Trần Mỹ Duyệt
Khói trắng đã bốc lên từ ống khói Điện Sistine lúc 6:07 chiều và sau đó vào lúc 7:17 chiều theo giờ địa phương Rôma, Thứ Năm ngày 8 tháng Năm, Đức Hồng Y Dominique Mamberti trưởng đẳng phó tế xuất hiện tại balcony Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô thông báo với toàn thế giới: “Habemus Papam!” Chúng ta đã có Đức Giáo Hoàng. Vị lãnh đạo đáng kính và có uy tín nhất, Đức Robert Francis Prevost. Là Hồng Y của Giáo Hội Rôma thánh thiện, người đã lấy hiệu là Leo XIV (Lêô XIV).
Tuổi Trẻ và Ơn Gọi:
Đức Hồng Y Robert Francis Prevost đã đắc cử Giáo Hoàng. Ngài là Giáo Hoàng đầu tiên người Mỹ. Ngài lấy tông hiệu là Lêô XIV. Đức Tân Giáo Hoàng cũng là tu sĩ Dòng Thánh Augustinô, nguyên Tổng Trưởng Bộ Giám Mục, và là người thứ 7 thuộc Dòng Thánh Augustinô lên ngôi giáo hoàng.
Robert Francis Prevost sinh ngày 14 tháng Chín 1955 ra tại Chicago, Illinois, Hoa Kỳ trong một gia đình di dân. Song thân ngài là Louis Marius Prevost, một người Pháp lai Ý, và Mildred Martínez, người gốc Tây Ban Nha. Ông Louis làm giám thị của một trường trong khu vực Chicago. Ông cũng từng phục vụ trong Hải Quân thuộc thế chiến II. Mẹ ngài là một thủ thư viện. Bà nhiệt thành với sinh hoạt giáo xứ Đức Maria Lên Trời, thành viên hội Bàn Thánh và Hội Kinh Mân Côi, cũng như ca đoàn. Ngài có hai anh là Louis Martín và John Joseph. Về xuất xứ cá nhân, trước Mật Nghị Hồng Y, ngài nói với đài truyền hình Ý RAI rằng mình lớn lên trong một gia đình nhập cư: “Tôi sinh ra ở Mỹ... Nhưng ông bà tôi đều là người nhập cư, người Pháp, người Tây Ban Nha... Tôi lớn lên trong một gia đình Công Giáo đạo đức, cả cha mẹ tôi đều rất tích cực tham gia các hoạt động của giáo xứ.”
Tuổi trẻ, ngài theo học Tiểu Chủng Viện các cha Dòng Thánh Augustinô, và sau đó Đại Học Villanova ở Pennsylvania. Năm 1977, ngài tốt nghiệp cử nhân Toán và cũng theo học Triết học. Ngoài tiếng Anh, ngài nói được tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý, tiếng Pháp và tiếng Bồ Đào Nha. Ngài cũng đọc hiểu được tiếng Latin và tiếng Đức.
Ngày 1 tháng Chín 1977, Robert Prevost gia nhập Tập Viện Dòng Thánh Augustinô (OSA) tại Saint Louis, tỉnh dòng Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành ở Chicago. Ngài tuyên khấn lần đầu ngày 2 tháng Chín 1978, và tuyên khấn trọn đời ngày 29 tháng Tám 1981.
Sau đó ngài theo học thần học tại The Catholic Theological Union tại Chicago. Năm 27 tuổi, ngài được bề trên gửi qua Rôma theo học Giáo Luật tại Pontifical University of Saint Thomas Aquinas (Angelicum). Ngài được thụ phong linh mục ngày 19 tháng Sáu 1982 tại The Augustinian College of Saint Monica bởi tay Tổng Giám Mục Jean Jadot.
Trong khi đang chuẩn bị luận án Tiến Sỹ, ngài được gửi qua truyền giáo tại Chulucanas, Piura, Peru (1985-1986). Năm 1987, ngài trình luận án với đề tài “The role of the Local Prior in the Order of Saint Augustine” (Vai Trò Của Bề Trên Địa Phương Trong Dòng Augustinô), và được bầu làm giám đốc ơn gọi và truyền giáo Tỉnh Dòng “Đức Bà Chỉ Bảo Đàng Lành” ở Olympia Fields, Illinois, đồng thời phụ trách mục vụ ơn gọi và giám đốc điều hành các công tác tông đồ của Tỉnh Dòng tại Hoa Kỳ đến hết năm 1988.
Phần lớn thời gian sự phục vụ của ngài là truyền giáo ở Nam Mỹ. Tại Peru, ngài làm bề trên cộng đoàn cho đến năm 1992; rồi làm giám đốc chủng viện Augustinô tại Trujillo từ 1988 đến năm 1998, kiêm giáo sư Giáo Luật, Luân Lý và Giáo Phụ tại Chủng Viện của các giáo phận San Carlo và San Marcello. Ngài cũng làm giám học, giám đốc của chủng viện giáo phận Trujillo một năm, thẩm phán tòa án và thành viên Hội Đồng Cố Vấn Tổng Giáo Phận Trujillo.
Ngài thành lập, điều hành giáo xứ Đức Mẹ Là Mẹ Giáo Hội mà ngày nay là giáo xứ Thánh Rita da Cascia từ năm 1988 đến năm 1999. Từ năm 1992 ngài còn quản nhiệm giáo xứ Đức Mẹ Montserrat.
