|  | 
					
						| 
						
						PVLC Mùa Chay Tuần V Thứ 3 và Thánh Vicente Ferrier 5/4
 
 | 
				
				
				Bài Đọc I: 
				Ds 21, 4-9
				
				"Kẻ nào 
				bị rắn cắn mà nh́n lên con rắn đồng, th́ được sống".
				
				Trích 
				sách Dân Số.
				
				Trong 
				những ngày ấy, các người Do-thái rời bỏ núi Hor, theo con đường 
				về phía Biển Đỏ, để ṿng quanh xứ Eđom. Dân chúng đi đường xa 
				mệt nhọc, nên nản chí, kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các 
				người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong 
				hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đă ngán 
				thức ăn nhàm chán này".
				
				Bởi đó 
				Chúa cho rắn lửa ḅ ra cắn chết nhiều người, họ chạy đến cùng 
				Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đă phạm tội, v́ chúng tôi nói 
				những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu 
				nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn". Môsê cầu nguyện cho 
				dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hăy đúc một con rắn 
				đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nh́n lên rắn 
				đồng, th́ được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm 
				dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nh́n lên rắn đồng, th́ được chữa 
				lành.
				
				Đó là lời 
				Chúa.
				
				 
				
				Đáp Ca: Tv 
				101, 2-3. 16-18. 19-21
				
				Đáp: Lạy 
				Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới 
				Chúa (c. 2).
				
				Xướng: 1) 
				Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên 
				tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải 
				phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa 
				mau nhậm lời. - Đáp.
				
				2) Lạy 
				Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa 
				cầu sẽ quư trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài 
				xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện 
				kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.- Đáp.
				
				3) Những 
				điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác 
				tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đă đoái 
				nh́n, từ trời cao Chúa đă ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than 
				khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. - Đáp.
				
				 
				
				Câu Xướng 
				Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab
				
				Hôm nay 
				các ngươi đừng cứng ḷng, nhưng hăy nghe tiếng Chúa phán.
				
				 
				
				Phúc Âm: 
				Ga 8, 21-30
				
				"Khi nào 
				các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai".
				
				Tin Mừng 
				Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
				
				Khi ấy, 
				Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các 
				ông sẽ t́m kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi 
				các ông không thể tới được".
				
				Người 
				Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói 
				"Nơi Ta đi các ông không thể tới được"?"
				
				Chúa 
				Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; c̣n Ta, Ta bởi trời 
				cao. Các ông thuộc về thế gian này; c̣n Ta, Ta không thuộc về 
				thế gian này. Ta đă nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. V́, 
				nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các 
				ông".
				
				Vậy họ 
				liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang 
				nói với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về 
				các ông, nhưng Đấng đă sai Ta là Đấng chân thật, và điều Ta nói 
				ra trong thế gian đây, chính là điều Ta đă nghe biết ở Ngài".
				
				Nhưng họ 
				không hiểu là Người nói về Chúa Cha, v́ thế Chúa Giêsu nói: "Khi 
				nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là 
				ai. Ta không tự ḿnh làm điều ǵ. Điều Ta nói, chính là điều 
				Chúa Cha đă dạy Ta. Đấng đă sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để 
				Ta một ḿnh, bởi v́ Ta luôn luôn làm điều đẹp ḷng Ngài". Khi 
				Người nói những điều ấy th́ có nhiều kẻ tin vào Người.
				
				Đó là lời 
				Chúa.
				
				 
				
				Suy 
				niệm 
				
				   Chúa 
				Giêsu đă chẳng những cho họ biết lư do họ không hiểu Người
				
				mà c̣n 
				cho họ biết nguyên do phạm tội chính khi họ "t́m kiếm" Người 
				nữa    
				
				Chủ đề 
				chung cho Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh là "Tôi tự ư bỏ sự 
				sống ḿnh đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng rơ nét trong 
				phụng vụ lời Chúa hôm nay, Thứ Ba trong Tuần V Mùa Chay, bao gồm 
				cả Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1. 
				
				Ở Bài 
				Phúc Âm, "Tôi tự ư bỏ sự sống của ḿnh đi", ở chỗ, như Chúa 
				Giêsu đă báo trước cho "những 
				người biệt phái rằng": "Khi nào quí vị đưa Con Người lên 
				cao", nghĩa là khi nào quí vị hô hoán đ̣i "đóng đanh nó vào thập 
				giá, đóng đanh nó vào thập giá" (Luca 23:21; Marco 15:13-15).  
				
