Close
Free HTML5 Bootstrap Template

About Me

Francisco Assisi. Maria
Nguyễn Yên CRM

Trở Lại Trang

BÀI CHIA SẺ VỀ LỄ TRUYỀN TIN

MẸ MARIA

TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ

Lm. Đinh Quang Thịnh

Qua ý nghĩa Phụng Vụ về ngày Lễ Truyền Tin  và qua các Bài Kinh Thánh  đọc trong Thánh Lễ này, Giáo Hội muốn cho chúng ta xác tín những điểm giáo lý sau đây :

I/ ĐỨC GIÊSU CÓ BẢN TÍNH LOÀI NGƯỜI.

Vì từ ngày Mẹ nói tiếng xin vâng để Con Thiên Chúa làm người trong cung lòng Mẹ: Ngày 25 tháng 3 cho tới ngày Mẹ sinh Con ngày 25 tháng 12. Đúng là Đức Giê-su được tượng thai trong lòng Mẹ chín tháng như hầu hết những người sinh ra cách bình thường, vì Con Thiên Chúa muốn trở nên giống hẳn người ta trong thân phận làm người, ngoại trừ tội lỗi (x Dt 7,26), ngõ hầu Ngài có thể thông cảm những yếu đuối của loài người mà ra tay cứu giúp họ đúng mức, bởi vì Ngài còn có bản tính Thiên Chúa, quyền năng và mạnh hơn hết mọi người (x Dt 2,18 ; 5, 8-9).

II/ ĐỨC GIÊSU LÀ QUÀ TẶNG CHÚA CHA BAN NHƯNG KHÔNG CHO LOÀI NGƯỜI QUA MẸ MARIA.

Để chứng minh chân lý này ta hãy  tìm hiểu ý nghĩa của Bài đọc I: Ông Teglat Phalasar III là vua của đế quốc Assur, triều đại từ năm 745 – 727 trước Công nguyên, ông này có tham vọng chiếm các miền Syria, Palestin, thế nên vào năm -740, ông bắt đầu chiếm miền bắc Syria, và vào năm – 738 sau khi hạ được Đamakus, ông chiếm trọn miền Syria. Đến năm – 734, ông tiến quân đến Gora, vua thành Gora là Hanun phải bỏ thành mà trốn sang Ai-cập. Teglat Phalasar thành công: tất cả những nước nhỏ trên giải đất Syria - Palestin đều nằm dưới quyền của ông. Ông đã tách chúng ra khỏi ảnh hưởng của Ai-cập, đã đặt ách đô hộ và bắt tất cả các nước chư hầu phải nộp thuế.

Vào năm -733, hai nước chư hầu là Syria và Israel liên kết với nhau để lật đổ ách thống trị của vua Assur, hai nước này rủ vua Akhaz nước Giuda thành một khối đồng minh. Nhưng vua Akhaz muốn chơi mảnh, ông từ chối sự liên minh này, để bợ đỡ Teglat Phanasar: xưng tụng vua này là cha của mình. Trước khi Syria và Israel tiến đánh Assur, thì hai nước này họp lại trừng phạt Giuda, muốn tiêu diệt dòng Đavid, để thay một vua khác gốc người Aram (x Is 7,6).

Trong sách Các Vua quyển thứ II (16,5t) còn thuật lại rõ hoàn cảnh này: Syria và Israel bao vây Giê-ru-sa-lem , vua Akhaz sai xứ đến với Teglat Phalasar mà tâu rằng: “Tôi là nô bộc, là con của ngài. Xin ngài lên cứu tôi khỏi bàn tay vua Aram và Israel, vì họ đang dấy lên đánh tôi”  (2V 16,7). Teglat Phalasar đưa quân đến giải vây cho Giê-ru-sa-lem.

Trong bối cảnh thành Giê-ru-sa-lem bị bao vây, nhà Đavid bị khủng hoảng, dân mất niềm tin vào Akhaz, vì vua không tin vào Thiên Chúa che chở, lại tin tưởng vào thế lực của người đời, đã xin Teglat Phalasar ra tay che chở, trong khi ông này đang bắt dân Giu-đa nộp thuế. Như thế vua Akhaz vô tình tạo thêm hai kẻ thù là Syria và Israel, vì nếu ông liên kết với hai nước này thành một khối, thì ông chỉ có một kẻ thù là Teglat Phalasar. Trong tình thế bế tắc như vậy, vua Akhaz bèn đi coi bói và thiêu sống con để tế thần theo lời thầy tướng số dạy để cầu may. Tội ác ấy khiến ngôn sứ Isaia lên tiếng khiển trách: “Ông làm phiền lòng người ta chưa đủ lại còn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa ư?”

