Đề tài "Thày là sự sống" cho Chúa Nhật Thứ V Phục Sinh Năm C ở đây có thể nói là mối liên hệ thần linh nơi Giáo Hội Chúa Kitô, một mối liên hệ được gắn bó và thể hiện bằng một đức ái trọn hảo "như Thày đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau", một đức ái trọn hảo chẳng những kết hợp nội bộ mà còn là yếu tố chính yếu bất khả thiếu của chung Giáo Hội cũng như của riêng Kitô hữu trong sứ vụ làm chứng cho Chúa Kitô, để nhờ đó thế gian có thể nhận biết Chúa Kitô hầu trở về với Người mà được cứu độ: "Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau".
Sách Tông Vụ ở Bài Đọc 1 hôm nay đã cho thấy sự phát triển của Giáo Hội vào lúc ban đầu, một sự kiện phát triển sẽ không thể nào xẩy ra nếu các vị tông đồ thừa sai chia rẽ nhau, không đoàn kết yêu thương nhau, nghĩa là không có sự sống của Chúa Kitô nơi các vị, một sự sống viên mãn, một đức ái trọn hảo, đối với nhau cũng như đối với những ai được Thiên Chúa đưa đến cùng các vị:
"Trong những ngày ấy, Phaolô và Barnaba trở lại Lystra, Icôniô và Antiôkia, củng cố tinh thần các môn đồ, khuyên bảo họ giữ vững đức tin mà rằng: 'Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi gian truân mới được vào nước Thiên Chúa'. Nơi mỗi hội thánh, các ngài đặt những vị niên trưởng, rồi ăn chay cầu nguyện, trao phó họ cho Chúa là Ðấng họ tin theo. Sau đó, các ngài sang Pisiđia, đi đến Pamphylia. Sau khi rao giảng lời Chúa tại Perghê, các ngài xuống Attilia, rồi từ đó xuống tàu trở về Antiôkia, nơi mà trước đây các ngài đã được trao phó cho ơn Chúa để làm công việc các ngài mới hoàn thành. Khi đến nơi, các ngài tụ họp giáo đoàn, thuật cho họ nghe những gì Thiên Chúa đã làm với các ngài và đã mở lòng cho nhiều dân ngoại nhận biết đức tin".
Đúng thế, "giới răn mới" là một trong 3 điều chính yếu, (cùng với Bí Tích Thánh Thể và Thiên Chức Linh Mục), Chúa Giêsu ban cho Giáo Hội của Người qua các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly. Tuy nhiên, đối với "giới răn mới" này, Chúa Giêsu ban cho Giáo Hội của Người như là một di chúc, một thứ trăn trối của một vị Thày chẳng bao lâu nữa sẽ không còn trực tiếp ở với Giáo Hội của Người. Bởi thế Người mới nói: "Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau". Như thế có nghĩa là "Thày ở cùng các con cho tới tận thế" (Mathêu 28:20) khi các con yêu thương nhau: "Ở đâu có 2-3 người họp lại vì danh Thày thì Thày ở giữa họ" (Mathêu 18:20). - "Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời - Ubi caritas et amor, Deus ibi est".
Thật vậy, đức ái trọn hảo của Giáo Hội là tất cả những gì chứng thực quyền năng phục sinh của Chúa Kitô, Đấng "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết gây ra bởi những gì là vị kỷ, hận thù, ghen ghét, chia rẽ, phá hoại, một đức ái trọn hảo phản ảnh một tình "yêu cho đến cùng" (Gioan 13:1) của Đấng chẳng những "hiến mạng sống mình vì người yêu" (Gioan 15:13), mà còn yêu cả kẻ thù mình: "Xin Cha tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34). Có thể nói đức ái trọn hảo của Giáo Hội và nơi Giáo Hội "như Thày đã yêu thương các con" đây chính là "sự sống viên mãn" (Gioan 10:10) Chúa Kitô Chủ Chiên nhân lành đã ban cho đàn chiên Giáo Hội của Người.
Và phải chăng đó là tất cả ý nghĩa liên quan đến "vinh hiển" trong lời Chúa Kitô đã khẳng định ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay: "Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển". Chúng ta có thể phân tích câu Chúa Kitô nói này thứ tự như sau:
"Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người": "Bây giờ Con Người được vinh hiển" đây là lúc nào, phải chăng vào chính "khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán" về vinh hiển của Người. Có nghĩa là đã đến giờ khổ giá và tử nạn của Người theo đúng dự án cứu độ của Cha Người, để nhờ đó Cha Người là Đấng đã sai Người nhờ Người mà tỏ hết tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài ra. "Con Người được vinh hiển" đây là được chịu khổ giá và tử nạn để làm cho "Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người" ở chỗ làm cho thế gian nói chung và Giáo Hội nói riêng thấy được dung nhan thương xót của "Cha là Đấng xót thương" (Luca 6:36).
"Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình Ngài. "Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình Ngài" ở chỗ nào, nếu không phải là Ngài đã làm cho Chúa Kitô sống lại từ trong kẻ chết: "Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa"." (Philiphe 2:9-11).
"Và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển": Thiên Chúa chẳng những "đã" làm "cho Người được vinh hiển nơi chính mình Ngài", khi làm cho Người sống lại từ trong kẻ chết mà còn "sẽ" làm "cho Người được vinh hiển" nữa. Nếu không phải ở chỗ làm cho Người được tỏ hiện nơi đức ái trọn hảo của Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người, cho đến khi Người hoàn toàn tỏ rạng nơi Giáo Hội của Người, một Giáo Hội, cuối cùng, như Sách Khải Huyền ở Bài Đọc 2 hôm nay cho thấy như một: "Thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi Thiên Chúa: tề chỉnh như tân nương được trang điểm cho tân lang của mình".
Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới có câu họa chung là: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa đến muôn đời". "Danh Chúa" đây là ở chỗ "Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa" (câu xướng 1). Bởi thế cho nên "mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài" (câu xướng 2). Cũng thế, "con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ" (câu xướng3).