				
				Nhưng "Tôi lấy nó lại", ở chỗ, chính khi quí vị thách đố Tôi 
				xuống khỏi thập tự giá Tôi 
				cũng không xuống (xem Matthew 27:39-43; Mark 15:29-32; Luke 
				23:35-36) th́ lại là lúc quí vị bấy giờ mới biết Tôi thật sự là 
				Đấng Thiên Sai, như Tôi đă nói, Tôi xuống thế gian này là để làm 
				theo ư Cha là Đấng sai Tôi chứ không phải làm theo ư của Tôi 
				(xem Gioan 6:38). 
				
				Ở 
				Bài Đọc 1 cũng thế, chủ đề "Tôi tự ư bỏ sự sống ḿnh đi để rồi 
				lấy lại" được báo trước ngay trong lời Thiên Chúa phán với 
				Moisen rằng: "'Ngươi hăy đúc 
				một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà 
				nh́n lên rắn đồng, th́ được sống'. Môsê đúc một con rắn đồng, 
				treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nh́n lên rắn đồng, 
				th́ được chữa lành". 
				
				H́nh ảnh 
				"con rắn bằng đồng" có thể chữa lành cho những ai bị "rắn lửa 
				cắn" khi họ nh́n lên con rắn treo lên được đúc bằng đồng ấy ám 
				chỉ Chúa Kitô tử giá, và thành phần bị rắn cắn mà nh́n lên con 
				rắn bằng đồng được treo lên ấy ám chỉ thành phần tội nhân tin 
				tưởng vào (tức là "nh́n lên") "Đấng họ đă đâm thâu qua" (Gioan 
				19:37), bao gồm cả dân ngoại: "Người này quả là một con người vô 
				tội" (Luca 23:47) lẫn dân Do Thái: "Khi đám đông qui tụ lại 
				trước cảnh tượng ấy nh́n thấy những ǵ đă xẩy ra th́ trở về đấm 
				ngực" (Luca 23:48).  
				
				Thế 
				nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, tại sao con rắn vốn tiêu 
				biểu cho những ǵ là độc dữ, đă từng bị chính Thiên Chúa nguyền 
				rủa ngay từ ban đầu sau khi nó là tác nhân gây ra nguyên tội 
				(xem Khởi Nguyên 3:14; Gioan 8:44), mà trong Bài Đọc 1 trích từ 
				Sách Dân Số hôm nay, lại ám chỉ Chúa Kitô tử giá? Phải chăng là 
				v́ Thiên Chúa muốn "lấy của độc giải độc", ở chỗ, thương đau 
				và chết chóc gây ra bởi rắn th́ chữa lành và sống c̣n cũng bởi 
				rắn?  
				
				Thật ra, 
				tự bản thân của ḿnh, Chúa Kitô là chính Con Thiên Chúa, là Đấng 
				vô cùng thánh hảo, không có một chút hèn hạ và xấu xa nhơ nhớp 
				nào, thế nhưng, v́ Người cũng chính là Đấng Cứu Thế mà Người đă 
				cần phải "trở nên" "Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần 
				gian" (Gioan 1:29), để nhờ đó có thể cứu nhân loại nhiễm lây 
				nguyên tội bởi rắn quỉ cắn trong vườn địa đường khỏi tội lỗi và 
				sự chết do chính rắn quỉ gây ra cho bản tính của họ, bằng cách 
				chính Người đă phải "trở thành tội lỗi" (2Corinto 5:21) và "bị 
				nguyền rủa" như một tử tội trên thập tự giá (Galata 3:13), nghĩa 
				là Người đă trở nên như một con rắn bằng đồng thôi, chứ không 
				phải rắn thật, một h́nh tượng tiêu biểu cho tội lỗi và chết 
				chóc.   
				
				Đó là một 
				mầu nhiệm vô cùng thâm sâu con người không thể nào thấu hiểu. V́ 
				theo lập luận của loài người th́ Thiên Chúa là Đấng vô cùng 
				thánh hảo và toàn năng không thể nào lại trở thành một con người 
				hay không thể nào làm người vô cùng thấp hèn, bất toàn và bất 
				lực được, chứ chưa nói đến lại c̣n "trở thành tội lỗi" và "bị 
				nguyền rủa" vô cùng khốn nạn như thế. 
				
				Bởi vậy 
				mà trong bài Phúc Âm hôm nay chính Chúa Giêsu đă vừa khẳng định 
				vừa tiên báo cho "những người biệt phái rằng: 'Tôi ra đi, quí 
				vị sẽ t́m kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Nơi 
				Tôi đi quí vị không thể nào tới được'", tức loài người như 
				họ không thể nào hiểu được, chứ chưa nói ǵ đến việc chấp 
				nhận được. 
				