-    “Làm phiền lòng người ta”: Tức là vua Akhaz đã không liên minh với Syria và Israel, lại đi cầu cứu với vua Teglat Phalasar đang thống trị nước Giu-đa. Ông là vua dẫn dắt dân tôn thờ Thiên Chúa mà lại đi coi bói, làm theo lời thầy tướng số. Hành động đó quả là gương mù đối với dân, ông đã tự làm mất uy tín của mình đối với dân.

-    “Làm phiền lòng Thiên Chúa”: Vì vua Do-thái là con Thiên Chúa, như Chúa đã nói với vua trong ngày ông được xức dầu tấn phong: “Con là con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2,7), thế mà ông lại xưng con với vua ngoại giáo ! Thay vì ông cầu khẩn với Thiên Chúa là Cha của mình, thì ông lại dựa vào thế lực của người đời, nhất là hành động mê tín của ông đã xúc phạm đến giới răn I là tôn thờ Thiên Chúa duy nhất, đồng thời ông cũng xúc phạm đến giới răn V là thiêu sống con trai mình (x 2V 16,2-3).

Vua Akhaz trong tình trạng tội lỗi nặng nề thế, ngôn sứ Isaia vẫn động viên ông hãy cầu nguyện với Thiên Chúa để Chúa ban cho một dấu đến cứu dân tộc ông. Ông thưa lại: “Tôi không xin Thiên Chúa, vì tôi không dám thử thách Ngài” (Is 7,12: Bài đọc). Thế mà Chúa vẫn ban cho ông một dấu: “Này đây một trinh  nữ sẽ thụ thai, hạ sinh con trai và đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14: Bài đọc). Thiên Chúa ở cùng ai thì phần chiến thắng luôn luôn thuộc về họ, nên không còn phải  khiếp sợ !

Vậy Đấng Emmanuel Thiên Chúa tặng ban cho loài người để cứu những ai tin vào Ngài là  Thiên Chúa cứu độ duy nhất, thì được Ngài giải thoát khỏi ác thần, thoát tay thần chết. Đây là ơn huệ Thiên Chúa ban nhưng không, tức là ơn huệ không do công đức của ai cũng như không ai xin Chúa. Cụ thể như vua Akhaz quá tội lỗi, ông không dám xin Chúa một dấu nào để cứu dân tộc ông đang lâm cảnh bĩ cực, mà Chúa vẫn hứa ban Đấng Mêsia để cứu dòng giống vua Đavid mà Chúa đã hứa: vương quyền của vua này không bao giờ bị mất, hầu cứu dân Do-thái thoát ba thù: đế quốc Assur, nước Syria và nước Israel, nay không vì lời cầu xin của Đức Ma-ri-a mà Chúa lại ban Đấng Emmanuel là Con Một Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện, giàu lòng nhân ái, cũng là Con của Đức Ma-ri-a đến cứu ta thoát ba thù: xác thịt, thế gian, ma quỷ, hầu ta được sống dồi dào hạnh phúc như Thiên Chúa trong thế giới Phục Sinh (x 1Ga 3,2).

Tại sao Thiên Chúa đã ra lệnh cho ông Giuse và bà Maria đặt tên cho con trẻ là Giêsu (x Mt 1,21 ; Lc 1,31), mà ngôn sứ Isaia lại nói tên của Ngài là Emmanuel ? Emmanuel có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng loài người, đó mới là lý do loài người được Thiên Chúa cứu độ, vì “Ngôi Lời đã trở nên người phàm, và cư ngụ giữa chúng ta (Emmanuel), chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1, 14ab: Tung Hô Tin Mừng), như thế danh Emmanuel nhấn mạnh về mầu nhiệm nhập thể mới thực là mầu nhiệm cứu độ. Thực vậy, nếu Con Thiên Chúa không sống trong ta và ta không sống trong Con Thiên Chúa, thì sự chết của Đức Giê-su chỉ mang tính pháp lý, con người vẫn chưa được cứu độ. Thí dụ: Người cha yêu con hết lòng, con muốn gì cha cũng cho với mục đích  là cho con ăn học nên người thành tài. Thế nhưng người con đã lạm dụng ơn cha ban mà lao đầu vào con đường trụy lạc, trộm cắp, giết người, hậu quả là đứa con bị pháp luật lên án tử ! Nếu người cha không thương con, ông có thể nói: Mặc nó, tôi đã hết lòng thương lo cho nó, nó không làm theo ý tôi, bây giờ nó phải chết, thì lỗi tại nó chứ không tại tôi. Nhưng nếu người cha tự cho mình còn có trách nhiệm cứu con, ông có thể nói với pháp luật: Con dại cái mang, tôi xin chết thay cho con tôi, nhờ đó con ông được tự do,  nhưng nếu nó không sống như lời người cha đã dạy, nó tiếp tục trở lại con đường cũ. Nó phải chết ! Và cái chết của cha nó đã trở thành vô ích !

