Hồi kư của Tâm Phương Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL
Muôn vàn tri ân Vị Linh Hướng cho
cuộc đời Sống Thánh Chứng Nhân của tôi
Cũng viết tặng những người anh Đồng Công
đă giúp đỡ và đồng hành với tôi Sống Lư Tưởng Thánh Đồng
Công:
Anh Nguyễn Đức Nghiêm và Nguyễn Châu
Diên, 2 người anh cùng lớp tu (1964), lớp học (Đệ Tứ) và
lớp khấn (IX);
Anh Nguyễn An Trị, Giám Đốc Đệ Tử Viện
Đồng Công (1964-1966);
Anh Trần Trung Thần, Giám Thị Đệ Tử Viện
Đồng Công (1964-1966);
Anh Nguyễn Huy Chương và Bùi Anh Tuấn,
Đội Trưởng Đệ Tử Viện (1964-1965 / 1965 -1966);
Anh Nguyễn Đức Kiên, người anh đổi tên và
là vị Giám Tỉnh cuối cùng (1966, 1982);
Anh Lê An Đại, Phó Giám Thử (1966);
Anh Phạm Tiến Đức, Phó Giám Tập
(1966-1967);
Anh Đoàn Phú Xuân, Giáo Sư Hiến Pháp Tục
Lệ (1966-1967);
Anh Phan Thiện Giản, vị giáo sư Latinh
được chỉ định (1974);
Anh Vũ Vĩnh Quí, người anh tổ phụ thân
hữu Đồng Công.
Cuộc Hạnh Ngộ Cuối Cùng
Phải, vị linh hưởng khả kính khả ái của
tôi là Cha Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ đă vĩnh viễn ra đi
về với Chúa vào ngày 21/6/2007, ngày mà đúng 43 năm
trước, 21/6/1964, tôi đă bắt đầu tập tễnh theo đuổi Lư
Tưởng Thánh Đồng Công từ đệ tử viện của nhà ḍng ở Thủ
Đức.
Tôi đă ước ao được gặp vị linh hướng duy
nhất của cuộc đời tôi này một lần cuối cùng, nhất là vào
năm ngài được đúng 100 tuổi. Và Thiên Chúa quả thực đă
đáp lại ước vọng hết sức thiết tha và chân t́nh của tôi,
khi cho tôi được gặp ngài vào chiều Thứ Sáu mùng 7 tháng
7 năm 2006, từ 4 giờ đến 4 giờ 30 chiều, trong pḥng
riêng của ngài. Một tháng
sau, vào chính ngày lễ Thánh
quan thày Đaminh của ngài, 8/8/2006, ngài đă được đưa
vào bệnh viện v́ bị
tai biến mạch máu năo, và trở nên tê liệt và hầu như bị
cấm khẩu cho đến khi qua đời. Thật là may cho tôi, tôi
đă được diễm phúc gặp lại vị linh mục dẫn dắt tôi theo
đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công này tại pḥng riêng của
ngài, sau 31 năm xa cách. Ngài vẫn c̣n nhớ tôi.
Đúng thế, hôm ấy hai cha con chúng tôi đă
nằm để hàn huyên tâm sự với nhau. Theo thói quen hăm
ḿnh không thay đổi, ngài vẫn nằm trên nền nhà. Hôm ấy,
v́ yếu
bệnh, ngài
phải nằm ban ngày và nằm nghiêng về phía bên phải, lưng
quay vào tường, để nói chuyện với tôi. Tôi cũng đă nằm
sấp, hướng mặt về ngài, để nói chuyện với ngài. Ngày
xưa, khi c̣n được ở bên ngài, hai cha con nói chuyện với
nhau, một là bằng cách đi đi lại lại ở ngoài hàng hiên
gần pḥng của ngài, hai là ngồi dựa tường bên nhau trên
nền nhà ở trong pḥng của ngài, cho đến khi hết chuyện.

Phải, hôm ấy, trong mấy câu chào hỏi hết
sức thân thương ban đầu, tôi đă lợi dụng câu ngài hỏi
tôi hiện đang ở đâu, để bắt đầu nhập cuộc. Tôi thưa ngài
rằng tôi ở Mỹ về, rồi từ đó kể cho ngài nghe t́nh h́nh
sống đạo bên Mỹ liên quan tới đức tin, tới thánh đức.
