1. Thiện
ích của gia đ́nh là điều có tính quyết định đối với
tương lai của thế giới và Hội thánh. Đă có rất nhiều
phân tích về hôn nhân và gia đ́nh, về những khó khăn
và thách đố đối với gia đ́nh hiện nay. Chúng ta nên tập chú vào thực tế cụ thể, v́
“những đ̣i hỏi và những lời mời gọi của Thần Khí
cũng vang lên ngay trong những biến cố lịch sử”, qua
đó “Hội thánh có thể được dẫn đến chỗ hiểu biết thâm
sâu hơn đối với mầu nhiệm khôn ḍ về hôn nhân và gia
đ́nh”[1]. Ở đây, tôi không có tham
vọng tŕnh bày toàn bộ những ǵ có thể nói về những
đề tài khác nhau liên quan đến gia đ́nh trong bối
cảnh hiện thời. Nhưng, v́ các Nghị phụ Thượng Hội
đồng đă đưa ra một cái nh́n thực tế về các gia đ́nh
trên toàn thế giới, nên tôi thấy thật là phù hợp để
thâu thập lại đôi điều trong những đóng góp mục vụ
của các ngài, thêm vào đó những bận tâm khác từ
chính cái nh́n của tôi.
2. “Trung
thành với giáo huấn của Đức Kitô, chúng ta hăy nh́n
vào thực tế của gia đ́nh hiện nay trong toàn cảnh
phức tạp, với ánh sáng và bóng tối của nó. […] Những
thay đổi về nhân học và văn hóa ngày nay đang tác
động lên mọi khía cạnh của đời sống và đ̣i phải có
một lối tiếp cận có tính phân tích và đa dạng”[2]. Trong bối cảnh cách đây vài
thập niên, các Giám mục Tây Ban Nha đă nhận ra một
thực tế là trong các gia đ́nh đă có được sự tự do
nhiều hơn, “bằng sự phân công hợp t́nh hợp lí hơn
các gánh nặng, trách nhiệm và công việc. […] Khi
càng đề cao sự thông giao nhân vị giữa vợ chồng,
người ta càng góp phần làm cho toàn thể cuộc sống
chung trong gia đ́nh có tính nhân văn hơn. […] Cả xă hội ngày nay trong đó chúng ta đang
sống, cũng như xă hội mà chúng ta đang hướng đến đều
không cho phép tiếp tục tồn tại những h́nh thức và
mẫu mực gia đ́nh như trong quá khứ mà thiếu sự phân
biệt”[3].Nhưng “chúng tôi ư thức xu hướng chính của những
thay đổi về nhân học và văn hóa đó đang dẫn các cá
nhân đến chỗ ngày càng ít được hỗ trợ hơn so với quá
khứ từ các cấu trúc xă hội, trong đời sống t́nh cảm
và gia đ́nh của họ”[4].
3. Đàng
khác, “cũng cần phải xét đến nguy cơ ngày càng tăng
về một thứ
khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa cực đoan làm biến chất các mối liên kết gia đ́nh và
kết cục coi mỗi thành viên gia đ́nh như một ốc đảo
cô lập, đôi khi c̣n nổi lên tư tưởng cho rằng con
người tạo nên chính ḿnh bởi các ước muốn riêng tư
vốn được xem như tuyệt đối[5]. “Những căng thẳng xâm nhập từ một thứ văn
hóa mang đậm tính cá nhân chủ nghĩa coi trọng chiếm
hữu và hưởng thụ, làm nảy sinh trong ḷng các gia
đ́nh những hành xử thiếu kiên nhẫn và hung hăng”[6]. Tôi muốn kể thêm vào đó cả nhịp sống gấp rút hiện nay, những áp lực,
cơ cấu tổ chức xă hội và làm việc, v́ đó cũng là
những nhân tố văn hóa gây nguy cơ ảnh hưởng đến khả
năng có được những chọn lựa lâu dài. Đồng
thời, chúng ta cũng thấy ḿnh đang đối diện với
những hiện tượng hàm hồ. Chẳng hạn, người ta đề cao
tư tưởng về một thứ nhân vị tôn vinh tính chân thực
đối lại với cung cách xử sự rập khuôn. Đó là một giá
trị có thể phát huy những tài năng và tính bộc phát
tự nhiên; nhưng nếu định hướng sai lạc, nó có thể
tạo ra những thái độ ngờ vực thường xuyên, tránh né
dấn thân, khép ḿnh trong tháp ngà tiện nghi và kiêu
căng. Sự tự do
chọn lựa giúp ta tự hoạch định đời sống của ḿnh và
phát triển bản thân ḿnh tốt nhất, nhưng nếu không
có những mục tiêu cao thượng và kỉ luật cá nhân, tự
do đó sẽ khiến người ta ngày càng mất dần đi khả
năng quảng đại tự hiến chính ḿnh cho tha nhân.
