Close
Free HTML5 Bootstrap Template

About Me

Francisco Assisi. Maria
Nguyễn Yên CRM

<Trở Lại Trang

BÀI CHIA SẺ LỄ MẸ DÂNG MÌNH

Hãy Vui Mừng

L.m. Phêrô, CRM

I. ĐỨC TRINH NỮ MARIA DÂNG MÌNH TRONG ĐỀN THỜ THEO THÁNH KINH, THÁNH TRUYỀN VÀ DÃ SỬ

A. Thánh kinh diễn tả
1. Cựu ước. Ngôn sứ Giacaria tiên tri: "Hãy nhiệt liệt nhảy mừng, hỡi thiếu nữ Sion!" (9:9). "Hãy reo lên, hãy vui mừng, hỡi nữ tử Sion!" (2:14). Và Sôphônia tiên báo: "Hãy reo lên, thiếu nữ Sion!" (3:14).

Theo một số nhà diễn giải Thánh Kinh, tư tưởng "vui mừng" trong những lời tiên tri trên đây trùng hợp với tư tưởng "vui lên" trong Thánh sử Luca 1:28: "Vào nơi Trinh Nữ Maria ở, thiên thần nói: "Vui lên! Hỡi Người đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Người". Do đó, thiếu nữ Sion là hình ảnh Trinh Nữ Maria. Công Đồng Vaticanô II cũng gọi Người là Thiếu Nữ Sion với những lời đẹp đẽ sau đây: "Người (Đức Maria) trổi vượt trên các người nghèo khó và khiêm nhượng của Chúa, là những người tin tưởng hy vọng và lãnh nhận ơn Cứu rỗi nơi Chúa... Sau thời gian lâu dài trông đợi lời hứa được thực hiện, thời gian đã nên trọn và nhiệm cuộc mới được thiết lập với Người, người Thiếu Nữ Sion cao sang..." (LG, 55). Như vậy, Mẹ Maria bắt đầu tham dự vào nhiệm cuộc Cứu rỗi của Con Mẹ từ khi Mẹ dâng mình trọn vẹn cho Thiên Chúa trong Đền thờ rồi được chào mừng: "Vui lên! Hãy nhiệt liệt vui mừng!"

2. Tân ước. Trong Thánh sử Matthêu 12:46-49: "Chúa Giêsu đang nói với dân chúng... có kẻ thưa Ngài rằng: Mẹ Thầy và anh em Thầy đứng ngoài tìm cách nói với Thầỵ. Đáp lại, Ngài bảo: 'Ai là Mẹ Ta và ai là anh em Ta?' Và giơ tay chỉ các môn đệ, Ngài nói: 'Này là Mẹ Ta và anh em Ta'". Chúa có ý nói rằng ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải từ bỏ mối liên hệ gia đình để thuộc trọn về Thiên Chúa, nhất là từ khi còn nhỏ. Như vậy đối với Trinh Nữ Maria, lý tưởng thuộc trọn về Chúa là tuyệt đối và là thực tại sâu xa nhất của đời sống Người. Và Mẹ bắt đầu sống lý tưởng đó từ khi lên ba tuổi, khi Mẹ dâng mình cho Chúa trong Đền thờ.

B. Thánh truyền lưu ngôn
Theo luật Maisen và lời khấn hứa với Thiên Chúa, hai Thánh Gioakim và Anna đã dâng Ấu Nhi Maria cho Thiên Chúa. Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê cho biết Trinh Nữ Maria khi vừa lên 3 tuổi đã được cha mẹ dâng vào Đền thờ Giêrusalem. Tuy còn thơ bé nhưng đã đầy ơn Chúa, Nữ Nhi Maria sung sướng thoăn thoắt bước thang lên đền. Trong dịp đặc biệt này, Nữ Nhi Maria đã khấn cùng Chúa trọn đời sống đồng trinh, tự dâng mình toàn hiến phụng sự Chúa và hoan hỉ ở lại chung sống với các trinh nữ trong Đền thờ. Việc Đức Mẹ dâng mình vào Đền thờ Giêrusalem đã được Thánh Evodiô ghi chép. Thánh Evodiô là một trong bảy mươi hai môn đệ của Chúa Giêsu và là Giám mục thành Antiokia trước Thánh Inhaxiô. Theo truyền thống của Giáo hội, việc Đức Mẹ dâng mình vào Đền thờ là mẫu gương tận hiến phụng sự Chúa cho các linh hồn tận hiến như linh mục, tu sĩ nói riêng, và lứa tuổi thanh xuân nam nữ nói chung.