Thế là ngài đă thật sự trở nên hào hứng hơn bao giờ hết,
có lúc ngài đă vỗ vai tôi mà nói, mà khuyên giục. Tôi
c̣n nhớ hai câu nói lập đi lập lại của ngài, nguyên văn
như sau: “Ngày nay người ta bỏ đạo, mất đức tin mà
không biết…. Ở bên Mỹ mà c̣n giữ được đức tin là một
phép lạ đấy!”
Phần tôi, trước khi cùng với 2 cháu trai
qú xuống xin ngài ban phép lành tràn đầy ân phúc từ
cuộc đời thánh đức của ngài, như xin ngài tiếp tục
truyền nội lực thánh thiện của ngài cho ḿnh, tôi đă nói
những lời từ biệt (mà tôi biết cũng là lời vĩnh biệt)
sau đây (vẫn theo tinh thần b́nh dân gọi nhau là anh em
của Ḍng Đồng Công): "Em cùng
gia đ́nh em về thăm Anh nhân dịp mừng Anh 100 tuổi.
Trước hết để tỏ ḷng tri ân cảm tạ Anh. V́ không có Anh
em đă không được như ngày hôm nay, và không có được một
gia đ́nh như bây giờ. Tuy em không c̣n chính thức là một
tu sĩ Đồng Công trong Ḍng, song em vẫn tiếp tục theo
đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công, vẫn cố gắng sống theo
những ǵ Anh Cả đă truyền đạt cho em. Xin anh cầu cho em
để em có thể trở thành một 'Đồng Công Nằm Vùng', để Tinh
Thần Đồng Công có thể thấm sâu vào ḷng đời hơn, trở
thành men trong bột nơi tất cả môi trường sống và hoạt
động tông đồ của em!"
Tôi hoàn toàn thâm tín và cảm nghiệm như
thế. Cái di sản vô giá ngài để lại cho tôi đó là chính
cái căn tính (ID) Đồng Công, là Lư Tưởng Thánh Đồng
Công, ở chỗ theo đuổi Lư Tưởng Thánh trước hết và trên
hết, chỉ biết t́m Nước Chúa và sự công chính của Người
trước (x Mt 6:33), một Lư Tưởng Thánh được hiện thực nơi
ba tinh thần nồng cốt của ḍng là Bỏ Ḿnh, Yêu Nhau và
Tận Hiến, cũng như nơi ba ḷng tôn sùng đặc biệt của
ḍng là ḷng tôn sùng Đức Thánh Cha, Thánh Mẫu và Thánh
Thể.
Tôi phải cám ơn Chúa cho tôi được gặp
ngài, dù không được ở gần ngài cho tới giây phút ngài
ĺa đời. Tôi nghĩ Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự,
biết rơ là tôi hết ḷng biết ơn ngài, hết ḷng cảm phục
ngài, hết ḷng gắn bó với ngài, đă cho tôi được măn
nguyện gặp ngài lần cuối, vào hôm ấy, dù chỉ nửa tiếng
đồng hồ. Nếu tôi về muộn 1 tháng thôi, kể như chỉ c̣n
biết rơi lệ nh́n ngài! Tôi
có ư định sẽ về để tham dự lễ an táng ngài, nhưng v́ bận
bịu công vụ dồn dập không thể bỏ đi và v́ thủ tục xin
visa lâu la nên tôi đành ngậm ngùi theo dơi diễn tiến và
h́nh ảnh cuối đời của ngài qua các điện thư của nhà
Ḍng.
Cuộc Khổ Nạn Cuối Đời
Vào đầu tháng 8/2006, ngài đă bị tai biến
mạch máu năo mà không biết. Vào ngày 8/8 ngài mới được
đưa vào bệnh viện để chữa trị. Sau khi ở bệnh viện này
một ngày một đêm, ngài vẫn không khá hơn mà lại tỏ ư
muốn về nhà ḍng. V́ tại bệnh viện ngài không ăn được và
ngủ được, có lẽ là v́ nhớ anh em.
