|
PVLC Mùa Chay Tuần V Thứ 3
và Thánh Vicente Ferrier 5/4 |
Bài Đọc I:
Ds 21, 4-9
"Kẻ nào
bị rắn cắn mà nh́n lên con rắn đồng, th́ được sống".
Trích
sách Dân Số.
Trong
những ngày ấy, các người Do-thái rời bỏ núi Hor, theo con đường
về phía Biển Đỏ, để ṿng quanh xứ Eđom. Dân chúng đi đường xa
mệt nhọc, nên nản chí, kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các
người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong
hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đă ngán
thức ăn nhàm chán này".
Bởi đó
Chúa cho rắn lửa ḅ ra cắn chết nhiều người, họ chạy đến cùng
Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đă phạm tội, v́ chúng tôi nói
những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu
nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn". Môsê cầu nguyện cho
dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hăy đúc một con rắn
đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nh́n lên rắn
đồng, th́ được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm
dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nh́n lên rắn đồng, th́ được chữa
lành.
Đó là lời
Chúa.
Đáp Ca: Tv
101, 2-3. 16-18. 19-21
Đáp: Lạy
Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới
Chúa (c. 2).
Xướng: 1)
Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên
tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải
phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa
mau nhậm lời. - Đáp.
2) Lạy
Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa
cầu sẽ quư trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài
xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện
kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.- Đáp.
3) Những
điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác
tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đă đoái
nh́n, từ trời cao Chúa đă ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than
khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. - Đáp.
Câu Xướng
Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab
Hôm nay
các ngươi đừng cứng ḷng, nhưng hăy nghe tiếng Chúa phán.
Phúc Âm:
Ga 8, 21-30
"Khi nào
các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy,
Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các
ông sẽ t́m kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi
các ông không thể tới được".
Người
Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói
"Nơi Ta đi các ông không thể tới được"?"
Chúa
Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; c̣n Ta, Ta bởi trời
cao. Các ông thuộc về thế gian này; c̣n Ta, Ta không thuộc về
thế gian này. Ta đă nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. V́,
nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các
ông".
Vậy họ
liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang
nói với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về
các ông, nhưng Đấng đă sai Ta là Đấng chân thật, và điều Ta nói
ra trong thế gian đây, chính là điều Ta đă nghe biết ở Ngài".
Nhưng họ
không hiểu là Người nói về Chúa Cha, v́ thế Chúa Giêsu nói: "Khi
nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là
ai. Ta không tự ḿnh làm điều ǵ. Điều Ta nói, chính là điều
Chúa Cha đă dạy Ta. Đấng đă sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để
Ta một ḿnh, bởi v́ Ta luôn luôn làm điều đẹp ḷng Ngài". Khi
Người nói những điều ấy th́ có nhiều kẻ tin vào Người.
Đó là lời
Chúa.

Suy
niệm
Chúa
Giêsu đă chẳng những cho họ biết lư do họ không hiểu Người
mà c̣n
cho họ biết nguyên do phạm tội chính khi họ "t́m kiếm" Người
nữa
Chủ đề
chung cho Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh là "Tôi tự ư bỏ sự
sống ḿnh đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng rơ nét trong
phụng vụ lời Chúa hôm nay, Thứ Ba trong Tuần V Mùa Chay, bao gồm
cả Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.
Ở Bài
Phúc Âm, "Tôi tự ư bỏ sự sống của ḿnh đi", ở chỗ, như Chúa
Giêsu đă báo trước cho "những
người biệt phái rằng": "Khi nào quí vị đưa Con Người lên
cao", nghĩa là khi nào quí vị hô hoán đ̣i "đóng đanh nó vào thập
giá, đóng đanh nó vào thập giá" (Luca 23:21; Marco 15:13-15).
Nhưng "Tôi lấy nó lại", ở chỗ, chính khi quí vị thách đố Tôi
xuống khỏi thập tự giá Tôi
cũng không xuống (xem Matthew 27:39-43; Mark 15:29-32; Luke
23:35-36) th́ lại là lúc quí vị bấy giờ mới biết Tôi thật sự là
Đấng Thiên Sai, như Tôi đă nói, Tôi xuống thế gian này là để làm
theo ư Cha là Đấng sai Tôi chứ không phải làm theo ư của Tôi
(xem Gioan 6:38).