Năm 1999 ngài trở về Chicago làm Bề Trên Giám Tỉnh của Tỉnh Dòng Chicago. Ngày 14 tháng Chín 2001, ngài được bầu làm Bề Trên Tổng Quyền của Dòng và ngài giữ chức vụ này trong hai nhiệm kỳ 6 năm cho đến ngày 4 tháng Chín 2013. Sau đó, ngài giữ chức giám đốc đào tạo tại Tu viện Thánh Augustinô ở Chicago, Cố Vấn I và Phó Giám Tỉnh của Tỉnh Dòng Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành.
Nhưng ngày 3 tháng Mười Một 2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm ngài làm Giám Quản Tông Tòa giáo phận Chiclayo và Giám Mục hiệu tòa Sufar. Bốn ngày sau, ngài đã tiếp quản sứ vụ trước sự hiện diện của Đức TGM James Patrick Green, Sứ Thần Toà Thánh tại Peru và của Hội Đồng Cố Vấn. Ngài được tấn phong Giám Mục ngày 12 tháng Mười Hai 2014 tại thánh đường Santa Maria ở Chiclayo, và ngày 26 tháng Chín 2015 ngài chính thức trở thành Giám Mục của Giáo Phận Chiclayo. Ngoài quốc tịch Hoa Kỳ, ngài cũng mang quốc tịch Peru.
Từ tháng Ba 2018 đến tháng Giêng 2023, ngài là Đệ Nhị Phó Chủ Tịch của Hội Đồng Giám Mục Peru, kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Văn Hóa và Giáo Dục, và là thành viên Hội Đồng Kinh tế. Vào ngày 15 tháng Tư 2020, ngài được Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa Callao. Ngài giữ chức vụ này đến ngài 26 tháng Năm 2021.
Tại Rôma, ngài là thành viên Bộ Giáo Sỹ kể từ ngày 13 tháng Bảy 2019 và Bộ Giám Mục kể từ ngày 21 tháng Mười Một 2020. Ngày 30 tháng Giêng 2023, ngài chính thức được Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm Tổng Trưởng Bộ Giám Mục và Chủ Tịch Ủy Ban Giáo Hoàng về Châu Mỹ Latinh, đồng thời phong cho ngài chức danh Tổng Giám Mục-Giám Mục danh dự của Chiclayo. Ngài bắt đầu nắm giữ cả hai chức vụ vào ngày 12 tháng Tư 2023. Ngoài ra, ngài còn được bổ nhiệm làm thành viên Bộ Giáo Lý Đức Tin, Bộ Các Giáo Hội Đông Phương, Bộ Đời Sống Thánh Hiến và các Tu Đoàn Tông đồ, Bộ Văn Hóa và Giáo Dục, Bộ Rao Giảng Tin Mừng, Ủy Ban Giải Thích Văn Bản Lập pháp và Ủy Ban Giáo Hoàng về Thành quốc Vatican.
Ngày 9 tháng Bảy 2023, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã vinh thăng ngài lên hồng y đẳng phó tế, và ngày 6 tháng Hai 2025 được nâng lên hàng hồng y đẳng giám mục, làm Giám Mục Danh Dự của Albano, một giáo phận ngoại ô Rôma.
Sứ Vụ Phêrô:
Giáo Hoàng Lêô XIV được xem là người ủng hộ sự tiếp nối các cải cách của Giáo Hoàng Phanxicô. Một người bạn cùng phòng trước đây của ngài, Linh mục John Lydon, đã mô tả rằng ngài là người “hướng ngoại”, “thực tế” và “rất quan tâm đến người nghèo”.
Những lời đầu tiên của ngài với tư cách là Giáo Hoàng là “Bình an cho anh em.” Ngài nói với mọi người đang chào đón ngài từ ban công Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô: “Đây là lời chào đầu tiên từ Chúa Phục Sinh, và tôi cũng muốn gửi lời chào bình an này tới trái tim và gia đình anh chị em và tất cả mọi người, bất kể họ ở đâu; và tất cả mọi dân tộc, và toàn thể trái đất: Bình an cho anh chị em.” Ngài có ý truyền tải thông điệp tới các tín hữu về việc xây dựng cầu nối, hòa bình và đối thoại “mà không sợ hãi”.
Là chủ chăn của 1,4 tỷ người Công Giáo khắp thế giới, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã cho thấy tầm nhìn của ngài về một Giáo Hội “xây dựng những nhịp cầu và tham gia vào đối thoại.” Trong đó mọi người “thể hiện lòng bác ái” và “đối thoại với nhau bằng tình yêu thương.” Trước đó, trong cuộc phỏng vấn của Vatican News liền sau khi trở thành Tổng Trưởng Bộ Giám Mục, ngài nói: “Tôi vẫn coi mình là một nhà truyền giáo. Ơn gọi của tôi, giống như các Kitô hữu khác, là trở thành một nhà truyền giáo, để công bố Phúc Âm khắp mọi nơi.” Tuy ngài không nêu rõ những quan điểm và lập trường của ngài, nhưng ngài được cho là rất gần với tầm nhìn của Đức Phanxicô về môi trường, tiếp cận người nghèo và người di cư, và gặp gỡ mọi người ở nơi họ đang ở. Theo ngài, “giám mục không được coi là một hoàng tử nhỏ ngồi trong vương quốc của mình”.