Vậy người cha chết thay, đó là tình yêu mãnh liệt thúc bách con phải sống như cha nó đã sống, lúc đó cái chết của người cha mới thực sự là cứu đứa con hư.

III/ MẸ MARIA CỘNG TÁC VỚI CHÚA GIÊ-SU, CON MẸ, TRONG VIỆC THỰC THI Ý CHA.

Thuở xưa sự chết độp nhập vào thế gian, khởi đi từ bà Eva không vâng Lời Thiên Chúa, mà làm theo ý ma quỷ xúi giục ; trái lại, Đức Ma-ri-a là Eva mới, Mẹ hoàn toàn vâng theo ý Chúa :

1.      Mẹ Maria tin tưởng quyền năng của Lời Chúa làm cho Mẹ những điều cao cả. Vì thế khi sứ thần cho Mẹ biết: “Bà sinh Con Thiên Chúa”, và sau khi sứ thần đã giải thích: Thiên Chúa toàn năng, Ngài làm được mọi sự vượt trí hiểu con người. Thế là Mẹ thưa ngay: “Này tôi là tôi tớ Chúa, xin Chúa làm cho tôi điều Chúa nói” (Lc 1,38). Bởi vì Mẹ tin rằng Lời Chúa phát sinh sự sống một cách khách quan ngoài ý muốn của con người. chân lý này còn hơn nước mưa thấm vào lòng đất làm cho hạt giống nảy mầm… (x Is 55,10-11).

2.      Mẹ Maria chịu khổ vì Lời Chúa để cộng tác với Con MẹTiếng xin vâng của Mẹ không dừng lại trên môi miệng,nhưng tấm  lòng tùng phục Thánh ý Chúa, Mẹ phải trả bằng giá  máu như đông lại trong tim Mẹ. Truyền thống Hội Thánh thường gọi là “Bảy Sự Đau Khổ Của Đức Mẹ” : 

a-     Mẹ đau khổ vì người chồng là ông Giuse biết Mẹ có thai, nên ông có ý định ly dị một cách âm thầm (x Mt 1,19).

b-     Ngày sinh Con Thiên Chúa, Mẹ không tìm được nhà nào xứng đáng, vì mọi nhà trong thành Bêlem nhìn thấy Mẹ sắp đến ngày sinh, đều từ chối: “Không có chỗ cho ông bà” (x Lc 2,7).

c-      Mẹ vừa mới sinh Con còn thơ dại bồng trên tay, thì nghe tin vua Hê-rô-đê lùng giết, do đó giữa đêm khuya Mẹ âm thầm bồng Con theo thánh Giuse trốn sang Ai-cập (x  Mt 2,13t).

d-     Ngày Mẹ dâng Con vào Đền Thờ, ông Si-mê-on nói tiên tri về Hài Nhi: “Con trẻ này làm cớ cho người ta chống đối, có người chỗi dậy, có kẻ bổ nhào, và một lưỡi gươm đâm thấu lòng bà” (Lc 2,22t).

e-     Mẹ dẫn Con lên Đền Thờ, nhưng sau buổi lễ Con trốn cha mẹ ở lại, làm cho cha mẹ đau khổ ba ngày đi tìm Con (x Lc 2,42t).

f-      Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, trên đồi Sọ Mẹ đứng nhìn Con chết cách tức tưởi đau thương (x Ga 19,25t). Đứng dưới chân thập giá những Lời Thiên Chúa hứa trong ngày truyền tin: “Con bà là Con Đấng Tối Cao, bà là người có phúc hơn mọi người phụ nữ, Con bà làm Vua triều đại vô cùng tận” (x Lc 1,26t), nay vọng lại nơi đồi Sọ, Mẹ thấy mọi sự đều trái ngược,dù Mẹ vẫn tin Thiên Chúa toàn năng và yêu thương, thành tín, nhưng xem ra Thiên Chúa đã tráo đổi Giêsu Con thật của  Mẹ mà nhận lấy Gioan, một phàm nhân làm con (x Ga 19,26). Như vậy Chúa xử xem ra thua kém vua Salomon: Hai bà tranh nhau một trẻ thơ sống, không bà nào chịu nhận đứa chết là con của mình. Vua Salomon xử kiện cuối cùng đứa con sống vẫn thuộc về người mẹ thật của nó ! (x 1V 3,16-28).

g-     Con Mẹ đã sống lại thật, thế mà những chú lính tham tiền đã nói gian dối: “Đang lúc chúng tôi ngủ, môn đệ của ông Giêsu đến trộm xác” (x Mt 28,11t). Vậy chỉ vì tiền mà môn đệ Giuda bán Thầy, và cũng chỉ vì tiền mà loài người chối bỏ Con Mẹ đã sống lại để cứu chuộc họ !