Ở
Bài Đọc 1 cũng thế, chủ đề "Tôi tự ư bỏ sự sống ḿnh đi để rồi
lấy lại" được báo trước ngay trong lời Thiên Chúa phán với
Moisen rằng: "'Ngươi hăy đúc
một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà
nh́n lên rắn đồng, th́ được sống'. Môsê đúc một con rắn đồng,
treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nh́n lên rắn đồng,
th́ được chữa lành".
H́nh ảnh
"con rắn bằng đồng" có thể chữa lành cho những ai bị "rắn lửa
cắn" khi họ nh́n lên con rắn treo lên được đúc bằng đồng ấy ám
chỉ Chúa Kitô tử giá, và thành phần bị rắn cắn mà nh́n lên con
rắn bằng đồng được treo lên ấy ám chỉ thành phần tội nhân tin
tưởng vào (tức là "nh́n lên") "Đấng họ đă đâm thâu qua" (Gioan
19:37), bao gồm cả dân ngoại: "Người này quả là một con người vô
tội" (Luca 23:47) lẫn dân Do Thái: "Khi đám đông qui tụ lại
trước cảnh tượng ấy nh́n thấy những ǵ đă xẩy ra th́ trở về đấm
ngực" (Luca 23:48).
Thế
nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, tại sao con rắn vốn tiêu
biểu cho những ǵ là độc dữ, đă từng bị chính Thiên Chúa nguyền
rủa ngay từ ban đầu sau khi nó là tác nhân gây ra nguyên tội
(xem Khởi Nguyên 3:14; Gioan 8:44), mà trong Bài Đọc 1 trích từ
Sách Dân Số hôm nay, lại ám chỉ Chúa Kitô tử giá? Phải chăng là
v́ Thiên Chúa muốn "lấy của độc giải độc", ở chỗ, thương đau
và chết chóc gây ra bởi rắn th́ chữa lành và sống c̣n cũng bởi
rắn?
Thật ra,
tự bản thân của ḿnh, Chúa Kitô là chính Con Thiên Chúa, là Đấng
vô cùng thánh hảo, không có một chút hèn hạ và xấu xa nhơ nhớp
nào, thế nhưng, v́ Người cũng chính là Đấng Cứu Thế mà Người đă
cần phải "trở nên" "Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần
gian" (Gioan 1:29), để nhờ đó có thể cứu nhân loại nhiễm lây
nguyên tội bởi rắn quỉ cắn trong vườn địa đường khỏi tội lỗi và
sự chết do chính rắn quỉ gây ra cho bản tính của họ, bằng cách
chính Người đă phải "trở thành tội lỗi" (2Corinto 5:21) và "bị
nguyền rủa" như một tử tội trên thập tự giá (Galata 3:13), nghĩa
là Người đă trở nên như một con rắn bằng đồng thôi, chứ không
phải rắn thật, một h́nh tượng tiêu biểu cho tội lỗi và chết
chóc.
Đó là một
mầu nhiệm vô cùng thâm sâu con người không thể nào thấu hiểu. V́
theo lập luận của loài người th́ Thiên Chúa là Đấng vô cùng
thánh hảo và toàn năng không thể nào lại trở thành một con người
hay không thể nào làm người vô cùng thấp hèn, bất toàn và bất
lực được, chứ chưa nói đến lại c̣n "trở thành tội lỗi" và "bị
nguyền rủa" vô cùng khốn nạn như thế.
Bởi vậy
mà trong bài Phúc Âm hôm nay chính Chúa Giêsu đă vừa khẳng định
vừa tiên báo cho "những người biệt phái rằng: 'Tôi ra đi, quí
vị sẽ t́m kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Nơi
Tôi đi quí vị không thể nào tới được'", tức loài người như
họ không thể nào hiểu được, chứ chưa nói ǵ đến việc chấp
nhận được.
Ngay câu
Người nói ấy mà họ chưa hiểu nổi ư nghĩa sâu xa huyền nhiệm của
những ǵ Người muốn nói huống chi khi họ tận mắt chứng kiến thấy
sự thật xẩy ra, do đó: "Người Do-thái nói với nhau rằng: 'Ông ta
sắp tự vẫn hay sao mà lại nói: Nơi Ta đi các ông không thể tới
được?"