Những khủng hoảng hiện nay, và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy (populism) và độc tài toàn trị (authoritarianism) khắp thế giới đang đòi hỏi tầm nhìn của vị tân giáo hoàng. Ngài cũng phải đối phó với những khủng hoảng nội bộ, luật độc thân linh mục, nữ giới làm linh mục, và tệ nạn ấu dâm trong Giáo Hội mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã phải mất nhiều năm giải quyết nhưng vẫn còn tồn đọng.
Tông Hiệu:
Tân Giáo Hoàng chọn tông hiệu Lêô XIV. Theo Kinh Thánh, Thánh Phêrô, một trong 12 tông đồ của Chúa Giêsu, được Chúa đổi tên từ tên khai sinh là Simon, nhưng điều này diễn ra trước khi ông được coi là Giáo Hoàng đầu tiên. 500 năm sau, truyền thống chọn tông hiệu của những người kế vị Thánh Phêrô mới hình thành. Lịch sử cho thấy, khi Giáo Hoàng Gioan II không dùng tên khai sinh là Mercurius, vì cho rằng tên ngài quá giống vị thần ngoại giáo Mercury. Giáo Hoàng tiếp theo đổi tên là Peter Canepanova, người chọn tông hiệu Gioan XIV vào thế kỷ 10 để tránh mang tên Giáo Hoàng Peter II (Phêrô II).
Theo Liam Temple, Phó Giáo Sư Lịch Sử Công Giáo thuộc Đại Học Durham, Anh, các giáo hoàng sẽ không chọn tông hiệu là Peter, vì muốn bày tỏ sự tôn kính với Giáo Hoàng đầu tiên, nhưng cũng có thể do lời tiên tri tồn tại hàng thế kỷ rằng Giáo Hoàng Phêrô II sẽ là Giáo Hoàng cuối cùng.
Temple cho rằng “Việc chọn tông hiệu đôi khi chịu ảnh hưởng từ các giáo hoàng tiền nhiệm, những người từng dẫn dắt Giáo Hội qua khủng hoảng, thúc đẩy cải cách hoặc có ảnh hưởng lớn, dù không phải lúc nào cũng vậy.”
Lịch sử Giáo Hội cho thấy Gioan là tông hiệu phổ biến nhất được 21 giáo hoàng lựa chọn. Giáo Hoàng Benedict XVI (triều đại 2005-2013) đã chọn tông hiệu này để tôn vinh Thánh Bênêđíctô và Giáo Hoàng Bênêđíctô XV, người đứng đầu Vatican trong Thế chiến I, nhằm thể hiện cam kết với hòa bình, hòa giải. Ngoài ra một số khác mang các tông hiệu như: Gregory 16 vị, Clement 14 vị, Innocent 13 vị, Pius 12 vị, Stephen 9 vị, Boniface 8 vị, Urban 8 vị, Alexander 7 vị, Adrian 6 vị, và Paul 6. Lịch sử cũng ghi nhận có 44 tông hiệu chỉ được sử dụng một lần, gần đây nhất là Giáo hoàng Francis.
Giáo sư Temple đánh giá tông hiệu Lêô có thể phản ánh mong muốn tiếp tục con đường cải cách. Nó gợi nhớ Giáo Hoàng Lêô XIII, nổi tiếng vì thúc đẩy công bằng xã hội, thu nhập xứng đáng cho người lao động và điều kiện lao động an toàn. Đặc biệt, với Thông Điệp Rerum Novarum của ngài có ảnh hưởng về người lao động, đến nhấn mạnh đến giá trị của việc làm và phẩm giá của người lao động. Điều này cũng có thể nhắc đến vị Giáo hoàng đầu tiên mang tên Lêô, người kết thúc triều đại giáo hoàng vào năm 461, đã gặp Attila người Hung và thuyết phục ông ta không tấn công Rome. Đức Hồng Y Seán Patrick O'Malley, nguyên Tổng Giám Mục Boston đã viết trên blog của mình rằng vị giáo hoàng mới “đã chọn một cái tên gắn liền với di sản công bằng xã hội của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, người đã cai quản Giáo Hội vào thời điểm thế giới có những biến động lớn, thời kỳ cách mạng công nghiệp, sự khởi đầu của chủ nghĩa Marx và làn sóng di cư rộng rãi”.
Tầm Nhìn và Quan Điểm:
Khi Đức Giáo Hoàng Lêô XIV xuất hiện trên ban công của Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, mặc chiếc áo choàng đỏ truyền thống của giáo hoàng - chiếc áo choàng mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô - trước đó đã chọn không mặc sau khi được bầu vào năm 2013. Đây có thể được coi như dấu chỉ rằng ngài có chung quan điểm với Giáo Hoàng Phanxicô về xã hội, người nghèo và môi trường. Quan điểm này cũng có thể đến từ kinh nghiệm liên quan đến Mỹ Latin của ngài cũng thể hiện sự tiếp nối sau một vị giáo hoàng đến từ Argentina.