      IV. MARIA – EVA MỚI, ĐƯA QUẢ TRƯỜNG SINH CHO DÒNG GIỐNG ADAM CUỐI CÙNG, KHÁC HẲN EVA XƯA ĐƯA QUẢ CẤM (sự chết) CHO ADAM, CHỒNG BÀ, ĂN.

Khát vọng con người được giống Thiên Chúa là điều tốt Chúa đã phú bẩm, nhưng không phải do vật chất làm thỏa mãn khát vọng ấy, mà là chính nhờ tin vào Thiên Chúa. Thực vậy, Eva đã đưa quả cấm cho Adam người yêu ăn, làm cho cả dòng giống phải chết! (x St 3) Trái lại, Đức Maria (Eva mới) đã đưa Quả Trường Sinh là Con Lòng Bà cho dòng giống Adam cuối cùng ăn, mới được sống hạnh phúc giống Thiên Chúa (x Lc 1,42 ; Ga 6,57 ; Gl 2,20).

Chính vì vậy mà danh hiệu Mẹ Maria được gọi là “Trạng Sư, Vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian”. Gọi tắt là “Mẹ Hằng Cứu Giúp” (x HCHT số 61). Thực ra, chỉ có  Chúa Giê-su mới là Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người (x 1Tm 2, 5-6), nhưng vì danh hiệu Mẹ là “Mẹ Hằng Cứu Giúp”, nghĩa là Mẹ đã nối dài và mở rộng công cuộc cứu độ của Con Mẹ đã thực hiện. Nhưng sự trung gian của Đức Ma-ri-a được ví như “chất keo tiết ra từ Đấng Trung Gian duy nhất là Đức Giê-su để dính các phần tử trong Hội Thánh là Thân Mình mầu nhiệm Chúa Giê-su Phục Sinh”. Nói cách khác, “vì thân xác Chúa Giê-su và thân xác Đức Maria là một. Do đó các chi thể trong Thân Mình Mầu  Nhiệm Chúa Ki-tô đều được gọi là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, vì cùng mở rộng và nối dài ơn cứu độ từ Đấng Trung Gian duy nhất là Chúa Giê-su” (x Hiến Chế Hội Thánh số 60-62).

Xưa kia, nhờ tổ phụ Abraham vâng lệnh Chúa, dòng giống ông cũng là trung gian ban phát ơn Chúa cho muôn dân, như Lời Chúa nói với ông Abraham: “Mọi dân thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau, vì ngươi đã vâng giữ Lời Ta” (St 22,18).Để Mẹ Maria cùng đồng tế với Con của Mẹ nơi đồi Sọ, mà tác giả thư Do-Thái đã nói về chức Tư Tế của Đức Giê-su mà Đức Ma-ri-a cùng được đồng tế: “Hy sinh và lễ vật Người đã chẳng màng, nhưng Người đã nắn tạo nên thân xác cho con, các lễ toàn thiêu cùng tạ tội, Người chẳng đoái. Bây giờ con nói: này con đến – trong Cuốn Sách đã viết về con – để thi thành ý muốn Người, lạy Thiên Chúa. Như vậy Người đã loại bỏ điều trước mà thiết lập điều sau. Chính trong ý muốn ấy mà ta đã được tác thánh, nhờ việc Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng mình Ngài duy chỉ một lần” (Dt 10,4-10: Bài đọc II và Tv 40/39,9a: Đáp ca).

Vậy vai trò của Mẹ Maria trong công cuộc cứu chuộc loài người của Con Thiên Chúa thực hiện vô cùng quan trọng. Thánh Công Đồng Vat.II nói: “Chính Ngài nhờ vâng phục đã trở nên nguyên  nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại ; nút dây đã thắt lại do sự bất tuân của Eva, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Ma-ri-a ; điều mà bà Eva đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin, và so sánh với Eva, Đức Ma-ri-a xứng đáng là “Mẹ của kẻ sống”. bởi bà Eva đã có sự chết thì nhờ Maria lại được sống” (Hiến Chế Hội Thánh số 56).