Mà thật,
lư do con người bất khả thấu hiểu mầu nhiệm Chúa Kitô này là v́
tầm mức chênh lệnh giữa tạo hóa với tạo vật, và tạo vật không
thể nào bằng tạo hóa cùng hiểu được như tạo hóa, khoảng cách
biệt hơn trời với đất. Thế nên, Chúa Giêsu đă chẳng những cho họ
biết lư do họ không hiểu Người mà c̣n cho họ biết nguyên do phạm
tội chính khi họ "t́m kiếm" Người nữa, đó là:
"Quí
vị thuộc về hạ giới; c̣n Ta, Ta bởi trời cao. Quí vị thuộc về
thế gian này; c̣n Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đă
nói: Quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. V́, nếu quí vị không
tin Ta, quí vị sẽ chết trong tội của quí vị".
Thật sự
là thế, chính v́ "quí vị không tin Ta" mà "quí vị sẽ chết trong
tội của quí vị", đúng như Người đă quả quyết và cảnh báo: "quí
vị sẽ t́m kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị", ở
chỗ, chính khi họ "t́m kiếm" Người bằng cách cuối cùng "nhân
danh Thiên Chúa hằng sống", qua vị thượng tế Caipha của họ, hỏi
Người một cách chính thức và hết sức trịnh trọng có phải là
"Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa hay chăng?" (xem Mathêu 26:63)
th́ họ, sau khi nghe Người cho họ biết tất cả sự thật về
Người, lại "chết trong tội" của họ: "Hắn lộng ngôn... Hắn đáng
chết... Họ bắt đầu nhổ vào mặt Người" (Mathêu 26:66-67).
Và sở dĩ
họ không tin Người hay tin lời Người nói là v́ họ chưa nắm
bắt được tất cả sự thật về Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho
biết, qua câu họ hỏi Người: "Ông là ai?" Bấy giờ Người chưa tỏ
hết ḿnh ra như khi Người phải đối diện với toàn thể
Hội Đồng Đầu Mục Do Thái và được thẩm quyền cao nhất của họ hạch
hỏi, như trên đây, mà chỉ mới tỏ ḿnh ra một cách xa xa nhưng
rất chính xác về Người rằng: "Là Nguyên thủy đang nói với các
ông đây!"
Thế
nhưng, Người càng nói, càng tỏ ḿnh ra, họ càng "không hiểu".
Bởi vậy, chỉ c̣n một cách duy nhất là bằng chính cái chết của
Người mà thôi: "Khi nào quí vị đưa Con Người lên cao, quí vị sẽ
nhận biết Ta là ai". Bởi v́, chỉ có cách ấy mới có thể chứng
thực một cách sống động rằng Người quả thực là Đấng Thiên Sai, ở
chỗ: "Tôi không tự ḿnh làm điều ǵ. Điều Tôi nói, chính là điều
Chúa Cha đă dạy Tôi. Đấng đă sai Tôi đang ở với Tôi; Ngài không
để Tôi một ḿnh, bởi v́ Tôi luôn luôn làm điều đẹp ḷng Ngài".
Đúng
thế, khi Người nói những ǵ liên quan đến Chúa Cha: "Tôi có
nhiều điều phải nói và đoán xét về quí vị, nhưng Đấng đă sai
Tôi là Đấng chân thật, và điều Tôi nói ra trong thế gian đây,
chính là điều Tôi đă nghe biết ở Ngài", th́ "họ không hiểu là
Người nói về Chúa Cha", nhưng khi Người nói về chính bản thân
Người liên hệ với Chúa Cha, ở chỗ làm theo ư Cha, "th́ có nhiều
kẻ tin vào Người".
Bài Đáp
Ca hôm nay chất chứa lời nguyện cầu của một tâm hồn phiền muộn,
tiêu biểu cho những ai bị rắn lửa cắn trong Bài Đọc 1, hay thành
phần những người biệt phái dầu sao cũng có thiện chí t́m hiểu về
Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay, một tâm hồn t́m kiếm Chúa
là Vị Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, tỏ ḿnh ta cho con
người và muốn cứu độ con người nói chung cùng những ai tin tưởng
cậy trông nơi Ngài nói riêng:
1) Lạy
Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới
Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải
phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa
mau nhậm lời.