				Ngay câu 
				Người nói ấy mà họ chưa hiểu nổi ư nghĩa sâu xa huyền nhiệm của 
				những ǵ Người muốn nói huống chi khi họ tận mắt chứng kiến thấy 
				sự thật xẩy ra, do đó: "Người Do-thái nói với nhau rằng: 'Ông ta 
				sắp tự vẫn hay sao mà lại nói: Nơi Ta đi các ông không thể tới 
				được?" 
				
				Mà thật, 
				lư do con người bất khả thấu hiểu mầu nhiệm Chúa Kitô này là v́ 
				tầm mức chênh lệnh giữa tạo hóa với tạo vật, và tạo vật không 
				thể nào bằng tạo hóa cùng hiểu được như tạo hóa, khoảng cách 
				biệt hơn trời với đất. Thế nên, Chúa Giêsu đă chẳng những cho họ 
				biết lư do họ không hiểu Người mà c̣n cho họ biết nguyên do phạm 
				tội chính khi họ "t́m kiếm" Người nữa, đó là:  
				
				"Quí 
				vị thuộc về hạ giới; c̣n Ta, Ta bởi trời cao. Quí vị thuộc về 
				thế gian này; c̣n Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đă 
				nói: Quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. V́, nếu quí vị không 
				tin Ta, quí vị sẽ chết trong tội của quí vị".  
				
				Thật sự 
				là thế, chính v́ "quí vị không tin Ta" mà "quí vị sẽ chết trong 
				tội của quí vị", đúng như Người đă quả quyết và cảnh báo: "quí 
				vị sẽ t́m kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị", ở 
				chỗ, chính khi họ "t́m kiếm" Người bằng cách cuối cùng "nhân 
				danh Thiên Chúa hằng sống", qua vị thượng tế Caipha của họ, hỏi 
				Người một cách chính thức và hết sức trịnh trọng có phải là 
				"Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa hay chăng?" (xem Mathêu 26:63) 
				th́ họ, sau khi nghe Người cho họ biết tất cả sự thật về 
				Người, lại "chết trong tội" của họ: "Hắn lộng ngôn... Hắn đáng 
				chết... Họ bắt đầu nhổ vào mặt Người" (Mathêu 26:66-67).  
				
				Và sở dĩ 
				họ không tin Người hay tin lời Người nói là v́ họ chưa nắm 
				bắt được tất cả sự thật về Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho 
				biết, qua câu họ hỏi Người: "Ông là ai?" Bấy giờ Người chưa tỏ 
				hết ḿnh ra như khi Người phải đối diện với toàn thể 
				Hội Đồng Đầu Mục Do Thái và được thẩm quyền cao nhất của họ hạch 
				hỏi, như trên đây, mà chỉ mới tỏ ḿnh ra một cách xa xa nhưng 
				rất chính xác về Người rằng: "Là Nguyên thủy đang nói với các 
				ông đây!"  
				
				Thế 
				nhưng, Người càng nói, càng tỏ ḿnh ra, họ càng "không hiểu". 
				Bởi vậy, chỉ c̣n một cách duy nhất là bằng chính cái chết của 
				Người mà thôi: "Khi nào quí vị đưa Con Người lên cao, quí vị sẽ 
				nhận biết Ta là ai". Bởi v́, chỉ có cách ấy mới có thể chứng 
				thực một cách sống động rằng Người quả thực là Đấng Thiên Sai, ở 
				chỗ: "Tôi không tự ḿnh làm điều ǵ. Điều Tôi nói, chính là điều 
				Chúa Cha đă dạy Tôi. Đấng đă sai Tôi đang ở với Tôi; Ngài không 
				để Tôi một ḿnh, bởi v́ Tôi luôn luôn làm điều đẹp ḷng Ngài". 
				
				Đúng 
				thế, khi Người nói những ǵ liên quan đến Chúa Cha: "Tôi có 
				nhiều điều phải nói và đoán xét về quí vị, nhưng Đấng đă sai 
				Tôi là Đấng chân thật, và điều Tôi nói ra trong thế gian đây, 
				chính là điều Tôi đă nghe biết ở Ngài", th́ "họ không hiểu là 
				Người nói về Chúa Cha", nhưng khi Người nói về chính bản thân 
				Người liên hệ với Chúa Cha, ở chỗ làm theo ư Cha, "th́ có nhiều 
				kẻ tin vào Người". 
				
				Bài Đáp 
				Ca hôm nay chất chứa lời nguyện cầu của một tâm hồn phiền muộn, 
				tiêu biểu cho những ai bị rắn lửa cắn trong Bài Đọc 1, hay thành 
				phần những người biệt phái dầu sao cũng có thiện chí t́m hiểu về 
				Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay, một tâm hồn t́m kiếm Chúa 
				là Vị Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, tỏ ḿnh ta cho con 
				người và muốn cứu độ con người nói chung cùng những ai tin tưởng 
				cậy trông nơi Ngài nói riêng: 
				
				1) Lạy 
				Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới 
				Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải 
				phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa 
				mau nhậm lời.  
				