Ngài được cho là người từng đi qua những mái nhà tranh của Trujillo, vượt suối băng rừng giữa mùa lũ để mang thuốc men đến với người bệnh. Ngài đã dùng chính chiếc áo của mình để che tượng Hài Nhi Giêsu giữa đêm Giáng Sinh giá lạnh khi mái nhà thờ đã bị gió cuốn bay. Thời gian làm Giám mục tại Chiclayo, đã có lần ngài đi bộ hơn hai mươi cây số để dâng Thánh Lễ cho một cộng đoàn bị cô lập sau lở đất. Một lần khác, ngài ôm tượng Đức Mẹ, tay xách giỏ thuốc, lội giữa dòng nước xiết để đến với một ngôi làng nhỏ bị mưa lớn chia cắt hoàn toàn.
Ngài dùng phần lớn đồng lương cá nhân để mua lương thực, thuốc men, vở và áo ấm cho trẻ em nghèo. Ngài từng nhịn ăn bữa ăn duy nhất trong ngày để dành phần đó cho một bà mẹ trẻ đang mang thai không có gì trong bụng. Rửa chân cho người già, lau mặt cho những đứa trẻ bị sốt, và nắm chặt tay những người hấp hối trong trại phong, ngài là một mục tử hiền lành chỉ biết lắng nghe mà không cần nói nhiều, hiểu được nỗi đau mà không cần ai phải diễn giải. Người luôn đến bất cứ lúc nào ai đó đau khổ, bất kể là sáng sớm hay đêm khuya, giữa nắng gắt hay trong cơn giông.
Trước Mật Nghị Hồng Y, phát ngôn viên Vatican Matteo Bruni cho biết rằng trong các cuộc họp của Hồng Y Đoàn những ngày trước mật nghị, các ngài đã nhấn mạnh sự cần thiết của một giáo hoàng có “tinh thần tiên tri, có khả năng dẫn dắt một Giáo Hội không khép kín mà biết cách đi ra ngoài kia và mang ánh sáng đến một thế giới đầy tuyệt vọng”. Theo các chuyên gia, việc chọn tông hiệu Lêô cho thấy ngài quan tâm đến các vấn đề cấp thiết của xã hội. Đài Truyền hình ABC7 News đã có cơ hội đặc biệt phỏng vấn ông Louis Prevost, anh cả của Đức Tân Giáo Hoàng hiện sống tại tiểu bang Florida, Hoa Kỳ, và ông này đã chia sẻ: “Roberto luôn nói rằng Giáo Hội không phải là một pháo đài, mà là một bệnh viện dã chiến, nơi mọi người được chữa lành.” Tư tưởng này cùng quan điểm với Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô.
Về quan điểm biến đổi khí hậu, ngài cho rằng đã đến lúc chuyển “từ lời nói sang hành động.” Ngài nói, “quyền thống trị thiên nhiên” không nên trở thành “độc đoán”. Và kêu gọi nhân loại xây dựng “mối quan hệ tương hỗ” với môi trường.
Quan điểm của ngài về cộng đồng LGBT chưa rõ ràng, nhưng một số nhóm, bao gồm cả Hồng Y Đoàn bảo thủ, tin rằng ngài có thể ít chào đón những nhóm này hơn Giáo Hoàng Phanxicô. Tuyên bố của người tiền nhiệm cho phép ban phước lành cho các cặp đồng tính và những người trong “tình huống bất thường” khác, theo ngài nó cho thấy sự cần thiết của các giám mục trong việc diễn giải các chỉ thị phù hợp với bối cảnh và văn hóa địa phương. Ngài không tỏ ra ủng hộ Tuyên Ngôn Fiducia Supplicans.
Đối với nữ quyền trong Giáo Hội, ngài đã ủng hộ quyết định của Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho phép phụ nữ lần đầu tiên tham gia Bộ Giám Mục, cho họ ý kiến về các cuộc bổ nhiệm này. Năm 2023, ngài nói với Vatican News: “Trong nhiều trường hợp, chúng tôi thấy rằng quan điểm của họ giúp tăng tính đa chiều.” Và năm 2024, ngài nói với Catholic News Service rằng sự hiện diện của những người phụ nữ đó “đóng góp đáng kể vào quá trình nhận định để tìm ra những người mà chúng tôi hy vọng là những ứng viên tốt nhất để phục vụ Giáo Hội trong sứ vụ giám mục”.
Trước khi mật nghị bắt đầu, Hồng Y Robert Francis Prevost được nhiều nhà quan sát đánh giá là ứng viên có thể đảm nhận vai trò làm cầu nối giữa các thế giới khác nhau: “Nhân loại cần đến Đức Kitô như một nhịp cầu để được Thiên Chúa và tình yêu của Ngài chạm đến. Xin hãy giúp chúng tôi, và giúp nhau, bắc những nhịp cầu.” Đức Thánh Cha Lêô đã nói những lời này trong Thông Điệp đầu tiên của ngài khi xuất hiện tại ban công Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô.
__________
Tài liệu:
Tham khảo, tổng hợp và trích dẫn từ:
-Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải. “Tiểu sử Đức Tân Giáo Tông Leo xiv”.
-https://collegeofcardinalsreport.com/.../robert-francis.../
-https://en.wikipedia.org/wiki/Pope_Leo_XIV
-Maria Nguyễn Thùy Trang .“Lời tâm sự của một người Công Giáo khi Đức Leo thứ mười bốn được bầu làm giáo hoàng.”
