuộc cho tất cả những ai đợi chờ Ngài đến. Thánh Giuse cũng được Chúa Thánh Linh soi cho hiểu, về các lời tiên tri ấy, nhưng không hiểu thấu bằng Mẹ. Nghi lễ xong, Mẹ hôn tay vị Thượng Tế và bà Anna, người dạy dỗ Mẹ bao năm tháng trong đền thờ, rồi Mẹ trở lại nhà trọ. 25. Đem Con lánh nạn Ai Cập: Sau nghi lễ dâng hiến Chúa, Mẹ ở lại Giêrusalem 9 ngày để tạ ơn. Bỗng đêm ấy là đêm thứ sáu, Thánh Giuse quằn quại mãi không ngủ được. Bỗng Tổng Thần Gabriel hiện đến truyền lệnh cho Ngài: "Hãy chỗi dậy đem Con Trẻ và Mẹ Ngài sang nước Ai Cập lánh nạn. Và cứ ở đó cho tới khi Ta báo lại". Ngay lúc ấy, Giuse chỗi dậy vừa bàng hoàng vừa cẩn trọng, chạy đến nói với Mẹ về tin sửng sốt ấy. Mẹ tin tưởng và vâng nghe, đến ãm con tức tốc lên đường giữa đêm khuya, đem theo con lừa nhỏ. Các Thiên Thần lại hiện ra tháp tùng dẫn Thánh Gia đi nhắm thẳng đường qua Hebron. Ở Hebron có nông trại của gia đình ông Giacaria và bà Elizabeth, Mẹ muốn ghé thăm ông bà nhưng Thánh Giuse không đồng ý, sợ rơi vào nguy hiểm. Mẹ chỉ được sai Thiên Thần đến báo tin cho ông bà hay về biến cố sẽ xẩy ra và khuyên ông bà cẩn trọng bảo toàn Gioan Tẩy Giả. Tới gần Địa Trung Hải, Mẹ tạm nghỉ ở đây hai ngày, vì Thánh Giuse đã quá mệt và con lừa con cũng không còn đủ sức đi tiếp. Bà Elizabeth cho người chạy theo mang lương thực và các đồ dùng cho Mẹ, nhưng Mẹ dành để phân phát cho người nghèo. Cứ như thế, Thánh Gia vượt qua hơn 60 dặm đường quanh co, cô quạnh, trước khi đến Cairô thủ đô của Ai Cập. Mẹ và Thánh Giuse đã chịu biết bao đau khổ nhọc nhằn, chịu cảnh màn trời chiếu đất trong cảnh trời đông, lương thực cũng hết, đến lúc phải phó mặc cho Chúa quan phòng giúp đỡ. Chúa sai các Thiên Thần đem lương thực đến cho Mẹ và Thánh Giuse, sai chim trời đến múa vui cho Chúa Hài Đồng. Sau chuỗi ngày dong duổi dặm đường, Mẹ tới được Heliopoli mất 50 ngày trời. Nơi Ai Cập là phần đất nghèo, lại bị ma qủi hãm hại, nên Chúa đã ra tay xua đuổi ma qủi và cứu thoát nhiều người bị chúng ám hại. 26. Lưu lại Ai Cập: Sau khi dừng ở lại một vài thành phố quan trọng như Memphi, Matarie, gia đình Mẹ quyết định cư trú tại Heliopoli. Thánh Giuse mua được một căn nhà nghèo ở vùng ngoại ô, chẳng có đồ đạc gì theo ước muốn của Mẹ. Vừa vào nhà, Mẹ cúi hôn đất cách khiêm nhượng và cám ơn Chúa đã cho chỗ trú ngụ. Mẹ hứa sẽ chịu mọi cảnh thiếu thốn của một người di cư. Mẹ thu dọn nhà cửa, kiếm lương thực bố thí độ thân, vì Mẹ không muốn cầu xin ơn cứu độ của Chúa, như khi đi rong ruổi nơi sa mạc nữa. Khi