				2) Lạy 
				Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa 
				cầu sẽ quư trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài 
				xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện 
				kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van. 
				
				3) Những 
				điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác 
				tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đă đoái 
				nh́n, từ trời cao Chúa đă ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than 
				khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. 
				
				 
				
				Đaminh 
				Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu 
				có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ 
				trên
				
				
				
				MC.V.3.mp3 
				
				Thánh 
				Vinh-Sơn Ferrier 5-4
				
				 
				
				Lời 
				Tiên Tri Thánh Vincent Ferrer
				
				Thánh (Vinh Sơn/Vicentê) sinh tại Valencia, nước Tây-ban-nha 
				(Spain) vào ngày 23 Tháng giêng Năm 1350, là con thứ ba của ông 
				William Fêrrêr và bà Cônstânce Ḿguêl là con gái của chính khách 
				naval, có họ hàng với Giám Mục của Valencia lúc bấy giờ, một gia 
				đ́nh Công giáo đạo đức truyền thống.
				
				Vào một đêm kia, ông William nằm mơ thấy ḿnh đi vào nhà thờ 
				thánh Đaminh tại Valencia, bỗng có một vị thuộc phần tử Ḍng 
				Thuyết Giáo từ trên bục giảng phía trên cung thánh, xoay nh́n 
				ông nói rằng,
				
				“Cha chào mừng con, William. Trong mấy ngày nữa con sẽ có một 
				cháu trai, trẻ này sau sẽ được phúc học hành uyên thông và thánh 
				thiện.
				
				Cháu sẽ thành đại sự làm rạng danh nhà con. Thế gian sẽ vang 
				vọng âm thanh huy hoàng của cháu; cháu sẽ được ngập tràn phúc 
				sủng thiên đàng c̣n địa ngục phải khiếp run. Cháu sẽ mang tu 
				phục như cha đang mặc đây, và sẽ được tiếp nhận vào Hội Thánh 
				với niềm vui của toàn thể vũ hoàn như đối với một vị tông đồ 
				tiên khởi.”
				
				Những người nghe biết chuyện đều hết thảy lớn tiếng chúc tụng – 
				cám đội ơn Chúa với tin mừng bất ngờ này. Riêng ông William vui 
				khôn xiết tả, liền đi thuật lại đầu đuôi câu chuyện với vị giám 
				mục họ hàng.
				
				Bà Cônstânce kể thêm, lúc có thai Vincent th́ có hai điềm lạ xảy 
				ra; bà không hề đau đớn khi mang thai Vincent so với những lần 
				mang thai b́nh thường khác; và gần đến ngày sinh trẻ Vincent, 
				th́ bà nghe trong bào thai phát ra tiếng khóc như tiếng sủa của 
				một con chó con-gần giống như giấc mơ của chân phước Jane de Aza 
				Mẹ thánh Đaminh vậy.
				
				(Bà Aza mơ thấy ḿnh sanh ra một con chó ngậm bó đuốc chạy đi 
				thiêu đốt khắp các thành thị). Vị giám mục ngầm hiểu rơ ngay đây 
				là một dấu chỉ màu nhiệm và nói với họ rằng,
				
				“Anh chị hăy vui mừng Trong Thiên Chúa; đứa trẻ mà anh chị đang 
				mang vào thế gian đây, sẽ trở nên người con xứng đáng của thánh 
				Đaminh, cháu sẽ là một trong số những người được kêu gọi để làm 
				nhiều điều thiện lành vô kể bằng vào sự giảng truyền của cháu. 
				Hăy chăm sóc cháu cách đặc biệt cẩn thận và giáo dục cháu nên 
				người thánh thiện, để mai ngày cháu không phụ t́nh Thiên Chúa 
				đối với các tặng sủng mà Ngài đă ban cho cháu.”
				
				Vincent được Thiên Chúa phú bẩm cho ơn làm phép lạ ngay từ khi 
				chưa lọt ḷng mẹ. Một buổi nọ, bà Cônstânce đi thăm một phụ nữ 
				mù theo thói quen đi làm việc bác ái - bố thí hàng tháng, và bà 
				nói với chị ấy,
				
				“Con ơi, hăy cầu xin Chúa cho thai nhi mà mẹ đang cưu mang đến 
				ngày sinh được bằng an nhé.”
				