2) Lạy
Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa
cầu sẽ quư trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài
xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện
kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.
3) Những
điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác
tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đă đoái
nh́n, từ trời cao Chúa đă ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than
khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu
có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ
trên
MC.V.3.mp3
Thánh
Vinh-Sơn Ferrier 5-4

Lời
Tiên Tri Thánh Vincent Ferrer
Thánh (Vinh Sơn/Vicentê) sinh tại Valencia, nước Tây-ban-nha
(Spain) vào ngày 23 Tháng giêng Năm 1350, là con thứ ba của ông
William Fêrrêr và bà Cônstânce Ḿguêl là con gái của chính khách
naval, có họ hàng với Giám Mục của Valencia lúc bấy giờ, một gia
đ́nh Công giáo đạo đức truyền thống.
Vào một đêm kia, ông William nằm mơ thấy ḿnh đi vào nhà thờ
thánh Đaminh tại Valencia, bỗng có một vị thuộc phần tử Ḍng
Thuyết Giáo từ trên bục giảng phía trên cung thánh, xoay nh́n
ông nói rằng,
“Cha chào mừng con, William. Trong mấy ngày nữa con sẽ có một
cháu trai, trẻ này sau sẽ được phúc học hành uyên thông và thánh
thiện.
Cháu sẽ thành đại sự làm rạng danh nhà con. Thế gian sẽ vang
vọng âm thanh huy hoàng của cháu; cháu sẽ được ngập tràn phúc
sủng thiên đàng c̣n địa ngục phải khiếp run. Cháu sẽ mang tu
phục như cha đang mặc đây, và sẽ được tiếp nhận vào Hội Thánh
với niềm vui của toàn thể vũ hoàn như đối với một vị tông đồ
tiên khởi.”
Những người nghe biết chuyện đều hết thảy lớn tiếng chúc tụng –
cám đội ơn Chúa với tin mừng bất ngờ này. Riêng ông William vui
khôn xiết tả, liền đi thuật lại đầu đuôi câu chuyện với vị giám
mục họ hàng.
Bà Cônstânce kể thêm, lúc có thai Vincent th́ có hai điềm lạ xảy
ra; bà không hề đau đớn khi mang thai Vincent so với những lần
mang thai b́nh thường khác; và gần đến ngày sinh trẻ Vincent,
th́ bà nghe trong bào thai phát ra tiếng khóc như tiếng sủa của
một con chó con-gần giống như giấc mơ của chân phước Jane de Aza
Mẹ thánh Đaminh vậy.
(Bà Aza mơ thấy ḿnh sanh ra một con chó ngậm bó đuốc chạy đi
thiêu đốt khắp các thành thị). Vị giám mục ngầm hiểu rơ ngay đây
là một dấu chỉ màu nhiệm và nói với họ rằng,
“Anh chị hăy vui mừng Trong Thiên Chúa; đứa trẻ mà anh chị đang
mang vào thế gian đây, sẽ trở nên người con xứng đáng của thánh
Đaminh, cháu sẽ là một trong số những người được kêu gọi để làm
nhiều điều thiện lành vô kể bằng vào sự giảng truyền của cháu.
Hăy chăm sóc cháu cách đặc biệt cẩn thận và giáo dục cháu nên
người thánh thiện, để mai ngày cháu không phụ t́nh Thiên Chúa
đối với các tặng sủng mà Ngài đă ban cho cháu.”
Vincent được Thiên Chúa phú bẩm cho ơn làm phép lạ ngay từ khi
chưa lọt ḷng mẹ. Một buổi nọ, bà Cônstânce đi thăm một phụ nữ
mù theo thói quen đi làm việc bác ái - bố thí hàng tháng, và bà
nói với chị ấy,
“Con ơi, hăy cầu xin Chúa cho thai nhi mà mẹ đang cưu mang đến
ngày sinh được bằng an nhé.”
Người phụ nữ mù liền cúi áp đầu vào bụng bà Cônstânce rồi nói
với thai nhi,
“Xin Thiên Chúa chúc ban phúc lành cho em.”
Lập tức, chị được khỏi mù, và ḷng trí trở nên minh mẫn sáng
láng, liền thốt lời tiên tri rằng, “Thưa bà, quả là một thiên
thần bà đang cưu mang, bởi chính em đă chữa lành nỗi khổ đau cho
con.”