-CNN, ABC7 News, Vatican News, Catholic News Agency, VietCatholic News.
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam không nhắc đến một cách rõ ràng việc sùng kính Đức Mẹ trong tháng Năm đã được truyền vào Việt Nam từ bao giờ và trong những hoàn cảnh nào. Tuy nhiên, những ai đã qua tuổi thiếu niên ở một giáo xứ thì không thể quên được hình ảnh những buổi dâng hoa kính Đức Mẹ khi tháng Năm về, và thuộc lòng những bài hát như:
Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria, “cha đồng trinh” hay dưỡng phụ của Chúa Giêsu Kitô là một vị thánh cao cả trong Giáo Hội. Thánh Kinh gọi Ngài là “người công chính” (Mátthêu 1:18). Ngoài những danh hiệu cao quý trên, Thánh Kinh còn dành cho Ngài một danh hiệu nói nghề nghiệp và sinh kế của Ngài: Bác thợ mộc.
Sau khi phục sinh từ cõi chết, Chúa Giêsu đã hiện ra với một số người trong một số hoàn cảnh. Ngài hiện ra với Maria Magdalene, Phêrô, và các Tông Đồ. Phaolô liệt kê những lần hiện ra mà ông biết: “Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ.
Chúa Nhật II Phục Sinh được Giáo Hội cử hành đại lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này nhân dịp phong thánh cho Nữ tu Maria Faustyna (thường được đánh vần là Faustina) Kowalska ngày 30 tháng Tư 2000. Vậy tại sao thế giới hôm nay cần đến Lòng Thương Xót Chúa? và Tại sao Giáo Hội lại phổ biến Lòng Thương Xót này?
Trong khi đón rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng đã tung hô Ngài: “Chúc tụng đức vua, đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời.” (Luca 19:38) Nhưng liệu những người đón tiếp Chúa hôm đó, có thực sự nhận ra Ngài là vua của các vua, hay chỉ thuần túy đón tiếp một vị vua như Saulê hay Đavít.
“Dô! Dô! Dô!”
“Lâu lâu rồi ta mới nhậu một lần.
Nhậu một lần thì nhậu cho lâu lâu”.
Rồi cả bàn lại nâng ly hô to: “Dô! Dô! Dô!”
Đây là hình ảnh một bữa nhậu mà tôi đã học được trong lần về quê thăm gia đình vừa qua. Những bữa nhậu như vầy thường xuyên xảy ra trong văn hóa giao lưu đối tác tại Việt Nam.
Khi suy niệm về trích đoạn Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê đoạn 3 từ câu 8 đến 11, chúng ta có cảm thấy bị thu hút và bàng hoàng về xác tín mạnh mẽ của thánh nhân khi viết về Chúa Giêsu Kytô. Ngài viết: “…Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kytô Giêsu, Chúa của tôi.
Ba điều cần phải làm trong mùa chay là cầu nguyện, chay tịnh và thực hành bác ái. Đây là những việc sẽ dẫn chúng ta tiến tới mối tương quan gần gũi hơn với Thiên Chúa, đón nhận ánh sáng Phục Sinh. Nhưng để được gần gũi, thân mật với Ngài, con người phải biết thống hối và trở về với Ngài.
Thánh Martin sinh tại Savaria, địa phận Pannonia thuộc Hung Gia Lợi ngày nay vào năm 316 hoặc 336, qua đời ngày 8 tháng Mười Một 397 với tuổi thọ khoảng 60 đến 81. Khi còn là một sỹ quan trẻ, vào một buổi chiều mùa đông lạnh giá, ngài thấy một người ăn xin đang co ro, rét run bên đường.
Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất của người dân Việt Nam, mang ý nghĩa nhân văn, phong tục, tập quán, và truyền thống của một dân tộc. Vậy nguồn gốc, ý nghĩa, và phong tục ngày Tết như thế nào?
Năm hết tết đến, mọi người đều thấp thỏm muốn biết năm mới tương lai, hậu vận sẽ ra sao? Tình duyên, gia đạo, công ăn việc làm, xây cất, hùn hạp, công danh sự nghiệp sẽ như thế nào? Tương lai nhân loại năm 2025 sẽ đi về đây? Liệu thế chiến thứ ba có xảy ra?
Chồng tôi là một người đàn ông trăng hoa không cần biết hậu quả như thế nào. Chúng tôi đã sống với nhau 10 năm và có 2 con gái rất xinh xắn, dễ thương. Trong thời gian chung sống tính đến nay anh đã ngoại tình với 3 người phụ nữ: đàn bà có chồng, đàn bà lớn tuổi, và con gái mới lớn. Mỗi lần bị lộ chuyện là anh thề sống thề chết sẽ từ bỏ, sẽ quay về con đường ngay chính. Nhưng gần đây thì anh lại đang liên lạc với một người phụ nữ thứ tư. Người này không ai khác là cô em họ hàng xa với anh ta.