Theo Thánh Đamascenô, Nữ Nhi Maria lớn dần với đầy đủ mọi nhân đức, bỏ ngoài những tư tưởng phàm tục mà chỉ hưởng hương thơm Thiên đàng, và chân Người nghiêm chỉnh đi trong đường lối giới luật Chúa. Người sống rất gương mẫu về công, dung, ngôn, hạnh, biểu lộ một vẻ diễm lệ "mười phân vẹn mười." Với y phục nết na, dáng điệu đoan trang, tiếng nói dịu dàng, gương mặt tươi sáng luôn phản chiếu một tâm hồn trinh trong đầy đức, xứng đáng với chức phẩm Thiên Mẫu mai sau.

C. Dã sử trình thuật
Biến cố Trinh Nữ Maria dâng mình trong Đền thờ chỉ được dã sử theo Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê trình thuật tỉ mỉ: "Thánh Gioakim và Thánh Anna son sẻ. Khi một thiên thần hiện ra với Thánh Anna, bà hứa nếu sinh được một người con, bà sẽ dâng cho Chúa. Khi sinh ra Nhi Nữ Maria, bà Anna không cho sơ sinh Maria được tẩy uế theo luật. Ngày tháng qua, Nhi Nữ Maria lên hai tuổi, Thánh Gioakim nói với Thánh Anna: 'Chúng ta hãy đưa Con trẻ lên đền để thể hiện lời hứa của chúng ta, không thì Chúa sẽ giáng hoạ trên chúng ta, và của lễ chúng ta không được chấp nhận.' Thánh Anna trả lời: 'Chúng ta hãy đợi đến năm thứ ba, để Con trẻ không còn lưu luyến cha mẹ.' Thánh Gioakim nói: 'Được!' Và khi Nhi Nữ Maria lên ba tuổi, Thánh Gioakim nói: 'Chúng ta hãy gọi các thiếu nữ Do Thái trinh trong đến và cho mỗi cô một cây đèn thắp sáng để Con trẻ hướng về Đền thờ, không lưu luyến ngó lại.' Và tất cả lên đền. Thầy tư tế ôm hôn và chúc lành Nhi Nữ Maria và nói: 'Chúa đã ca ngợi danh Con giữa mọi thế hệ. Vì Con, Chúa sẽ tỏ lộ ơn Cứu độ cho con cái Israel cho đến ngày tận thế. Rồi thầy tư tế đặt Con trẻ lên cấp thứ ba của bàn thờ và Thiên Chúa đổ ơn xuống trên Con trẻ làm cho Con trẻ nhảy mừng. Toàn thể nhà Israel yêu mến Nhi Nữ Maria. Cha mẹ Nhi Nữ ngạc nhiên, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa toàn năng, vì Nhi Nữ không trở về với các ngài nữa. Nhi Nữ Maria ở trong Đền thờ được nuôi dưỡng như một chim bồ câu do tay một thiên thần'".

II. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ

1. Bên Đông phương, lễ Mẹ dâng mình đã có từ thế kỷ VII, và liên quan tới lễ cung hiến Đền Thờ mới của Đức Trinh Nữ Maria tại Giêrusalem. Đền thờ này được hoàng đế Giustianô (527-565) kiến thiết. Nhưng rồi thánh đường này bị quân Ba Tư tàn phá. Thánh Grêgôriô Nyssa, Thánh Grêgôriô Nazian, Thánh Epiphanô, Thánh Gioan Kim khẩu đã giảng thuyết về lễ Đức Mẹ dâng mình. Đến thế kỷ VIII Thánh Germanô, Thượng phụ Giáo chủ Constan-tinopoli kiến thiết một đền thờ khác cung hiến và dâng lễ Đức Mẹ dâng mình. Sang thế kỷ IX, Giáo chủ George Nicomedia (chết sau 880) soạn kinh lễ Đức Mẹ dâng mình. Đức Phaolô VI chứng nhận lễ Mẹ dâng mình phát xuất từ Đông phương. Ngài viết: "Còn có những lễ dựa theo truyền khẩu có giá trị tuyệt diệu và gương mẫu và tiếp tục truyền thống đáng kính có ngọn nguồn đặc biệt từ Đông phương, như lễ Rất Thánh Trinh Nữ Maria dâng mình ngày 21 tháng 11".