Giống như một thai nhi Gioan Tẩy-giả khác, thai nhi Vincent tỏ ư
bằng ḷng với lời cầu chúc từ miệng người phụ nữ nghèo, đến nỗi
nhảy mừng trong ḷng mẹ bằng dấu lạ chữa chị khỏi mù.
Ấu Thơ
Khi trẻ Vincent chào đời, được ba mẹ ẵm lên nhà thờ để chịu Phép
Rửa Tội, th́ những người bà con họ hàng ai cũng muốn lấy tên
ḿnh mà đặt cho, khiến vị linh mục chủ sự phải can thiệp mà đặt
tên là Vincent, có nghĩa là kẻ thắng trận, một cái tên chưa hề
có trong ḍng họ bao giờ.
Trẻ Vincent rất dễ tính, đặt đâu nằm đó, không có quấy khóc như
mọi trẻ khác, với miệng cười tươi, cặp mắt tṛn to mở lớn, khiến
ai nấy cũng đem ḷng thương mến.
Lên năm tuổi, Vincent, đă chữa lành một đứa trẻ hàng xóm đau
nặng được khỏi bệnh. Trong đám trẻ nhỏ hàng xóm, bạn Vincent có
một đứa lười học lắm, một hôm, cậu tới rủ nó đi học th́ nó đă
chết. Mẹ nó đang vật vă khóc lóc cách thảm thiết. Thấy thế,
Vincent nói,
“Con bác không chết đâu, nó lười học nên mê ngủ đó.”
Nói đặng, Vincent cầm lấy tay bạn bảo:
“Dậy đi học với tôi mau, kẻo trễ rồi.”
Đứa trẻ đă chết liền bật ḿnh sống dậy đi học với Vincent. Một
lần khác, khi cậu đang chơi bên cạnh giếng nhà ḿnh th́ đánh rơi
giầy, cậu liền quỳ xuống bờ giếng mà cầu nguyện, th́ liền đó
nước giếng dâng lên vừa đúng tầm tay đặng cậu có thể lấy lại
giầy.
Không những thế, Vincent c̣n thường xuyên hội tụ các bạn nhỏ
lại, rồi tự ḿnh đi t́m các chỗ cao đứng giảng cho chúng nghe
những ǵ cậu đă được nghe cha xứ giảng vào ngày Chúa Nhật vừa
qua ở nhà thờ. Có một hôm, thấy người đầy tớ đang định chặt một
trong các cây ở trong vườn, Vincent liền tới cản lại bảo,
“Xin khoan đă, đừng chặt cây đó! V́ mai mốt người ta sẽ dùng cây
này mà khắc tượng cháu đó.”
Cậu c̣n làm nhiều điều lạ khác nữa. Vincent bắt đầu đi học vào
năm tám tuổi. Cậu thuộc làu các kinh, học hành xuất sắc, năm 12
tuổi cậu đă sớm biết ăn chay vào các ngày thứ tư vào thứ sáu
trong tuần chỉ bằng bánh ḿ và nước lă.
Mười bốn tuổi Vincent học thần học, cậu năng nguyện gẫm, nhất là
rất sùng kính cuộc khổ h́nh, thương khó của Chúa Giêsu và có
ḷng biệt kính Mẹ Maria cách riêng, và sống bác ái với mọi
người. Nên xóm giềng ai cũng đem ḷng thương mến cậu và thường
gọi là “Vị thánh tư hon.”
Thiếu Niên Dũng Trí
Mười tám tuổi, Vincent xin vào “Ḍng Thuyết Giáo Thánh Đaminh -
Dominican Order of Preacher (O.P)” nơi thành phố cậu đang cư
ngụ. Từ khi chọn sống đời tu, thầy Vincent quyết chí noi gương
thánh Đaminh để tiến tới đường trọn lành.
Thầy siêng năng đọc Thánh Kinh - suy gẫm Lời Chúa tựa như cơ thể
sống động không thể thiếu các mạch máu chính và li-ti vậy. Thầy
sống khổ chế và thánh thiện trong mọi lời nói cũng như hành
động.