				Người phụ nữ mù liền cúi áp đầu vào bụng bà Cônstânce rồi nói 
				với thai nhi,
				
				“Xin Thiên Chúa chúc ban phúc lành cho em.”
				
				Lập tức, chị được khỏi mù, và ḷng trí trở nên minh mẫn sáng 
				láng, liền thốt lời tiên tri rằng, “Thưa bà, quả là một thiên 
				thần bà đang cưu mang, bởi chính em đă chữa lành nỗi khổ đau cho 
				con.”
				
				Giống như một thai nhi Gioan Tẩy-giả khác, thai nhi Vincent tỏ ư 
				bằng ḷng với lời cầu chúc từ miệng người phụ nữ nghèo, đến nỗi 
				nhảy mừng trong ḷng mẹ bằng dấu lạ chữa chị khỏi mù.
				
				Ấu Thơ
				
				Khi trẻ Vincent chào đời, được ba mẹ ẵm lên nhà thờ để chịu Phép 
				Rửa Tội, th́ những người bà con họ hàng ai cũng muốn lấy tên 
				ḿnh mà đặt cho, khiến vị linh mục chủ sự phải can thiệp mà đặt 
				tên là Vincent, có nghĩa là kẻ thắng trận, một cái tên chưa hề 
				có trong ḍng họ bao giờ.
				
				Trẻ Vincent rất dễ tính, đặt đâu nằm đó, không có quấy khóc như 
				mọi trẻ khác, với miệng cười tươi, cặp mắt tṛn to mở lớn, khiến 
				ai nấy cũng đem ḷng thương mến.
				
				Lên năm tuổi, Vincent, đă chữa lành một đứa trẻ hàng xóm đau 
				nặng được khỏi bệnh. Trong đám trẻ nhỏ hàng xóm, bạn Vincent có 
				một đứa lười học lắm, một hôm, cậu tới rủ nó đi học th́ nó đă 
				chết. Mẹ nó đang vật vă khóc lóc cách thảm thiết. Thấy thế, 
				Vincent nói,
				
				“Con bác không chết đâu, nó lười học nên mê ngủ đó.”
				
				Nói đặng, Vincent cầm lấy tay bạn bảo:
				
				“Dậy đi học với tôi mau, kẻo trễ rồi.”
				
				Đứa trẻ đă chết liền bật ḿnh sống dậy đi học với Vincent. Một 
				lần khác, khi cậu đang chơi bên cạnh giếng nhà ḿnh th́ đánh rơi 
				giầy, cậu liền quỳ xuống bờ giếng mà cầu nguyện, th́ liền đó 
				nước giếng dâng lên vừa đúng tầm tay đặng cậu có thể lấy lại 
				giầy.
				
				Không những thế, Vincent c̣n thường xuyên hội tụ các bạn nhỏ 
				lại, rồi tự ḿnh đi t́m các chỗ cao đứng giảng cho chúng nghe 
				những ǵ cậu đă được nghe cha xứ giảng vào ngày Chúa Nhật vừa 
				qua ở nhà thờ. Có một hôm, thấy người đầy tớ đang định chặt một 
				trong các cây ở trong vườn, Vincent liền tới cản lại bảo,
				
				“Xin khoan đă, đừng chặt cây đó! V́ mai mốt người ta sẽ dùng cây 
				này mà khắc tượng cháu đó.”
				
				Cậu c̣n làm nhiều điều lạ khác nữa. Vincent bắt đầu đi học vào 
				năm tám tuổi. Cậu thuộc làu các kinh, học hành xuất sắc, năm 12 
				tuổi cậu đă sớm biết ăn chay vào các ngày thứ tư vào thứ sáu 
				trong tuần chỉ bằng bánh ḿ và nước lă.
				
				Mười bốn tuổi Vincent học thần học, cậu năng nguyện gẫm, nhất là 
				rất sùng kính cuộc khổ h́nh, thương khó của Chúa Giêsu và có 
				ḷng biệt kính Mẹ Maria cách riêng, và sống bác ái với mọi 
				người. Nên xóm giềng ai cũng đem ḷng thương mến cậu và thường 
				gọi là “Vị thánh tư hon.”
				
				Thiếu Niên Dũng Trí
				
				Mười tám tuổi, Vincent xin vào “Ḍng Thuyết Giáo Thánh Đaminh - 
				Dominican Order of Preacher (O.P)” nơi thành phố cậu đang cư 
				ngụ. Từ khi chọn sống đời tu, thầy Vincent quyết chí noi gương 
				thánh Đaminh để tiến tới đường trọn lành.
				
				Thầy siêng năng đọc Thánh Kinh - suy gẫm Lời Chúa tựa như cơ thể 
				sống động không thể thiếu các mạch máu chính và li-ti vậy. Thầy 
				sống khổ chế và thánh thiện trong mọi lời nói cũng như hành 
				động.
				