NGÀY SINH NHẬT của Chúa và Đấng Cứu Độ chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, đã xuất hiện trên trái đất, và sự tiếp nối của ngày này kéo dài mãi đến thời đại của chúng ta, dẫn tới ngày kỷ niệm của nó, đã được chúng ta nhận biết hôm nay khi vui mừng về việc cử hành đặc biệt này.‘Chúng ta hãy hân hoan và vui mừng về ngày ấy,’
NGÀY SINH NHẬT của Chúa và Đấng Cứu Độ chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, đã xuất hiện trên trái đất, và sự tiếp nối của ngày này kéo dài mãi đến thời đại của chúng ta, dẫn tới ngày kỷ niệm của nó, đã được chúng ta nhận biết hôm nay khi vui mừng về việc cử hành đặc biệt này.‘Chúng ta hãy hân hoan và vui mừng về ngày ấy,’
Lễ Giáng Sinh hay còn được gọi là Lễ Sinh Nhật, Christmas, Noël, Nativity, Kolena, Xmas… Một đại lễ mang tính cách quốc tế, được cử hành trong toàn Giáo Hội Công Giáo, và hầu như trên khắp thế giới. Đây là ngày vừa có tính cách tôn giáo, và cũng là một lễ hội,
Biến cố giáng sinh của Chúa Giêsu ở Belem (Bethlehem) được trình thuật trong Phúc Âm của Mátthêu và Luca: “Và bà hạ sinh một con trai. Bà quấn con trong khăn và đặt trong một máng cỏ, bởi vì không có phòng trọ cho họ.” (Luca 2:7). Theo truyền thống, Hài Nhi Giêsu được sinh ra trong một chuồng nuôi súc vật ngoài thành Belem thuộc miền đồi núi Giuđêa, khoảng 10 Km phía Nam thành Giêrusalem, Bờ Tây (the West Bank) của Palestine.
Nhập Thể và Thánh Thể là hai mầu nhiệm rất quan trọng đi đôi với nhau trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu sinh ra tại hang đá Belem, cũng là Chúa Giêsu được sinh ra trên bàn thờ trong các thánh lễ. Ngài là của ăn và là bánh hằng sống. Mùa Vọng với mục đích cuối cùng của nó là đem chúng ta đến gần và lãnh nhận Thánh Thể như một phương thế dọn lòng đón chờ ngày kỷ niệm Chúa giáng trần và ngày Ngài lại đến trong vinh quang.
Các thánh tử đạo Việt Nam là danh sách những tín hữu, chủng sinh, thầy giảng, linh mục Công Giáo Việt Nam hoặc thừa sai ngoại quốc được Giáo Hội Công Giáo Rôma tuyên thánh với lý do chết vì Đức Tin. Theo lịch sử Công Giáo Việt Nam, ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã phải chết để làm chứng đức tin của mình. Trong số đó có 117 vị được tôn phong hiển thánh
Hôm nay tôi một mình đi trong nghĩa trang, tìm lại những kỷ niệm của những người đã đi trước: giám mục, đức ông, linh mục, tu sỹ, các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, chú thím, bạn bè, và anh em. Đời người thật ngắn ngủi. Mới đó mà nay đã ra người thiên cổ. Mới đó mà nay đã không còn xuất hiện trên cõi đời này, không còn có dịp gặp gỡ, hàn huyên, tâm sự với nhau nữa.
Theo Chúa, hy sinh vì Chúa, và phục vụ Chúa kết quả để được gì? Đây không phải chỉ là câu hỏi mà mọi người chúng ta đôi lúc bị cám dỗ nghĩ tới. Các thánh nhân, ngay cả các Tông Đồ cũng bị cám dỗ này làm lung lay. Điển hình là Phêrô, sau một thời gian theo Chúa, ông đã chẳng thấy tương lai gì nên thẳng thắn hỏi Chúa: “Lạy Thầy chúng tôi đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng tôi sẽ được gì?” (Mt 19:27).
Maria Magdalena (Maria Mađalêna hay còn được gọi là Maria Mai-đệ-Liên) là một trong các nữ môn đệ của Chúa Giêsu. Bà được Ngài chữa lành và trừ cho bảy quỷ (x. Luca 8:2; Marcô 16:9). Bà trung thành đi theo Chúa kể cả đứng dưới chân thập giá trong khi các Tông Đồ bỏ trốn hết, ngoại trừ một mình Gioan ở lại.
-Sầu Đông hôm qua đem sổ điểm về em la cho nó một mẻ. -Nó phạm lỗi gì mà em la nó? -Nó bị một con B. -Em không biết là thang điểm, B đứng hạng nhì không? A,B,C. Làm gì phải la nó, vả lại chỉ có một con B thôi mà. -Em muốn nó được A tất cả. Em muốn nó phải vào được trường giỏi, ra trường thủ khoa và có tương lai. Em một mình nuôi nó ăn học, em có quyền hy vọng điều đó. Câu chuyện giữa tôi và cô em trên chắc cũng là giấc mơ của nhiều phụ huynh.
-Sầu Đông hôm qua đem sổ điểm về em la cho nó một mẻ. -Nó phạm lỗi gì mà em la nó? -Nó bị một con B. -Em không biết là thang điểm, B đứng hạng nhì không? A,B,C. Làm gì phải la nó, vả lại chỉ có một con B thôi mà. -Em muốn nó được A tất cả. Em muốn nó phải vào được trường giỏi, ra trường thủ khoa và có tương lai. Em một mình nuôi nó ăn học, em có quyền hy vọng điều đó. Câu chuyện giữa tôi và cô em trên chắc cũng là giấc mơ của nhiều phụ huynh.