V́ đó, quỷ dữ căm ghét và thường xuyên quấy phá – cám dỗ và gây
đau khổ cho thầy đủ điều. Đến độ cha mẹ của thầy khuyên nên bỏ
nhà ḍng trở về làm một cha xứ (linh mục triều) b́nh thường
thôi. Nhưng thầy Vincent vẫn vững một ḷng trông cậy Chúa, ra
sức cầu nguyện nhiều hơn, đặc biệt là thầy van nài - khẩn nguyện
với Mẹ Maria và thiên thần bổn mạng cứu giúp. Sau bao nhiêu khốn
khó, thầy Vincent đă vượt thắng tất cả mọi cam go và hoàn tất
giai đoạn tập sinh.
Thầy Vincent lănh mặc tu phục ḍng Đaminh ngày 2 tháng 2 Năm
1363, và khấn trọn đời năm 1368. Kế đến, thầy Vincent tiếp tục
18 năm theo học các; khoa Thánh Kinh, học tiếng Dothái và học
rất nhanh. Trong ba năm đầu, thầy Vincent chỉ đọc Sách Thánh
Kinh và sách của các Thánh Giáo-phụ đến độ thuộc ḷng, đồng thời
thông hiểu hết toàn bộ Sách Thánh. Sau đó không lâu, thầy được
chỉ định học Triết học, măn khóa học, Vincent cho ra tŕnh làng
cuốn “khảo luận về giả thuyết biện chứng pháp...” (Treatise
Dialectic Suppositions), lúc ấy thầy chưa tṛn hai mươi bốn
tuổi. Sau đó, Vincent được gửi đến Bárcêlôna tiếp tục học chuyên
khoa Thánh Kinh. Tuy bận rộn với việc học hành, nhưng cùng thời
gian đó, thầy không ngừng rao giảng Lời Chúa và đă mang lại
nhiều kết quả lạ thường tuyệt vời không ngờ. Thầy giống hệt như
thánh Đaminh vừa là học tṛ, đồng thời vừa là giáo sư, và vừa là
nhà thuyết pháp tài ba vậy.
Vào năm 1378, ở tuổi hai mươi tám, chính tay Đức HồngY Peter De
Luna trao bằng tiến sĩ thần học cho thầy Vincent (Hồng Y Phêrô
De Luna - người sau này trở thành Giáo hoàng Bênêđíctô thứ XIII,
nhưng không chính thức giữa thời kỳ Giáo hội có cuộc “Đại Ly
Giáo” bị hủng hoảng và phân rẽ v́ chiến tranh lan rộng khắp Tây
Âu, mới đầu chỉ có hai rồi có tới ba Đức Giáo hoàng: Đức Urban
VI ngự điện tại Rôma, Đức Clêmentê VII ngự điện tại Avignon,
Pháp Quốc.
Thánh Catherine thành Siena ủng hộ Đức Urban VI ở Rôma, c̣n
thánh Vincent th́ cho ngài là bất hợp pháp …trong lúc phục vụ
Hồng Y Peter De Luna, Vincent cùng lúc tích cực thuyết phục dân
Tây Ban Nha theo Đức Clêmentê, sau khi Đức Clementê băng hà, th́
Hồng Y Luna được bầu làm Giáo Hoàng tại Avignon, lấy hiệu là Đức
Bênêđíctô thứ XIII ), Hồng Y Peter lúc ấy đại diện cho Đức Giáo
hoàng Clêment VII, đang ngự điện tại Avignon, bên Pháp, đồng
thời cũng là người thụ phong linh mục cho Vicent tại Bárcêlôna
năm 1379. Không bao lâu sau khi chịu chức linh mục, cha Vincent
liền được chọn làm bề trên tu viện Thánh Đaminh tại Valencia.
Đức Bênêđíctô XIII triệu Cha Vincent về làm việc trong bộ xá
giải tông truyền và như là một Trưởng Điện Tông Ṭa. Nhưng tân
giáo hoàng không chịu từ chức trong khi tất cả các ứng viên hồng
y trong mật nghị viện đều nhất loạt truất phế. Thế nhưng dẫu cho
hầu hết các hồng y và vua nướp Pháp phế bỏ, ngài vẫn ngoan cố
bất chấp không chịu từ chức. Nên cha Vincent vỡ mộng trở bệnh
nặng, nhưng sau cùng ngài đảm nhận việc “rao giảng Chúa Kitô cho
thế giới.”