Vào ngày 11/8, sức khỏe của ngài càng
ngày càng tệ. Ngài chỉ ăn được cháo và phải có người đút
cho. Ăn uống chẳng c̣n ra bữa, lúc nào đói th́ ăn, bất
kể ngày đêm. Có ngày không ăn ǵ nhưng ban đêm lại ăn
hai lần. Vấn đề vệ sinh th́ hoàn toàn không c̣n làm chủ
được nữa, ngài phải mang tă. Tất cả mọi sự đều nhờ anh
em giúp. Hoàn toàn cải lăo hoàn đồng về thể lư. Ngài
không c̣n dâng lễ được nữa, mà c̣n chỉ chịu Ḿnh Thánh
được thôi. Ngài nói rất khó nghe, v́ lưỡi không c̣n cử
động dễ dàng như trước. Tay phải và chân phải bị liệt,
phải ngồi trong xe lăn.

Ngày 03/01/2007, ngài rất yếu mệt, sau
mấy ngày liền không ăn ngủ ǵ, nên anh em Ḍng đă đưa
ngài đi cấp cứu tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, quận 5,
và ngài tỏ ra rất sẵn sàng về với Chúa sau khi lănh phép
Xức Dầu và của Ăn Đàng. Nhờ ăn bằng ống và thở bằng ống,
sức khỏe ngài khả quan hơn một chút. Theo bác sĩ th́
ngài vẫn c̣n bị triệu chứng tai biến mạch máu năo, viêm
phế quản măn tính, viêm phổi măn tính và huyết áp thấp.
Nhưng với những lời cầu nguyện và hy sinh
thiết tha của anh em Ḍng cũng như của những người thân
quen, Chúa và Đức Mẹ lại thương đưa ngài về chung sống
với đoàn em vào ngày 09.01.2007, nhưng vẫn phải tiếp tục
ăn bằng ống.
Ngày 11.06.2007, bệnh t́nh ngài trở nặng,
anh em ḍng lại đưa ngài đi cấp cứu. Ngày 15/06/2007,
bệnh ngài trở nên nguy kịch, các bác sĩ quyết định đưa
ngài vào pḥng hồi sức đặc biệt. Ngài rất khó thở và
phải thở bằng ống. Các bác sĩ nói họ không ngờ ngài có
thể sống được tới bấy giờ, và không c̣n sống được bao
lâu nữa.

Thật vậy, mọi
phương cách đều phải khuất phục Thánh ư Chúa và Người đă
gọi ngài về với Người lúc 8 giờ 45 tối
Thứ
Năm ngày 21/06/2007, tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương, hưởng
thọ 101
năm tuổi.
Trời Canvê Ngày An Táng
Suốt thời gian quàn ngài trong nhà
nguyện, ngày nào cung mưa, có khi mưa rả rích suốt đêm
và mưa lớn ban ngày, giông gió giật mạnh làm các tấm dù
căng trên lễ đài phải giăng kéo bằng nhiều sợi dây cáp
và dây dù. Việc căng các biểu ngữ cũng gặp phải nhiều
khó khăn v́ "mưa".

Ngày 25 phải đội mưa để căng cho xong,
thế mà, sáng ngày 26 trời vẫn mưa rả rích cho đến 6g30
sáng th́ tạnh hẳn. Lúc này phải đi lau từng chiếc ghế đă
kê trong lễ đài ... trời mát và có chút gió.
Nghi thức di quan lúc 7g15 và đến 7g35
mới chính thức làm dấu đầu lễ th́ bầu trời đă có nắng,
ít mây hơn. Đôi lúc cũng có nắng gắt. Nhưng đến quăng
8g15 th́ trời kéo nhiều mây đen hơn, đe dọa, cũng có ít
hạt mưa đâu đó và bầu trời tối hơn... Chừng một khắc sau
trời lại trở lại quang đăng b́nh thường với chút nắng
cho đến xong lễ.
Lúc Di quan tiễn ngài ra đất thánh cũng
chỉ có nắng nhẹ, mát mẻ hơn nhưng khoảng 9g50 th́ mây
đen kịt kéo đến che lấp cả bầu trời. Ai cũng nghĩ là
không xong, chắc phải đội mưa mà an táng cho xong. Ban
tổ chức đă mua sẵn 5000 áo mưa du lịch để sẵn, nếu cần
th́ mặc vào và dự cho đến hoàn tất và nhất định không
chạy mưa v́ chỗ đâu mà chạy. Nhưng mọi ư nghĩ của con
người chẳng phù hợp với ư nghĩ của Chúa. Chừng một khắc
sau trời lại quang đăng cho đến khi an táng xong. Trời
nắng gắt hơn một chút v́ đă hơn 10g.