Mấy người bạn của tôi nay người này, mai người khác cứ lần lượt rủ nhau từ giã cõi đời. Những người còn lại thì hồi hộp, thấp thỏm: “Bao giờ đến phiên mình?” Vẫn biết rằng có sinh thì phải có tử, nhưng chuyện gì xảy ra trước và sau đó vẫn là điều mà nhiều người thường hay băn khoăn, lo lắng.
Trải qua bao thế kỷ, Giáo Hội Công Giáo đã dành tháng Năm để đặc biệt tôn kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Không phải chỉ là một ngày, mà toàn tháng Năm. Như mùa Đông qua, tháng Năm được coi như khởi đầu một sức sống mới của vạn vật. Truyền thống dành riêng tháng Năm tôn kính Đức Mẹ bắt nguồn từ việc người Rôma tôn kính nữ thần mùa xuân. Các Kitô hữu ban đầu đã tôn giáo hóa tập tục này, và tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.
Chúa Giêsu, qua trích đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan (15:1-8) đã diễn tả về mối tương quan giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh quen thuộc mà mọi người Do Thái đều biết, đó là hình ảnh cây nho. Ngài là cây nho và chúng ta là cành.
Cây nho mọc khắp nơi tại Palestine. Dù trồng ở đâu, việc chuẩn bị đất trồng vẫn là việc chính yếu.
Câu truyện truyền tin của Đức Maria đã được Thánh sử Luca (1:26-38) ghi lại một cách chi tiết và đầy đủ. Trong biến cố này Đức Maria đã trở nên một gương mẫu đức tin cho chúng ta. Người cho chúng ta thấy rằng đức tin không chỉ là hành động chấp nhận, nhưng còn là sự tín thác, trung tín, vâng lời, và phục tùng nữa.
“Đừng sợ, Ta là nguyên thủy và cùng đích, và là Đấng hằng sống. Ta đã chết, và nay ta đang sống tới muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18).
Chúng ta nghe những lời yên ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ Sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Đức Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện an ủi của Ngài.
Thứ Sáu Tuần Thánh. Đồi Golgotha. Cây thập tự. Không gian, thời gian và vật dụng ấy nhắc tôi về cái chết đau thương, đầy nhục nhã của Đức Giêsu Cứu Thế. Ngài bị đóng đanh và chết trên thập giá. Nhưng cái chết của Người thực sự đem lại cho tôi điều gì? Tại sao tôi phải xót xa và thương cảm? Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma (6:3-11) đã trả lời tôi về những gì mà tôi đang suy tư, khi liên kết cái chết của Chúa Giêsu với cái chết của người Kitô hữu qua Bí Tích Thánh Tẩy:
Mỗi lần Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh, Giáo Hội lại cho đọc những trình thuật về cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Thành Thánh Giêrusalem. Gọi là cuộc khải hoàn, nhưng đúng hơn, đây là hình ảnh của việc chiếm ngự tâm linh mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện khi ngài chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Một hình ảnh của cuộc chiến thắng tinh thần.
“Khi đến gần làng Bethphage, bên triền núi gọi là Ôliu. Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và dắt nó đi. Và nếu có ai hỏi: “Tại sao các anh tháo lừa người ta ra, thì cứ nói: “Chúa cần đến nó!”
Thánh Giuse là một vị thánh cao cả và vỹ đại nhất trong Giáo Hội Công Giáo. Hình ảnh của ngài luôn gắn liền với hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria và Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại. Tuy nhiên, sự cao cả và vỹ đại của Ngài không được những tài liệu, sách báo do con người ghi chép, nhưng tiềm ẩn trong Thánh Kinh Tân và Cựu Ước.
Chúa Giêsu sau khi chịu Phép Rửa trên sông Gordan, Ngài được Thánh Thần đưa vào sa mạc, ở đó 40 ngày ăn chay và chịu Satan cám dỗ. Để tìm hiểu những cám dỗ ấy của Ngài, cũng như chúng có ý nghĩa gì trong đời sống tâm linh của chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay Thánh này. Sau đây là bài viết của cha Thomas G. Weinandy, OFM, Cap., một nhà thần học, một nhà trước tác và cựu thành viên trong Ủy Ban Thần Học Thế Giới của Vatican,
Chúa Giêsu đã đem ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao, ở đó Chúa biến hình trước mặt các ông (x. Marcô 9:2-10).
Thánh sử Marcô đã tả lại quang cảnh này bằng những từ ngữ rất gợi hình, truyền cảm: “Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” (3) Có Maisen và Êlia cùng xuất hiện đàm đạo với Chúa. Điều này khiến các ông vui sướng, và phản ứng lúc đó của Phêrô là muốn ở lại luôn trên núi với Thầy:
Anh chị em thân mến!
Khi Thiên Chúa của chúng ta mặc khải Ngài chính Ngài, thông điệp của Ngài luôn luôn nói đến tự do: “Ta là Chúa, Thiên Chúa các ngươi, người đã đem các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ” (Ex 20:2). Đây là những lời đầu tiên trong Mười Giới Luật mà Ngài đã ban cho Maisen trên núi Sinai.