Vào những năm 1408 đến 1415, cha Vincent cố gắng thuyết phục
người bạn cũ (Beneđíctô 13) từ chức nhưng bất thành. Sau cùng
ngài kết luận rằng Bênêđíctô không phải là đức giáo hoàng thật.
Mặc dầu đang lâm bệnh nặng, ngài cũng ráng hết sức lên ṭa giảng
ngay trước mặt giáo đoàn mà Bênêđíctô đang chủ sự mạnh mẽ tố
giác người đă tấn phong linh mục cho ngài. Bênêđíctô vội vă bỏ
trốn khỏi những người trước đây đă từng hỗ trợ ḿnh. Có điều kỳ
lạ, là cha Vincent không phải thuộc phần tử của Công Đồng
Constance (Công Đồng Constance năm 1414 đến năm 1418 do Hoàng đế
Segismunđô triệu tập: nhằm băi nhiệm 3 Đức Giáo Hoàng đang tranh
chấp nhau, chấm dứt t́nh trạng ly giáo ở Tây Phương, lên án
Wiclef và Huss. Công Đồng bầu chọn Tân Giáo Hoàng Martinô V),
thế mà đă góp phần chấm dứt cuộc ly giáo, bất kể thời ấy trải
qua cuộc canh tân nào trong Giáo Hội đều tùy thuộc vào sự hàn
gắn ly giáo. Cha Vincent sống cho tới ngày chứng kiến bầu chọn
Đức tân giáo hoàng Martin V.
Đời Linh Mục
Vincent là một nhà thuyết giảng hăng say và tài ba, suốt 20 năm
cuối đời, ngài giảng truyền Tin Mừng Phúc Âm khắp cơi Miền Nam
Âu Châu; Tây ban nha, Pháp, Ư, Đức, Belgium, Úc, Thụy điển,
Lombardy và các vùng phụ cận. Giống như một Gioan Tẩy Giả khác
được mệnh danh là một thiên sứ thần thông lướt băng qua hoang
địa tội lỗi, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, run sợ ngày công
phán, dọn đường ngay thẳng để đón Chúa, nếu không có lư do nào
khác, hầu hết các tội nhân mới đầu lắng nghe các bài giảng của
ngài đều thống hối từ bỏ tội lỗi và yêu mến Thiên Chúa. Ngài c̣n
xác nhận rằng ngài chính là “Thẩm Phán Thiên Thần – Angel of the
Judgment,” được nhắc tới trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan
Tông Đồ (Kh 14:6-7), nếu dân chúng không chịu ăn năn cải thiện
đời sống th́ cuộc chung thẩm sắp xảy ra tới nơi.
Việc thuyết giảng của ngài thực lạ lùng nhưng sinh hiệu quả kỳ
diệu đến độ mỗi lần thánh Vincent lui tới đâu thuyết giảng, lập
tức thu hút khá đông dân chúng hàng vạn, hàng ngàn, và ít nhất
có tới 10,000 người, 50 linh mục lũ lượt di hành theo từ nơi này
qua nơi khác, thậm chí ngay cả những người ở cách xa đó cả ngàn
dặm hay tin cũng tấp nập rủ nhau tới nghe ngài giảng, đến nỗi
các nhà thờ chưa kịp mở cửa đă có sẵn đám đông dân chúng túc
trực chật ních ở ngoài từ bao giờ, dẫu nhà thờ có rộng lớn bao
nhiêu mấy cũng không đủ chỗ chứa họ. Cộng đoàn linh mục hát Kinh
Thần Vụ, hát Lễ hằng ngày, và cử hành các bí tích cho những
người đă hoán cải nhờ nghe cha Vincent thuyết giảng.
Từng đoàn người nam - nữ khác biệt từ khắp nơi vừa di hành chân
không vừa đánh tội cầu nguyện râm ran từ hết đường phố này sang
tới thành phố khác. Họ dạy giáo lư khi cần thiết, thành lập các
nhà thương - bệnh xá, và làm sống lại một đức tin vốn có trước
kia nhưng đă bị tắt rụi vào thời kỳ mắc nạn dịch bệnh. Tương tự
như Tiên Tri Giôna cảnh báo thành Ninivê, dân chúng liền cải
thiện đời sống, và thế giới được tha rồi tồn tại đến hiện nay ra
sao - phần lớn cũng nhờ vào một trong những vị ngôn sứ này! Thế
nhưng, ngày nay ít có mấy người biết đến hoặc chưa hề nghe nói
tới thánh Vicentê Fêrrê!