Thực tế tại nhiều nước, nơi mà con số các cặp kết hôn đang giảm, th́ ngày
càng có nhiều người chọn sống độc thân, hay chung
chạ như vợ chồng mà không sống chung một nhà.
Chúng ta cũng có thể nêu lên một ư thức đáng khen
ngày nay về đức công bằng; nhưng nếu hiểu không
đúng, điều này sẽ biến các công dân thành những
khách hàng chỉ quan tâm mỗi việc cung ứng các dịch
vụ cho ḿnh mà thôi.
4. Nếu
những nhân tố nguy hiểm này ảnh hưởng đến quan niệm
về gia đ́nh, th́ gia đ́nh có thể biến thành
một trạm quá cảnh, nơi người ta chỉ chạy đến nương
nhờ khi cần, hoặc nơi người ta đến để đ̣i hỏi những
quyền lợi, c̣n các quan hệ th́ phó mặc cho những
thay đổi thất thường của những ước muốn riêng và
hoàn cảnh. Thực ra, ngày nay người ta dễ lẫn lộn giữa sự tự do
đích thực và tư tưởng cho là mỗi người có thể phán
quyết thế nào tùy ư, như thể ngoài cá nhân chẳng c̣n đâu là chân lư, giá trị và nguyên tắc định hướng cuộc
đời, người ta xem như thể mọi thứ đều như nhau, và
mọi sự đều phải được phép. Trong bối cảnh đó,
lí tưởng hôn nhân, vốn là một sự dấn thân trọn vẹn
và bền vững suốt đời, rốt cuộc sẽ bị tiêu tan bởi
những sở thích tùy hứng hoặc bởi những thói thất
thường dựa trên cảm tính. Người ta sợ sự cô đơn, người ta ước muốn
được sống trong một môi trường được che chở và chung
thủy, nhưng đồng thời càng ngày người ta càng sợ bị
vướng nhiều hơn vào mối quan hệ có thể cản trở việc
thực hiện những khát vọng cá nhân của ḿnh.
5. Là
Kitô hữu, chúng ta không thể chối bỏ lí tưởng hôn
nhân, chỉ v́ lí do không muốn đi ngược ḍng cảm thức
của con người ngày nay, v́ muốn hợp thời, hoặc v́
mặc cảm tự ti trước t́nh trạng suy thoái về đạo đức
và nhân bản. Như thế chúng ta sẽ làm cho thế giới
thiếu mất đi những giá trị mà chúng ta có thể và
phải góp phần. Hẳn là, chẳng có ư nghĩa ǵ khi cứ
ngồi một chỗ mà chỉ trích những điều xấu xa của thời
đại, như thể làm vậy chúng ta có thể thay đổi được
điều ǵ. Cũng chẳng ích ǵ khi cố dùng quyền bính áp
đặt luật lệ lên người khác. Điều chúng ta cần là một
nỗ lực với sự quảng đại và trách nhiệm nhiều hơn để
tŕnh bày các lí do và các động cơ cho việc chọn lựa
hôn nhân và gia đ́nh, và bằng cách này giúp người ta
sẵn sàng đáp trả hơn nữa ân sủng mà Thiên Chúa ban
cho họ.