2. Bên Tây Phương, lễ Đức Mẹ dâng mình được mừng tại các đan viện miền Nam nước Ý từ thế kỷ IX và bên Anh từ thế kỷ XIV. Quãng năm 1371, Sứ thần Toà thánh tên là Philippê de Maizières tại đảo Cyprô nhận thấy lễ Đức Mẹ dâng mình được mừng trọng thể tại đây, ngài đã xin với Đức Grêgôriô XI ban phép mừng tại giáo triều Avignon (Pháp). Năm 1472 Đức Sixtô IV truyền dạy lễ này được mừng khắp Giáo hội vào ngày 21 tháng 11 hằng năm, nhưng Đức Thánh Piô V đã đình chỉ lại. Năm 1585 Đức Sixtô V đã tái lập lại lễ này.

III. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ

Đức Trinh Nữ Maria dâng mình trong Đền thờ để trọn đời hiến thân cho Thiên Chúa, và phục vụ công trình cứu chuộc loài người. Thiết lập Lễ Đức Mẹ dâng mình, Giáo hội cảm tạ Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria trong hàng con cái loài người. Chuẩn bị người lên chức phẩm cao sang làm Mẹ Chúa, và đồng công cộng tác trong công cuộc Cứu thế. Đồng thời, Giáo hội tôn vinh ngợi khen Đức Trinh Nữ đã sẵn lòng tuyệt đối tận hiến mình cho Thiên Chúa và Giáo hội cũng khuyến khích mọi người noi gương Mẹ dâng mình cho Chúa, để sống với Chúa và cho nhiệm cuộc cứu rỗi của Người.

Ngày nay có những dòng tu và từng đoàn người giáo dân nô nức hướng theo lý tưởng cao quí đó bằng việc tận hiến cho Đức Mẹ, để noi gương Mẹ toàn hiến cho Chúa Giêsu. Với những tâm hồn tận hiến như Mẹ Maria, Thiên Chúa được phụng thờ trong tinh thần và chân lý (x. Ga 4:23). Cũng như Mẹ Maria, họ áp dụng lời dân Do Thái hứa với ông Maisen: "Mọi điều Thiên Chúa phán, chúng tôi sẽ thi hành và nghe theo" (Xh 24:7). Họ cũng vâng nghe lời Mẹ dạy: "Các con hãy làm bất cứ điều gì Người bảo các con" (Ga 2:5) nghĩa là vâng giữ chẳng những các lời dạy, mà cả những lời khuyên của Phúc Âm. Lời Chúa khuyên dạy quan trọng nhất là: "Các con hãy nên thánh vì Ta là Thánh"

(Lv 19:2). Lời này gồm hai ý nghĩa: Thiên Chúa thánh hiến các linh hồn tận hiến để họ chia sẻ sự thánh thiện của Người và ngoan ngoãn đáp lại việc ưu tuyển của Chúa.

Thánh Anphong kêu gọi: "Chúng ta hãy mô phỏng Nữ Nhi chí thánh Maria. Mẹ đã mau mắn và tận hiến toàn thân cho Chúa. Hôm nay chúng ta cũng hãy mau mắn tận hiến toàn thân chúng ta cho Mẹ, và cầu xin Mẹ dâng chúng ta lên Thiên Chúa. Chúng ta đừng sợ Chúa sẽ xua đuổi chúng ta, một khi thấy chúng ta được hiến dâng lên qua tay Mẹ Maria là Đền Thờ của Chúa Thánh Linh, là nguồn hoan lạc của Chúa, và là Mẹ tuyệt vời của Ngôi Lời vĩnh cửu. Chúng ta hãy cậy trông rất nhiều nơi Nữ Vương cao cả và uy linh của chúng ta".

IV. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ

Bài đọc I: Dacaria 2:14-17.