				V́ đó, quỷ dữ căm ghét và thường xuyên quấy phá – cám dỗ và gây 
				đau khổ cho thầy đủ điều. Đến độ cha mẹ của thầy khuyên nên bỏ 
				nhà ḍng trở về làm một cha xứ (linh mục triều) b́nh thường 
				thôi. Nhưng thầy Vincent vẫn vững một ḷng trông cậy Chúa, ra 
				sức cầu nguyện nhiều hơn, đặc biệt là thầy van nài - khẩn nguyện 
				với Mẹ Maria và thiên thần bổn mạng cứu giúp. Sau bao nhiêu khốn 
				khó, thầy Vincent đă vượt thắng tất cả mọi cam go và hoàn tất 
				giai đoạn tập sinh.
				
				Thầy Vincent lănh mặc tu phục ḍng Đaminh ngày 2 tháng 2 Năm 
				1363, và khấn trọn đời năm 1368. Kế đến, thầy Vincent tiếp tục 
				18 năm theo học các; khoa Thánh Kinh, học tiếng Dothái và học 
				rất nhanh. Trong ba năm đầu, thầy Vincent chỉ đọc Sách Thánh 
				Kinh và sách của các Thánh Giáo-phụ đến độ thuộc ḷng, đồng thời 
				thông hiểu hết toàn bộ Sách Thánh. Sau đó không lâu, thầy được 
				chỉ định học Triết học, măn khóa học, Vincent cho ra tŕnh làng 
				cuốn “khảo luận về giả thuyết biện chứng pháp...” (Treatise 
				Dialectic Suppositions), lúc ấy thầy chưa tṛn hai mươi bốn 
				tuổi. Sau đó, Vincent được gửi đến Bárcêlôna tiếp tục học chuyên 
				khoa Thánh Kinh. Tuy bận rộn với việc học hành, nhưng cùng thời 
				gian đó, thầy không ngừng rao giảng Lời Chúa và đă mang lại 
				nhiều kết quả lạ thường tuyệt vời không ngờ. Thầy giống hệt như 
				thánh Đaminh vừa là học tṛ, đồng thời vừa là giáo sư, và vừa là 
				nhà thuyết pháp tài ba vậy.
				
				Vào năm 1378, ở tuổi hai mươi tám, chính tay Đức HồngY Peter De 
				Luna trao bằng tiến sĩ thần học cho thầy Vincent (Hồng Y Phêrô 
				De Luna - người sau này trở thành Giáo hoàng Bênêđíctô thứ XIII, 
				nhưng không chính thức giữa thời kỳ Giáo hội có cuộc “Đại Ly 
				Giáo” bị hủng hoảng và phân rẽ v́ chiến tranh lan rộng khắp Tây 
				Âu, mới đầu chỉ có hai rồi có tới ba Đức Giáo hoàng: Đức Urban 
				VI ngự điện tại Rôma, Đức Clêmentê VII ngự điện tại Avignon, 
				Pháp Quốc.
				
				Thánh Catherine thành Siena ủng hộ Đức Urban VI ở Rôma, c̣n 
				thánh Vincent th́ cho ngài là bất hợp pháp …trong lúc phục vụ 
				Hồng Y Peter De Luna, Vincent cùng lúc tích cực thuyết phục dân 
				Tây Ban Nha theo Đức Clêmentê, sau khi Đức Clementê băng hà, th́ 
				Hồng Y Luna được bầu làm Giáo Hoàng tại Avignon, lấy hiệu là Đức 
				Bênêđíctô thứ XIII ), Hồng Y Peter lúc ấy đại diện cho Đức Giáo 
				hoàng Clêment VII, đang ngự điện tại Avignon, bên Pháp, đồng 
				thời cũng là người thụ phong linh mục cho Vicent tại Bárcêlôna 
				năm 1379. Không bao lâu sau khi chịu chức linh mục, cha Vincent 
				liền được chọn làm bề trên tu viện Thánh Đaminh tại Valencia.
				
				Đức Bênêđíctô XIII triệu Cha Vincent về làm việc trong bộ xá 
				giải tông truyền và như là một Trưởng Điện Tông Ṭa. Nhưng tân 
				giáo hoàng không chịu từ chức trong khi tất cả các ứng viên hồng 
				y trong mật nghị viện đều nhất loạt truất phế. Thế nhưng dẫu cho 
				hầu hết các hồng y và vua nướp Pháp phế bỏ, ngài vẫn ngoan cố 
				bất chấp không chịu từ chức. Nên cha Vincent vỡ mộng trở bệnh 
				nặng, nhưng sau cùng ngài đảm nhận việc “rao giảng Chúa Kitô cho 
				thế giới.”
				