6. Đồng
thời chúng ta cũng phải khiêm tốn và thực tế nh́n
nhận rằng, đôi khi cách chúng ta tŕnh bày niềm tin
Kitô giáo của ḿnh, và cách chúng ta cư xử với người
khác đă góp phần tạo ra t́nh trạng mà chúng ta đang
than văn như ngày nay, bởi thế chúng ta cần phải tự
phê b́nh một cách thích đáng. Đàng khác, chúng ta
thường tŕnh bày hôn nhân theo cách nào đó khiến cho
mục đích kết hợp của hôn nhân, lời mời gọi triển nở
trong t́nh yêu và lí tưởng tương trợ lẫn nhau bị lu
mờ đi, trong khi quá nhấn mạnh về bổn phận sinh sản
như thể đó là mục đích duy nhất. Chúng ta cũng đă
không đồng hành tốt với các cặp vợ chồng mới cưới
trong những năm đầu hôn nhân của họ, không có những
đề xuất thích hợp với giờ giấc của họ, với ngôn ngữ
của họ, với những ưu tư cụ thể nhất của họ. Nhiều
khi chúng ta cũng đă tŕnh bày một thứ lí tưởng thần
học hôn nhân quá trừu tượng, được xây dựng hầu như
nhân tạo, xa rời hoàn cảnh cụ thể và các khả năng
thực tiễn của các gia đ́nh. Việc lí tưởng hóa quá
mức như vậy, nhất là khi chúng ta không đánh thức đủ
niềm tín thác vào ơn Chúa, đă không giúp làm cho hôn
nhân trở thành hấp dẫn hơn và đáng khao khát hơn, mà
hoàn toàn đi ngược lại.
7. Từ khá lâu rồi, chúng ta vẫn cứ tin rằng
chỉ cần nhấn mạnh những vấn đề đạo lí, đạo đức sinh
học và luân lí, mà không cần khuyến khích người ta mở ḷng ra với ân sủng, cũng là điều đă nâng đỡ các gia đ́nh, củng
cố mối dây liên kết vợ chồng và mang lại cho cuộc
sống chung của họ một ư nghĩa. Chúng ta đă
gặp khó khăn khi tŕnh bày hôn nhân như một hành
tŕnh năng động của phát triển và thực hiện hơn là
một gánh nặng phải chịu đựng suốt cả cuộc đời. Chúng
ta cũng cảm thấy khó khăn khi muốn dành chỗ cho
lương tâm của các tín hữu, là những người rất thường
đáp lại lời mời gọi của Tin mừng cách tốt nhất ngay
giữa những giới hạn của họ, và họ cũng có khả năng
phân định cá nhân tốt trước những t́nh huống khi mọi
kế hoạch bị đổ vỡ. Chúng ta được mời gọi để đào tạo các lương tâm chứ không thay thế
các lương tâm.