Thánh Giuse kiếm được việc làm, dành dụm được chút tiền, Thánh Giuse làm được cái phản cho Mẹ và Chúa Hài Nhi, còn Ngài thì nằm đất. Tuy nghèo nhưng Mẹ không hề tiếc nuối dĩ vãng, cũng không hề lo cho tương lai, chỉ một niềm hoan hỉ, bình thản và phó thác. Căn nhà có 3 gian, một phòng cho Mẹ và Ấu Chúa, một phòng cho Thánh Giuse và một phòng để làm việc. Mẹ sống tốt với người xung quanh, nên họ đã đem đến cho Mẹ nhiều việc làm không thiếu. Ấu Chúa vạch cho Mẹ một chương trình: 9 giờ ngủ. Nửa đêm thức dậy cầu nguyện và suy gẫm tới sáng. Ban ngày làm việc suốt, vì Mẹ không muốn xin phép lạ để nuôi sống. Khi làm việc Mẹ quì bên nôi Chúa, vừa làm vừa vui với con, hát Thánh Vịnh cho con nghe. Thú giải lao êm dịu nhất của Mẹ là bồng ãm Con Chí Ái, hoặc trao cho Thánh Cả ãm rồi đùa dỡn cho con vui. Khi vừa đến, các ngẫu tượng và chùa chiền của họ đều bị phá, khiến dân thành hoang mang không ít. Trái lại, Chúa cũng cứu giúp người ta và soi cho họ biết đàng ngay nẻo chính. Mẹ cũng săn sóc cứu giúp những ai yếu đau bệnh tật nữa. Vì thế suốt 7 năm lưu lạc Mẹ làm rất nhiều sự lạ để giúp họ trở về. Ai Cập xứ nóng nên sinh ra nhiều bệnh tật, Mẹ phải xin Ấu Chúa cho phép Thánh Giuse được quyền làm phép lạ chữa bệnh cho họ, nên Thánh Giuse lo chữa nam giới, Mẹ chữa nữ giới và ai cũng được trở về lành mạnh cả xác lẫn hồn. 27. Lệnh giết các con trẻ: Tại quê nhà xẩy ra việc vua Herôđê tầm nã Ấu Chúa. Vì không tìm được, nên ông nổi giận đến sôi máu, ông ra lệnh giết hết các trẻ dưới 2 tuổi trong vùng Belem, với thâm ý là giết được cả Tân Vương Do Thái mới sinh ra. Thời gian ấy Mẹ đang ãm Chúa, Mẹ nhìn qua tâm hồn Chúa như một tấm gương soi, hiện đủ mọi chi tiết của tấm kịch đẫm máu. Các em đều được phúc tử đạo vì chết thay cho Ấu Chúa. Các Anh Hồn ấy đều được các Thiên Thần dẫn xuống ngục Tổ Tông. 28. Số phận Gioan: Mẹ hỏi Chúa về số phận của Gioan cháu của Mẹ ra sao, thì Chúa cho biết: Tư Tế Giacaria qua đời sau khi Chúa sinh ra được 4 tháng, tức là gần 3 tháng sau khi Mẹ rời Giêrusalem đi Ai Cập. Bà Elizabeth được Thiên Thần báo tin, nên đem con trốn lên hang núi. Bà qua đời tại đó sau 3 năm sống giữa muôn ngàn thiếu thốn và tiện nghi. Còn Gioan phải ở lại đó cho tới khi ra đi làm sứ mệnh. Biết thế, nên Mẹ được Chúa cho phép sai Thiên Thần đem lương thực giúp cháu. Khi Thánh Nữ Elizabeth từ trần, các Thiên Thần đã an táng bà trong rừng và coi sóc con trẻ Gioan thay Mẹ, cho tới khi Gioan liệu được cho mình. 29. Thiếu thời của Chúa: Phần Chúa Giêsu vẫn