				Vào những năm 1408 đến 1415, cha Vincent cố gắng thuyết phục 
				người bạn cũ (Beneđíctô 13) từ chức nhưng bất thành. Sau cùng 
				ngài kết luận rằng Bênêđíctô không phải là đức giáo hoàng thật. 
				Mặc dầu đang lâm bệnh nặng, ngài cũng ráng hết sức lên ṭa giảng 
				ngay trước mặt giáo đoàn mà Bênêđíctô đang chủ sự mạnh mẽ tố 
				giác người đă tấn phong linh mục cho ngài. Bênêđíctô vội vă bỏ 
				trốn khỏi những người trước đây đă từng hỗ trợ ḿnh. Có điều kỳ 
				lạ, là cha Vincent không phải thuộc phần tử của Công Đồng 
				Constance (Công Đồng Constance năm 1414 đến năm 1418 do Hoàng đế 
				Segismunđô triệu tập: nhằm băi nhiệm 3 Đức Giáo Hoàng đang tranh 
				chấp nhau, chấm dứt t́nh trạng ly giáo ở Tây Phương, lên án 
				Wiclef và Huss. Công Đồng bầu chọn Tân Giáo Hoàng Martinô V), 
				thế mà đă góp phần chấm dứt cuộc ly giáo, bất kể thời ấy trải 
				qua cuộc canh tân nào trong Giáo Hội đều tùy thuộc vào sự hàn 
				gắn ly giáo. Cha Vincent sống cho tới ngày chứng kiến bầu chọn 
				Đức tân giáo hoàng Martin V.
				
				Đời Linh Mục
				
				Vincent là một nhà thuyết giảng hăng say và tài ba, suốt 20 năm 
				cuối đời, ngài giảng truyền Tin Mừng Phúc Âm khắp cơi Miền Nam 
				Âu Châu; Tây ban nha, Pháp, Ư, Đức, Belgium, Úc, Thụy điển, 
				Lombardy và các vùng phụ cận. Giống như một Gioan Tẩy Giả khác 
				được mệnh danh là một thiên sứ thần thông lướt băng qua hoang 
				địa tội lỗi, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, run sợ ngày công 
				phán, dọn đường ngay thẳng để đón Chúa, nếu không có lư do nào 
				khác, hầu hết các tội nhân mới đầu lắng nghe các bài giảng của 
				ngài đều thống hối từ bỏ tội lỗi và yêu mến Thiên Chúa. Ngài c̣n 
				xác nhận rằng ngài chính là “Thẩm Phán Thiên Thần – Angel of the 
				Judgment,” được nhắc tới trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan 
				Tông Đồ (Kh 14:6-7), nếu dân chúng không chịu ăn năn cải thiện 
				đời sống th́ cuộc chung thẩm sắp xảy ra tới nơi.
				
				Việc thuyết giảng của ngài thực lạ lùng nhưng sinh hiệu quả kỳ 
				diệu đến độ mỗi lần thánh Vincent lui tới đâu thuyết giảng, lập 
				tức thu hút khá đông dân chúng hàng vạn, hàng ngàn, và ít nhất 
				có tới 10,000 người, 50 linh mục lũ lượt di hành theo từ nơi này 
				qua nơi khác, thậm chí ngay cả những người ở cách xa đó cả ngàn 
				dặm hay tin cũng tấp nập rủ nhau tới nghe ngài giảng, đến nỗi 
				các nhà thờ chưa kịp mở cửa đă có sẵn đám đông dân chúng túc 
				trực chật ních ở ngoài từ bao giờ, dẫu nhà thờ có rộng lớn bao 
				nhiêu mấy cũng không đủ chỗ chứa họ. Cộng đoàn linh mục hát Kinh 
				Thần Vụ, hát Lễ hằng ngày, và cử hành các bí tích cho những 
				người đă hoán cải nhờ nghe cha Vincent thuyết giảng.
				
				Từng đoàn người nam - nữ khác biệt từ khắp nơi vừa di hành chân 
				không vừa đánh tội cầu nguyện râm ran từ hết đường phố này sang 
				tới thành phố khác. Họ dạy giáo lư khi cần thiết, thành lập các 
				nhà thương - bệnh xá, và làm sống lại một đức tin vốn có trước 
				kia nhưng đă bị tắt rụi vào thời kỳ mắc nạn dịch bệnh. Tương tự 
				như Tiên Tri Giôna cảnh báo thành Ninivê, dân chúng liền cải 
				thiện đời sống, và thế giới được tha rồi tồn tại đến hiện nay ra 
				sao - phần lớn cũng nhờ vào một trong những vị ngôn sứ này! Thế 
				nhưng, ngày nay ít có mấy người biết đến hoặc chưa hề nghe nói 
				tới thánh Vicentê Fêrrê!
				