8. Chúng
ta phải biết ơn v́ phần lớn người ta vẫn c̣n quí
trọng giá trị các mối tương quan gia đ́nh với ước
mong những giá trị này sẽ kéo dài măi và được ghi
dấu bằng sự kính trọng lẫn nhau. Bởi thế, người ta
cảm kích việc Hội thánh đồng hành và hỗ trợ người ta
trong các vấn đề liên quan đến việc làm triển nở
t́nh yêu, việc khắc phục những xung đột hay việc
giáo dục con cái. Nhiều người quí trọng sức mạnh của
ân sủng mà họ đă cảm nhận nơi Bí tích Giao Ḥa và
Thánh Thể, ân sủng này giúp họ vượt qua được những
thách đố trong đời sống hôn nhân và gia đ́nh. Tại
một số nước, đặc biệt nơi nhiều vùng của Châu Phi,
chủ nghĩa thế tục vẫn không làm suy yếu được một số
giá trị truyền thống, và các cuộc hôn nhân vẫn tạo
nên một liên kết vững chắc giữa hai đại gia đ́nh
thông gia, trong đó người ta vẫn c̣n giữ được một cơ
cấu khá rơ ràng nhằm giải quyết những tranh chấp và
những khó khăn. Trong thế giới hiện nay, chúng ta
cũng cảm kích chứng tá của các đôi hôn phối không
những kiên tŕ theo thời gian mà c̣n vẫn tiếp tục
sống dự phóng chung và bảo toàn được t́nh yêu của
họ. Điều đó mở ra một hướng mục vụ tích cực, ân cần,
có thể từng bước giúp các đôi bạn đào sâu hơn những
đ̣i hỏi của Tin mừng. Thế nhưng, chúng ta rất thường ở trong tư thế tự vệ,
và phung phí năng lượng mục vụ cho việc lên án một
thế giới suy đồi, mà ít có khả năng đề ra cho người
ta những con đường mang lại hạnh phúc. Nhiều người cảm thấy rằng sứ điệp của Hội thánh về hôn nhân và gia
đ́nh không phản chiếu rơ ràng lời rao giảng và thái
độ của Đức Giêsu, Người đồng thời vừa đề xuất một lí
tưởng rất đ̣i hỏi vừa không bao giờ từ chối gần gũi
và cảm thương với những con người yếu đuối, như
người phụ nữ xứ Samaria hay người phụ nữ ngoại t́nh.
9. Điều
đó không có nghĩa là không c̣n nhận ra sự suy đồi
văn hóa không cổ vơ t́nh yêu và sự hiến dâng nữa.
Những ư kiến tham khảo trước hai Thượng Hội đồng gần
đây cho thấy rất nhiều triệu chứng khác nhau của một
thứ “văn hóa
tạm bợ”. Tôi nghĩ đến, chẳng hạn, lối sống tốc độ trong đó người ta thay đổi từ quan hệ t́nh
cảm này sang quan hệ t́nh cảm khác. Người ta tưởng
rằng t́nh
yêu, cũng giống như các mạng xă hội, có thể kết nối hay ngưng kết nối tùy theo
sở thích của người tiêu dùng và cũng có thể nhanh
chóng “bị chặn”. Tôi cũng nghĩ tới nỗi sợ mà
người ta cảm thấy bởi viễn cảnh của một sự dấn thân
vĩnh viễn khơi lên, nghĩ tới nỗi sợ không c̣n thời
gian tự do, nghĩ tới những mối tương quan tính toán
thiệt hơn, người ta băn khoăn liệu chúng có bù đắp
được sự cô đơn, có được một sự bao bọc chở che, hay
được phục vụ thế nào đó hay không. Người ta chuyển đổi cách sống các quan hệ
t́nh cảm giữa con người thành thái độ sống như khi
ứng xử với các đồ vật và môi trường, đó là xem mọi sự đều có thể vứt bỏ, mỗi người dùng xong rồi bỏ, mua và hủy,
khai thác và vắt kiệt. Rồi th́ chia tay! Chứng tự yêu ḿnh thái quá khiến người ta
không c̣n khả năng nh́n thấy được ǵ ngoài bản thân
ḿnh, ngoài những khao khát và những nhu cầu của
ḿnh. Nhưng ai sử dụng người khác như các đồ vật,
th́ sớm hay muộn, sẽ bị người khác sử dụng, bị thao
túng và bỏ rơi như thế. Một điều đáng lưu ư
là hôn nhân đổ vỡ thường xảy ra nơi những người lớn
tuổi mà thích t́m một lối sống “độc lập và từ chối
lí tưởng chung sống với nhau cho đến tuổi già, để
chăm sóc và nâng đỡ nhau.