là hạnh phúc bên Mẹ và Thánh Giuse trong cảnh lưu đầy. Theo ý Ấu Chúa, Mẹ chỉ sắm cho Ngài một cái áo và một đôi giầy theo kiểu người nghèo trong dân, vì Ngài muốn làm gương khó nghèo cho mọi người. Quần áo lớn lên với Chúa mà không bao giờ sờn rách, không dây vết, không phai màu. Chiếc áo mà Chúa Giêsu cởi ra, khi rửa chân cho các Môn Đệ, cũng có đặc tính y như áo mặc trong. Khi Chúa lớn, Mẹ thường dọn cho Chúa 3 bữa ăn và chính Chúa làm phép, cầu nguyện trước và sau bữa ăn. Chúa dành nhiều thì giờ để cầu nguyện, có lúc đến rướm máu. Mẹ lau cho Chúa mới hiểu được Chúa buồn vì loài người tệ bạc. Lên 6 tuổi, Chúa bắt đầu ra khỏi nhà để đi giúp người ta, nhất là người bệnh tật đau ốm. Lời nói khôn ngoan và phong cách của Chúa cũng chinh phục được nhiều người, họ cảm phục và mến yêu. Chúa lớn lên càng thêm tuổi càng thêm phong độ. Dung mạo Chúa in sâu những nét uy nghi cao cả, Chúa lại rất nhân từ và khôn ngoan thu hút lòng người. 30. Cuộc sống trở về Nazareth: Một hôm Sứ Thần đến báo tin cho Thánh Giuse đem Mẹ và Chúa Giêsu về thành Nazareth. Thế là Mẹ và Thánh Giuse đem hết của bố thí cho người nghèo, còn nhà cũng cho người ta ở. Lúc đi thế nào, lúc về thế vậy. Các Thiên Thần hộ tống Mẹ đi. Tới đâu Chúa và Mẹ thi ân tới đó. Sau cùng cũng tới được thành Nezareth quê hương mình. Căn nhà tổ tiên Mẹ để lại cho người bà con ba đời của Thánh Giuse coi giữ vẫn còn nguyên vẹn, không gì thay đổi. Vào nhà Mẹ sấp mình cảm tạ Chúa đã đưa gia đình Mẹ về bình an. Nhưng từ đây những sự thử thách mới sẽ đến với Mẹ. Chúa Giêsu có giọng nói cao kỳ, cứng cỏi, vè mặt nghiêm nghị bất ngờ của Chúa, đã trở nên lò lửa luyện lọc vàng tình yêu của Mẹ thêm tinh ròng hơn, rực rỡ hơn. Chúa Giêsu muốn Mẹ phải thử nếm đau khổ, cho tới mức đồng công được với Ngài trong việc cứu chuộc. Năm lên 12 tuổi, Mẹ cùng gia đình lên dự lễ Vượt Qua suốt 7 ngày. Ngày cuối cùng khi trở về, Chúa Giêsu đưa Mẹ vào cuộc thị kiến, khiến giác quan Mẹ không còn cảm thấy những gì xẩy ra xung quanh nữa. Còn Thánh Giuse thì Chúa để Người chiêm ngắm và suy tưởng những sự trên trời, cứ tin rằng Chúa Giêsu đi với Mẹ. Cả ba đi đến cửa thành thì Chúa Giêsu lìa cha mẹ mà ở lại. Khi thôi chiêm niệm thì không thấy Chúa Giêsu đi với mình nữa. Mẹ nghĩ, Chúa Giêsu đi với Thánh Giuse, Thánh Giuse lại nghĩ Mẹ không thể lìa con, Với niềm tin đó cả hai cùng bình thản tiến bước suốt một ngày đàng. Khi tới nơi hẹn gặp nhau qua đêm, Mẹ và Thánh Giuse mới ngỡ ra Chúa không đi với ai cả. Mẹ và Thánh Cả đau