Phần nhất sách Tiên tri Dacaria (1-8) nói về tình trạng dân Do Thái được hồi hương năm 538 trước Chúa Giêsu. Thiếu nữ Sion là Giêrusalem reo vui vì Chúa ngự giữa. Nhiều dân tộc sẽ đến với dân Chúa. Nước Giuđêa sẽ được gọi là đất thánh, là lãnh địa của Chúa. Dân chúng sẽ im lặng lắng nghe tiếng Chúa vì Người lại ra tay cứu dân Người và hiển ngự trong Đền thờ.

Một số nhà diễn giải Thánh kinh tin rằng bài đọc này dường như hoạ phác thời thơ ấu của Chúa Giêsu của Thánh sử Luca, và hình dung Trinh Nữ Maria là Thiếu Nữ Sion. Sion là trại tạm cư phía bắc ngoài thành Giêrusalem đối diện với nước Assyria là thù nghịch của Do thái, vì trại tạm cư này là nơi ở của dân vô gia cư, là dân nghèo khổ chỉ cậy trông vào Chúa. Tình cảnh này cũng được mô tả trong sách Tiên tri Mica, 4:9-10, là tình cảnh nghèo khổ của thiếu nữ Sion tượng trưng Đức Trinh Nữ Maria. Nhưng ngược lại, Công đồng Vaticanô II lại diễn tả Đức Maria là Thiếu Nữ Sion trổi vượt trên các người khiêm nhượng và khó nghèo của Chúa là những người tin tưởng hy vọng và lãnh nhận ơn Cứu độ nơi Chúa. Nhất là Thiếu Nữ Sion cao sang khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại nơi Ngài để giải thoát con người khỏi tội lỗi (LG, 55).

Phúc Âm: Matthêu 12:46-50

Trong câu nói: "Bất cứ ai làm theo ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời, là anh chị em và là mẹ Ta" (12:49), Chúa Giêsu có ý dạy rằng ai muốn làm môn đệ Chúa thì phải vượt ngoài liên hệ gia đình. Cũng như Chúa nói: "Cứ theo Ta, và để kẻ chết chôn cất người chết" (Mt 8:22). Và: "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không xứng với Ta" (Mt 10:37). Chúa giải thích rằng thánh ý Chúa Cha là cách thế thân ái với Ngài và vượt trên tình nghĩa gia đình. Nhưng ở đây Chúa tôn vinh Mẹ Người đã toàn hiến cho Thiên Chúa ngay từ hồi niên thiếu. Và đối với Mẹ Chúa Kitô, thánh ý Chúa Cha là tuyệt đối, và là thực tại sâu xa của suốt cuộc sống của Mẹ.

V. LỜI CÁC THÁNH

- Thánh Êpiphanô: Vừa lên ba tuổi, tuổi còn phải được cha mẹ dầy công dưỡng dục, Ấu nhi Maria đã ước muốn được lên đền thờ trịnh trọng hiến dâng mình cho Thiên Chúa.

- Thánh Grêgôriô Nyssa: Thánh Anna đã không trì hoãn lâu đêm Ấu nhi Maria lên đền thờ hiến dâng cho Thiên Chúa.

- Thánh Ambrôsiô: Mẹ là kho tàng kín ẩn của đức trang nghiêm, là sự hy sinh thùy mị, là mẫu gương trinh nữ tại gia, là người bạn nữ trong thừa tác vụ tại đền thờ. Biết bao trinh nữ dâng mình cho Thiên Chúa đã nói: "Ở đây có một trinh nữ giữ loan phòng trinh sạch".

- Thánh Giêrônimô: Maria đã phân phối thời khắc như sau: Từ sáng sớm đến giờ ba, Mẹ dành để cầu nguyện. Từ giờ ba đến giờ chín, Mẹ tập luyện thủ công. Tới chín giờ, Mẹ lại cầu nguyện cho tới lúc thiên thần theo lệ mang thức ăn mỗi ngày cho Mẹ.

- Thánh Gioan Kim khẩu: Nếu Chúa đã đặc tuyển Đức Maria làm Mẹ, chính là vì Chúa đã không tìm đâu ra một nữ trinh thánh thiện hơn, không tìm đâu ra một thánh cung xứng đáng đón nhận Chúa hơn cõi lòng tuyệt vời trinh trong của Mẹ.

- Thánh Sôphrôniô: Mẹ chính là khu vườn Thiên Chúa thích dạo chơi, vì vườn này có trồng một thứ hoa tỏa loan mọi hương thơm thánh đức.