Bài Giảng Lễ An Táng của Đức Cha Đà Nẵng
Sau đây là một số đoạn chính yếu tiêu
biểu trong bài giảng dài 17 phút của Đức Cha Châu Ngọc
Tri, Giám Mục Giáo Phận Đà Nẵng, cho Lễ An Táng của Cha
Thủ:
“Kính thưa Cộng Đoàn Phụng Vụ,
“Hôm nay, giữa cộng đoàn đông đủ của
chúng ta không phải chỉ có một người chết. V́ là cái
đinh của buổi lễ hôm nay chính là Cha Đaminh Maria Trần
Đ́nh Thủ, đă sống trên 100 năm, 70 năm linh mục, là vị
sáng lập Ḍng Đồng Công. Và c̣n một người thứ hai nữa
không biết chúng ta có để ư không? Đây là một người đàn
ông chỉ 33 tuổi…
“Hai cái chết, hai cuộc đời. Cuộc đời
Đấng Cứu Thế và cuộc đời của người đi theo Đấng Cứu Thế.
Cái chết của Thiên Chúa làm người và cái chết của con
người. Cuộc đời này là cảm hứng cho cuộc đời kia. Cái
chết này là bảo đảm chắc chắn cho cái chết nọ…
“Được tin Cha Đaminh Maria qua đời, một
linh mục có tuổi đang nói chuyện với tôi, đă nhận định
ngay rằng Cha Thủ có lẽ sẽ nên thánh cả chiếu lẫn
giường…
“Tôi không muốn kể lễ dài ḍng về cuộc
sống của ngài. V́ tôi không được biết nhiều, và tôi cũng
không có quyền phong thánh cho ngài. Nhưng mà những ǵ
tôi nghe được, những ǵ đang diễn ra hôm nay trước mắt
chúng ta, với đông đảo các linh mục tu sĩ nam nữ và giáo
dân trong một mầu trắng tang chế thương tiếc, cho tôi
cái cảm giác rằng ngài đă nên thánh và ngài đang sống
trong b́nh an, trong hạnh phúc. Bởi v́, cuộc đời của
ngài đă chọn những phương tiện nên thánh chắc chắn nhất,
đó là thập giá Đức Giêsu (biệt chú của người viết,
trong cuốn video những năm cuối đời của ngài cho thấy
ngài hôn Thánh Giá rất lâu trước khi ngủ và đặt Thánh
Giá trên môi trong khi ngủ), với cuộc sống đầy khổ
hạnh của ngài, và Đức Maria mà ngài đă nhận làm Mẹ và
làm Mẹ của cả hội ḍng ngài thành lập…


“Cha Đaminh Maria, từ ngày thành lập, đă
đem Mẹ về ḍng ḿnh. Khi chọn tên gọi cho ḍng là Ḍng
Đồng Công. Và hơn thế nữa, ngài c̣n muốn mọi thành viên
của ḍng đem mẹ về nhà ḿnh bằng cách đặt tên hiệu của
Mẹ sau tên thánh rửa tội của ḿnh. C̣n chính ngài mang
tên thánh là Đaminh Maria…
“Thân xác cha Đaminh Maria đang c̣n ở đây
với chúng ta trong phút chốc nữa. Ngài đang tham dự
Thánh Lễ sau cùng với chúng ta, rồi thân xác ngài sẽ
được vú sâu vào ḷng đất này. Nhưng đức tin của ngài,
gương sống của ngài, sự nghiệp Đồng Công của ngài, tôi
tin rằng sẽ măi c̣n tồn tại…

“Cùng Cha Đaminh Maria. Chúc mừng cha
được Chúa gọi về. Chúc cha luôn b́nh an hạnh phúc. Và
một chút riêng tư, tôi cũng gửi lời thăm Đức Cha Phêrô
Maria Phạm Ngọc Chia, Giám Mục tiên khởi giáo phận Đà
Nẵng, vị tiền nhiệm đáng kính của con. Chính người đă
ban sắc thành lập Ḍng Đồng Công ngày 2/2/1953 tại Bùi
Chu, và cũng chính ngài đă nhận lời khấn trọn đời của
cha Đaminh Maria vào ngày 2/2/1955 tại nhà thờ Gia
Định.