đớn không sao nói lên lời, ai cũng nhận lỗi tại mình mà lạc mất Chúa. Nỗi đau đớn càng gia tăng hơn cả khổ hình tử đạo, khi không tìm ra tông tích hỏi han. Hỏi các Thiên Thần thì không nói, trái lại Mẹ muốn đi nơi nào các ngài cũng ngăn cản, thế là Mẹ phải trở lại đền thánh. Thánh Giuse cũng hết sức đau buồn, nhất là thấy nỗi đau mất con của Mẹ. Cả hai cùng tiến vào đền thờ, thấy Ngài đang ngồi hội họp với các Luật Sĩ, tranh-bàn luận-hỏi về Đấng Cứu Thế. Khai quang cho họ, khiến mọi người phải thán phục. Còn Mẹ và Thánh Giuse thì quá đỗi ngạc nhiên và lòng tràn ngập hạnh phúc vì đã thấy được con. Mẹ quì xuống xin lỗi Chúa và xin Chúa đừng để vắng mặt Chúa nữa. Chúa rất hài lòng và hứa suốt thời gian còn lại cho tới khi phải vâng ý Chúa Cha sẽ tùng phục Mẹ. Để Mẹ và Cha Thánh có đủ khả năng chỉ huy một Người Con cao trọng duy nhất loài người, Chúa ban cho Mẹ và Cha Thánh tràn ngập niềm vui thánh thiện, khi Chúa tuân nghe những lời Mẹ và Cha Thánh chỉ dạy và suốt những ngày còn lại, Chúa lại không ngừng hoàn thiện hóa Mẹ đến độ siêu việt, để hoàn thành tất cả các ân sủng: Nhiệt tâm, sốt sáng, sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chết trong tâm hồn, chia sẻ và cộng tác vào công nghiệp của Chúa Cứu Thế. Chúa còn mạc khải cho Mẹ hiểu thấu về toàn bộ Thánh Kinh Cựu và Tân Ước, và thấu đáo ý nghĩa siêu nhiên về Giáo Hội và các Nhiệm Tích Thánh, trước cuộc giảng dạy công khai của Chúa Cứu Thế Con Mẹ. Chính Mẹ sẽ thực hành và sống đầy đủ trước khi mọi điều đó được hoàn thành, vì Mẹ là Nữ Vương của lề luật, của Giáo Hội, của Ân Sủng và Bí Tích. Cuộc đời Mẹ hòa nhập với Con Cứu Thế, cho đến khi Mẹ được 33 tuổi là tuổi hoàn bị, tuổi phát triển đầy đủ. 31. Thánh Giuse lúc về chiều: Thánh Giuse tuổi chưa cao mấy, nhưng vất vả vì Mẹ quá nhiều. Mẹ thương Bạn Thánh và xin Bạn Thánh nghỉ ngơi không làm việc nữa. Các dụng cụ của Ngài Mẹ đem cho các bạn nghèo. Từ đó Thánh Giuse chuyên chú chiêm niệm, suy ngắm và đạt tới đỉnh thánh thiện vượt xa loài người, chỉ kém một mình Mẹ. Mẹ cũng để tâm săn sóc Ngài cách ân cần mà một người già nua bệnh tật phải có. Trong suốt 8 năm trời chịu đủ chứng bệnh và tình yêu Chúa nung đốt đến như chết được. Mẹ cảm phục sự nhẫn nại, sự chịu đựng không hé môi phàn nàn, không thốt lời thở than, không đòi hỏi ủi an. Mẹ luôn ở bên cạnh để nâng đỡ trong lúc lão nhược. Trong 3 năm cuối đời, Mẹ không hề rời xa Ngài một bước. Khi Mẹ cần phải vắng nhà thì Chúa Giêsu thay chỗ Mẹ, nên không một bệnh nhân nào được