Vợ chồng xưng hô với nhau bằng Chồng ơi – Vợ ơi, Bố ơi – Mẹ ơi, Anh ơi – Em ơi, hoặc Mình ơi thì đến già vẫn yêu thương mặn nồng, kẻ thứ 3 khó có chỗ chen chân vào. Những từ ngữ trên là cách gọi vừa thể hiện chủ quyền sở hữu, trách nhiệm, và tình cảm mà cả hai dành cho nhau.
Thống kê cho thấy, ngày nay rất nhiều phụ nữ chọn sống độc thân, không lấy chồng và sinh con. Lý do vì họ muốn được tự do theo đuổi những giấc mộng riêng tư, vì không muốn chịu ràng buộc với trách nhiệm làm vợ và làm mẹ. Nhưng tự thâm tâm và bản năng, người phụ nữ luôn muốn có một người chồng và được làm mẹ.
Qua hai câu Thánh Kinh ngắn gọn, Thánh Ký Marcô đã vẽ ra hai khuôn mặt trái ngược nhau về Chúa Giêsu: “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” (3:20-21)
Ba nhà chiêm tinh hoặc đạo sỹ (magi). Các ngài là Caspar hay Caspas, Jaspas, Gathaspa. Melchior hay Melichior. Và Balthasar hay Balthazar, Balthassar hoặc Bithisarea. Các ngài đã lận lội đường xa đến thờ lạy Đức Kitô vừa giáng sinh. “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2).
“Ngài đã trở nên một trẻ thơ, để Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này, Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương những người bé mọn… Ngài dạy chúng ta yêu những ai yếu đuối.”
“Ngài đã trở nên một trẻ thơ, để Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này, Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương những người bé mọn… Ngài dạy chúng ta yêu những ai yếu đuối.” Trong bài giảng dưới đây, Đức Thánh Cha đã lưu tâm đến những trẻ em bị lạm dụng, xâm phạm, bao gồm những thai nhi bị giết hại,
Thấm thoát mà đã 2023 lần kỷ niệm ngày Giêsu giáng trần. Mỗi năm mỗi khác, và mỗi nơi cũng mỗi khác. Có những năm trời mưa, giông bão, tuyết rơi. Có những năm thanh bình, và cũng có những năm chiến tranh. Riêng tại quê hương Việt Nam tuy hết chiến tranh nhưng lại chưa có thanh bình!
Advent xuất phát từ tiếng Latin là adventus có nghĩa là đang đến, đang tới gần. Theo lịch phụng vụ, đây là thời gian mong chờ và chuẩn bị đón mừng Sinh Nhật của Đức Giêsu Kitô trong đêm Giáng Sinh, và ở một nghĩa khác, nhắc nhở chúng ta hướng tới ngày trở lại lần thứ hai của Ngài. Mùa Vọng kéo dài qua 4 tuần lễ với 4 Chúa Nhật Mùa Vọng.
Hôm 8 tháng 9 năm 2023 lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách Vinh Quang Mẹ Maria (The GLORIES of MARY) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Và tôi đã cùng ngài suy niệm câu: “Đến sau cõi đời này, xin Mẹ cho chúng con được thấy Chúa Giêsu quả phúc của lòng Mẹ”
Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội Công Giáo tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael
Sau khi đọc bài “KHI THA THỨ LÀ TỰ THA CHÍNH MÌNH”, một độc giả đã email phản ảnh ý kiến của mình. Ông viết: “Bài học này tôi đã học mãi mà chưa thuộc. Tha đã khó mà quên những điều người khác làm cho mình phải khổ, phải thiệt thòi, hoặc phải mất danh dự thì càng khó hơn”.
“Tha thứ là tự tha cho chính mình”. Tư tưởng này xem ra như không hợp với suy nghĩ và lối sống của nhiều người. Làm gì có chuyện tha cho kẻ cướp chồng mình, kẻ phản bội mình vì một người đàn bà khác, kẻ cướp của, giết hại cha mẹ, anh chị em mình, hoặc kẻ tham ô khiến mình phải mất đất, mất nhà, mất việc làm để rồi đến nỗi táng gia bại sản, thân bại danh liệt, gia đình đổ vỡ, con cái nheo nhóc, lâm cảnh tù tội…
Hôn nhân là một đời sống hạnh phúc. Nó chính là nền tảng của gia đình, của xã hội, và cả tôn giáo nữa. Bởi đó hôn nhân có rất nhiều kẻ thù. Thoạt nhìn vào những đổ vỡ của hôn nhân, người ta thường cho rằng kẻ thù của nó là những tệ nạn của xã hội: rượu chè, nghiện hút, cờ bạc, và lăng nhăng trai gái. Một số nguyên nhân khác bao gồm: vợ chồng ghen tương, lười biếng, thiếu trách nhiệm, nếp sống gia trưởng, và bạo hành trong gia đình.
Hôm nay (8 tháng 9 năm 2023) lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách The GLORIES of MARY (Vinh Quang Mẹ Maria) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Trong phần tài liệu, tôi đã đọc bài viết của thánh nhân, và cùng ngài suy niệm câu: “Et Jesum benedictum fructum ventris tui nobis post hoc exilium obstande”
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?