Thể theo sự thỉnh cầu của hàng giáo mục, giáo sĩ và dân chúng
Valencia, ngài được triệu hồi về bản quốc, tiếp tục đôi việc của
ngài là giảng dạy và thuyết pháp với danh tiếng lẫy lừng như
thế, chứng tỏ cho thấy người tham dự cùng được chung hưởng phép
lành của Đấng Toàn Năng, mà ngài tôn thờ khắp đất nước vượt trên
những ǵ có thể tưởng tượng ra được. Để thử đức khiêm nhượng,
Thiên Chúa cho phép một đồng bọn của satan đến quấy phá cám dỗ
ngài phạm tội nhục thể, và vây phủ lấy ngài những tư tưởng xấu
xa dơ bẩn bất chính. Những vũ khí mà thánh nhân chống lại quỷ dữ
là ăn chay, cầu nguyện và ngài tỉnh thức không ngừng mỗi khi bốc
cơn mê dục.
Phải nói là một khi càng thăng tiến trong nhân cách th́ trông
ngài càng đẹp và rạng rỡ thêm ra, phản ánh vẻ đẹp của một tâm
hồn ngập lút t́nh thương Thiên Chúa. Cả khi về già vẻ đẹp rạng
rỡ này cũng không hề tàn phai. Tuy vậy, mỗi khi ngài thuyết
giảng về Mẹ Thiên Chúa hay các niềm vui Thiên Đàng. Ngài đặc
biệt tỏ ra Say mê và hoan hỷ như một trẻ thơ biệt sùng Mẹ Maria
vậy, nhất là vào lúc mà các tín hữu nguyện kinh Lạy Nữ Vương
Thiên Đàng.
Tâm hồn của ngài luôn luôn hướng về Thiên Chúa và cầu nguyện
liên lỉ trong công việc bổn phận, trong lao nhọc, và trong mọi
hành động. Những thao tác của ngài tương tự như trong tập sách
để lại cho mọi Kitô Hữu với nhan đề, KhảoLuận về Đời Sống Thiêng
Liêng, ngài viết như sau: “Con có muốn học hỏi để có lợi cho con
không? Con hăy tôn vinh (Chúa) khi học hỏi và nên học ít đi để
nên thánh chứ không phải học để thành người uyên bác..”
Thử suy gẫm một số câu văn (tư tưởng) trong tập sách tuyệt diệu
này. “Công đức không phải v́ con người nghèo khổ nhưng một khi
họ (ở trạng thái) nghèo khổ mà lại yêu mến đức khó nghèo “Một
câu hỏi vô bổ chỉ nên đáp lại bằng yên lặng… Cho nên con hăy học
yên lặng một thời gian; anh em con sẽ cảm phục con và sự yên
lặng sẽ dạy con lên tiếng khi cần phải lên tiếng.” “Con hăy tự
coi ḿnh là dơ bẩn và hèn hạ trước mặt Chúa v́ tội lỗi của con
hơn bất cứ người tội lỗi nào, bất kể tội của họ là ǵ đi nữa...
và hăy suy nghĩ thật kỹ càng rằng bất cứ một ân sủng hay một
khuynh hướng tốt lành nào hoặc một sự ham muốn sống nhân đức,
th́ đó không phải là do tự con mà có mà do ḷng thương xót duy
nhất của Chúa Kitô mà thôi.” “Con nên nh́n nhận rằng bất cứ một
tội nhân nào đă phạm những tội tầy đ́nh cũng có thể phụng sự
Chúa tốt hơn con nếu họ cũng nhận được những ân sủng như con.”
“Một khi thủ đắc được khiêm nhượng, th́ đời sống bác ái sẽ đến -
lửa sốt mến sẽ thiêu đốt hết những thói hư tật xấu và tâm hồn
con sẽ đầy tràn đức mến chẳng c̣n chỗ cho phù vân giả trá.”
https://hddaminhthanhlinh.net/a650/thanh-vincent-ferrer-tuc-la-thanh-vincente-lam-phep-la
ThanhVincentFerrier.mp3
https://youtu.be/klHNK7Rer4w