phục dịch kỹ như vậy. Mẹ cũng còn xin Chúa cho phép Mẹ chịu đau đớn thay cho Ngài, hoặc sai Thiên Thần tăng thêm nghị lực, để Ngài khuây khỏa mà ca ngợi Thiên Chúa. Khi thấy Thánh Cả đã gần đến giờ lìa đời, Mẹ xin Con Giêsu cho Ngài hưởng một cái chết đẹp mắt Chúa. Chúa lại cho Ngài được nhìn thấy yếu tính của Chúa Ba Ngôi, thấy Ngôi Lời Nhập Thể. Thấy Giáo Hội và kho tàng nhiệm tích mà Chúa Giêsu Con Ngài thành lập cho các Thánh. Linh hồn Ngài cũng được thần hóa. Thánh Cả lại xin Chúa Giêsu và Mẹ tha thứ lỗi lầm cuộc sống và chúc lành cho mình. Chúa Giêsu ôm lấy Ngài, để Ngài tựa đầu trên cánh tay và Ngài trút hơi thở cuối cùng. Chúa khép mắt cho Thánh Cả, đoạn cùng Mẹ và các Thiên Thần cất lên những khúc ca chào mừng Thánh Cả và dẫn đưa linh hồn Ngài xuống ngục Tổ Tông. Được các Thánh tiếp rước tưng bừng, vì nhận thấy vinh quang tuyệt vời chiếu dãi trên Thánh Cả. Ngài chết không phải vì đau đớn của bệnh tật, nhưng vì lòng yêu mến Chúa thiêu đốt nung nấu trong lòng. Thiên Chúa đã mặc cho thi thể Thánh Cả một ánh sáng rực rỡ, chỉ để người ta thấy được gương mặt tươi tỉnh và hương thơm thánh thiện. Thánh Giuse được Thiên Chúa phôi dựng như một hạt giống tốt trong thửa đất phì nhiêu Chúa đã dọn sẵn. Dựng thai đến ngày thứ bảy Ngài được ơn thoát khỏi tội Nguyên Tổ và tình dục, nên suốt đời Ngài không cảm nghiệm một xúc động xấu xa nào. Lúc sinh ra, Ngài là một thơ nhi mĩ miều, mang lại cho cha mẹ một niềm vui khác thường, giống như Gioan Tẩy Giả khi sinh ra. Lên 3 tuổi, Thánh Cả có đủ trí khôn và một trí thông minh Thiên phú, suy niệm tuyệt vời. Các nhân đức mỗi ngày một tăng triển, nhất là nhân đức khiết tịnh cao cả, và sáng ngời vượt trên cả các Luyến Thần. Vì lẽ Chúa muốn dùng Ngài để lập thân với Mẹ. Ngoài ra, Ngài còn tập được đời sống nhân đức suốt 60 năm cộng thêm mấy ngày. Ngài sống chung với Mẹ 27 năm và lúc qua đời Ngài thọ 60 tuổi 6 tháng. Thiên Chúa ban cho Thánh Cả nhiều đặc ân để, Ngài cứu giúp những ai chạy đến xin Ngài cầu bầu. Đặc biệt Ngài hay ban xuống những ơn này: 1. Lướt thắng cám dỗ nghịch đức trong sạch. 2. Sám hối bỏ đàng tội lỗi. 3. Tôn sùng Mẹ Đồng Trinh. 