				Thể theo sự thỉnh cầu của hàng giáo mục, giáo sĩ và dân chúng 
				Valencia, ngài được triệu hồi về bản quốc, tiếp tục đôi việc của 
				ngài là giảng dạy và thuyết pháp với danh tiếng lẫy lừng như 
				thế, chứng tỏ cho thấy người tham dự cùng được chung hưởng phép 
				lành của Đấng Toàn Năng, mà ngài tôn thờ khắp đất nước vượt trên 
				những ǵ có thể tưởng tượng ra được. Để thử đức khiêm nhượng, 
				Thiên Chúa cho phép một đồng bọn của satan đến quấy phá cám dỗ 
				ngài phạm tội nhục thể, và vây phủ lấy ngài những tư tưởng xấu 
				xa dơ bẩn bất chính. Những vũ khí mà thánh nhân chống lại quỷ dữ 
				là ăn chay, cầu nguyện và ngài tỉnh thức không ngừng mỗi khi bốc 
				cơn mê dục.
				
				Phải nói là một khi càng thăng tiến trong nhân cách th́ trông 
				ngài càng đẹp và rạng rỡ thêm ra, phản ánh vẻ đẹp của một tâm 
				hồn ngập lút t́nh thương Thiên Chúa. Cả khi về già vẻ đẹp rạng 
				rỡ này cũng không hề tàn phai. Tuy vậy, mỗi khi ngài thuyết 
				giảng về Mẹ Thiên Chúa hay các niềm vui Thiên Đàng. Ngài đặc 
				biệt tỏ ra Say mê và hoan hỷ như một trẻ thơ biệt sùng Mẹ Maria 
				vậy, nhất là vào lúc mà các tín hữu nguyện kinh Lạy Nữ Vương 
				Thiên Đàng.
				
				Tâm hồn của ngài luôn luôn hướng về Thiên Chúa và cầu nguyện 
				liên lỉ trong công việc bổn phận, trong lao nhọc, và trong mọi 
				hành động. Những thao tác của ngài tương tự như trong tập sách 
				để lại cho mọi Kitô Hữu với nhan đề, KhảoLuận về Đời Sống Thiêng 
				Liêng, ngài viết như sau: “Con có muốn học hỏi để có lợi cho con 
				không? Con hăy tôn vinh (Chúa) khi học hỏi và nên học ít đi để 
				nên thánh chứ không phải học để thành người uyên bác..”
				
				Thử suy gẫm một số câu văn (tư tưởng) trong tập sách tuyệt diệu 
				này. “Công đức không phải v́ con người nghèo khổ nhưng một khi 
				họ (ở trạng thái) nghèo khổ mà lại yêu mến đức khó nghèo “Một 
				câu hỏi vô bổ chỉ nên đáp lại bằng yên lặng… Cho nên con hăy học 
				yên lặng một thời gian; anh em con sẽ cảm phục con và sự yên 
				lặng sẽ dạy con lên tiếng khi cần phải lên tiếng.” “Con hăy tự 
				coi ḿnh là dơ bẩn và hèn hạ trước mặt Chúa v́ tội lỗi của con 
				hơn bất cứ người tội lỗi nào, bất kể tội của họ là ǵ đi nữa... 
				và hăy suy nghĩ thật kỹ càng rằng bất cứ một ân sủng hay một 
				khuynh hướng tốt lành nào hoặc một sự ham muốn sống nhân đức, 
				th́ đó không phải là do tự con mà có mà do ḷng thương xót duy 
				nhất của Chúa Kitô mà thôi.” “Con nên nh́n nhận rằng bất cứ một 
				tội nhân nào đă phạm những tội tầy đ́nh cũng có thể phụng sự 
				Chúa tốt hơn con nếu họ cũng nhận được những ân sủng như con.” 
				“Một khi thủ đắc được khiêm nhượng, th́ đời sống bác ái sẽ đến - 
				lửa sốt mến sẽ thiêu đốt hết những thói hư tật xấu và tâm hồn 
				con sẽ đầy tràn đức mến chẳng c̣n chỗ cho phù vân giả trá.”
				
				 
				
				
				
				
				https://hddaminhthanhlinh.net/a650/thanh-vincent-ferrer-tuc-la-thanh-vincente-lam-phep-la
				
				 
				
				 ThanhVincentFerrier.mp3
				
				
				
				
				https://youtu.be/klHNK7Rer4w