- Thánh Germanô: Hỡi Nữ Vương thế giới! Lạy Mẹ Thiên Chúa! Mẹ hãy vui mừng đi về nhà Chúa mà Mẹ đợi chờ Chúa Thánh Thần đến làm cho Mẹ trở nên Mẹ của Ngôi Lời hằng hữu. Mẹ hãy hoan hỉ vào cung điện của Chúa.

- Thánh Đamascênô: Được đưa vào đèn thánh như một cây cảm lãm tươi xanh, Mẹ được trồng trong vườn của Chúa để đón nhận mưa sương Thánh Linh chờ ngày trổ xinh một mùa hoa quả thánh đức mĩ miều.

- Thánh Anselmô: Maria bấy giờ thùy mị dịu dàng, nói năng thận trọng, lúc nào cũng chu chu chắm chắm, không bao giờ lơi lả tiếng cười, không bao giờ nhớn nhắc nhòa gương. Mẹ rất ân cần cầu nguyện, đọc Thánh kinh và siêng năng mọi việc lành, không một tơ hào quyên sót.

- Thánh Bênađô: Không có căn phòng nào thích hợp cho Chúa đến ngự hơn cõi lòng đồng trinh của Mẹ Maria.

- Thánh Bônaventura: Khi song thân Mẹ đã để Mẹ ở lại đền thờ, Mẹ bèn quyết tâm nhận Chúa làm cha, và thường tự hỏi xem phải làm gì để đẹp lòng Chúa. Mẹ cũng tuyên khấn giữ đức đồng trinh, không chiếm hữu tài vật nào ở đời, và đặt trót ý muốn vào tay Thiên Chúa.

- Thánh Tôma: Thánh thiện là điều kiện tối khẩn của hết những gì liên quan tới Thiên Chúa. Không có gì không thánh thiện, không sạch vết nhơ mà được liên quan tới Thiên Chúa.

- Thánh Antôninô: Cố gắng xuất chúng nhất của ân sủng là chuẩn bị cho một thụ tạo chịu thai Con Thiên Chúa.

- Thánh Anphong: Mẹ Maria hiến dâng trót mình cho Thiên Chúa, đẹp lòng Người qua hai điểm: Mẹ đã mau mắn hiến dâng không trì hoãn, và Mẹ đã tận tuyệt hiến dâng không dành lại phần nào.

VI. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI

- Đức Piô XII: Chắc chắn trong thánh nhân của Mẹ Người, Thiên Chúa đã thu gồm tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật Người: ánh nhìn của Mẹ, nụ cười của Mẹ sự dịu dàng của Mẹ, vẻ uy nghi của Mẹ, như ánh trăng vằng vặc trong trời đêm, vẻ đẹp lộng lẫy của Mẹ vượt xa mọi vẻ đẹp của mọi thụ tạo.

Hãy ngước mắt chiêm ngưỡng đời sống trinh trắng vô nhiễm của Mẹ. Hãy nhớ rằng một nhân vật không bao giờ xiêu lòng trong tình mến nồng nàn với Thiên Chúa, không bao giờ lơ là kết với Chúa Giêsu Kitô.

- Đức Phaolô VI: Còn những lễ ngoài lịch sử theo ngụy thư, có giá trị cao quí và gương mẫu tiếp theo những truyền thống quí trọng có nguồn gốc đặc biệt từ Đông phương, như lễ Rất Thánh Trinh Nữ Dâng Mình trong đền thờ.

- Đức Gioan Phaolô II: Biến cố trọng đại của ơn Cứu chuộc này không những liên quan tới Mẹ Maria, mà còn tới buổi đầu của dân mới Thiên Chúa nghĩa là Giáo hội Chúa Kitô và của một nhân loại mới nhờ Mẹ mà trở thành gia đình của Thiên Chúa. Sau cuộc đợi chờ dài lâu của lời hứa, cùng với Mẹ là thiếu nữ Sion tuyệt vời, thời gian được đủ đầy và một nhiệm cuộc mới được tạo lập.

- Công đồng Vatican II: Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ thân thế và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ơn sủng của Thiên Chúa toàn năng, Mẹ phục vụ mầu nhiệm Cứu chuộc dưới quyền năng và cùng với Con Ngài.