4. Khoẻ mạnh về phần xác. 5. Được ơn An ủi lúc gặp đau khổ. 6. Được ơn chết lành. 7. Có người thừa tự trong gia đình Công Giáo. Vì thế ma quỉ rất sợ danh Thánh Ngài. 32. Đời sống quả phụ của Mẹ: Từ khi sống đời quả phụ, Mẹ hằng nhìn ngắm linh hồn Con Chí Thánh Mẹ, để hiệp nhất với lời Chúa nguyện cầu. Mẹ làm việc mỗi ngày ít giờ để lo chút lương thực thôi. Mẹ và Chúa thường ăn lúc 6 giờ chiều với bánh khô, đôi khi thêm trái cây, rau, cá. Mẹ quỳ gối hầu bàn cho Chúa với niềm kính tin, yêu mến. Ngoài ra còn giờ Mẹ cầu nguyện và đi làm việc từ thiện cứu giúp người ta. Chúa Giêsu thì lo sửa soạn cho công trình cứu chuộc của Ngài. Mẹ là Mẹ Đồng Công nên đem tất cả tâm hồn theo dõi và cộng tác. Ngài rất thương các linh hồn, nhiều khi suy nghĩ đến mướt máu và suy nhược. Mẹ phải ra lệnh cho các Thiên Thần nâng đỡ Ngài. Có những lúc xuất thần Mẹ nhìn thấy Chúa vạch những kế hoạch để chinh phục các Tông Đồ, Chúa cũng cho Mẹ thấy, Mẹ là người phải lo hỗ trợ Giáo Hội, phải chịu đựng và tu sửa lỗi lầm của các Tông Đồ trong việc quản cai Giáo Hội nữa. 33. Chúa chuẩn bị rao giảng: Tới năm 27 tuổi, Chúa bắt đầu rao giảng Tin Mừng bằng kinh nguyện, chay tịnh, bằng cải thiện cho nhiều người. Đôi khi vắng nhà cả hai ba ngày liền. Trong những ngày ấy, các Thiên Thần cung cấp tin tức cho Mẹ theo lời Mẹ xin. Chúa đi khắp nơi, ra khỏi cả thành Nazareth nữa, để loan báo về Ơn Cứu Độ. Lời Chúa nói kèm theo ân sủng cao quí sinh ra nhiều hiệu quả lạ lùng. Ngoài ra, người ta còn say sưa vì vẻ đẹp oai nghi và đức hiền từ của Chúa. Chúa ủi an người sầu khổ, nâng đỡ người cùng cực, viếng thăm người bệnh tật, khuyên giúp người hấp hối, reo rắc ánh sáng, sức mạnh và ơn cứu rỗi khắp nơi. Mẹ gần như lúc nào cũng là nhân chứng và đồng công vào những việc lạ lùng đó. Tuy nhiên, Mẹ đặc biệt thực thi đức bác ái đối với nữ giới, còn Chúa Giêsu cho nam giới. Những người nghèo khó là những người được thụ hưởng tình thương của Chúa hơn hết, vì họ khiêm nhường, ôn hòa hơn và ít bị ràng buộc với trần thế hơn. 34. Gioan Tiền Hô: Gioan Tiền Hô sống trong rừng vắng. Ông chỉ tiếp xúc với Thiên Chúa và các Thiên Thần. Khi ông lên 30 tuổi, ông được Chúa cho xem thấy quãng đời cứu chuộc của Chúa Kitô và được lệnh lên đường loan báo Người xuất hiện. Ông đi chân không, mặc áo lông lạc đà, thắt dây lưng da thú. Gương mặt gầy nhưng đượm vẻ phong thái oai nghiêm. Ông rất khiêm nhu, nhã nhặn, can đảm và sốt sáng. Giọng nói của ông thật sống động, hăng nồng, đúng điệu cách để nói dân chai đá đã từng bị các dân đè nén. Ông bỏ rừng vắng và nhờ các Thiên Thần mang tặng Mẹ một cây Thánh Giá chính các Thiên Thần làm cho ông và ông thường nằm lên để cầu nguyện. Mẹ nhận Thánh Giá để trong phòng Mẹ cùng với Thánh Giá Chúa đã tự đóng cho mình. Sau khi Mẹ qua đời các Tông Đồ giữ làm di bảo. Gioan rao giảng sự sám hối và loan báo về Đấng Cứu Thế sẽ đến.