“Cùng anh em trong đại gia đ́nh Đồng
Công. Xin chia buồn trước sự ra đi của Người Anh Cả của
anh em. Như Chúa Kitô đă chết để Giáo Hội lớn mạnh, Chúa
gọi người Anh Cả về để gia đ́nh Đồng Công được thêm phát
triển. Kính chúc anh em luôn thăng tiến...”
Hạt Lúa Miến Mục Nát…
Lễ an táng của ngài được tường tŕnh là
có trên 4000 giáo dân, 1200 tu sĩ nam nữ, 210 vị linh
mục, 3 đan viện phụ và 2 giám mục, chưa kể 100 công an
được sai phái đến để giữ trật tự và đề pḥng bất trắc
xẩy ra.
Theo tôi, trong một thời điểm đang hết
sức căng thẳng và sôi động tại Việt Nam về t́nh h́nh đàn
áp thành phần lên tiếng về nhân quyền mà lại có một cuộc
tụ họp đông đảo như vậy th́ phải kể là sự lạ, như đám
tang có thể nói là vĩ đại nhất trong lịch sử loài người
diễn ra ở Vatican hôm Thứ Sáu 8/4/2005, với 500 ngàn
người tại ngay Quảng Trường Thánh Phêrô, bao gồm trên
300 vị đại diện chính trị và tôn giáo, 600 ngàn người ở
các vùng lận cận theo dơi bằng màn ảnh lớn, mà không xẩy
ra một bất trắc nào, trong thời điểm đang gia tăng nạn
khủng bố toàn cầu.
Nếu năm 1987, cá nhân Cha Thủ và
cộng đồng Ḍng Đồng Công đă bị công an đầu tiên bắt v́
tội “tụ họp bất hợp pháp” 60 người thuộc tổ chức
Gia Đ́nh Đồng Công ở Nhà 30 Gian sát ngay nghĩa trang,
th́ 20 năm sau, một cuộc tụ họp khác c̣n đông gấp trăm
lần như vậy, được 100 công an sai đến canh giữ trật tự,
không phải là sự lạ hay sao?
Cả việc thẩm quyền địa phương không cho
phép ngài được chôn táng ngài tại nội vi của nhà ḍng,
song phải mang ra nghĩa trang mà chôn, cũng không ngoài
ư Chúa. Theo lịch sử, nếu cộng sản đă hết sức khôn khéo
t́m cách chống phá Giáo Hội Công Giáo nói chung và Giáo
Hội Balan nói riêng, mà vẫn từ ngay nước cộng sản Balan
này xuất hiện một vị Giáo Hoàng không phải người Ư sau
455 năm thế nào, th́ nơi trường hợp đổi chỗ an táng cho
Cha Thủ cũng chất chứa một ư nhiệm nào đó.
Phải chăng, v́ Cha Đaminh Maria Trần Đ́nh
Thủ là của mọi người, nên ngài thuộc về mọi người, chứ
không riêng của Ḍng Đồng Công, v́ ngài chẳng những được
Chúa dùng để sáng lập Ḍng Đồng Công mà c̣n được sai đến
để lo huấn thánh cho người Việt Nam, nơi hội ḍng Việt
Nam đầu tiên do ngài lập nên chính v́ mục đích này, và,
v́ ngài đă thiết tha với đất nước dân tộc Việt Nam,
bằng việc liên lỉ xin ơn ḥa b́nh cho Việt Nam, qua các
kinh nguyện của ngài dọn cho anh em ḍng đọc?! Phải
chăng biến cố đổi chỗ chôn táng Cha Đaminh Maria Trần
Đ́nh Thủ này đă ứng nghiệm lời Chúa: “Không ai thắp đèn
rồi để dưới đáy thùng, song đặt nó trên giá để nó soi
sáng cho cả nhà” (Mt 5:15)!?
Tóm lại, cuộc đời của vị linh mục được
Thiên Chúa sử dụng sáng lập Ḍng Đồng Công chẳng khác ǵ
bầu trời Canvê như ngày an táng ngài. Cuộc khổ nạn cuối
đời của ngài cũng tương tự như cuộc khổ nạn của Đức
Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng đă không nói được nữa vào
chính lúc ban huấn từ Lạy Nữ Vương cho Chúa Nhật Phục
Sinh 27/3/2005, và đă bị hôn mê rồi qua đi trong bệnh
tật hôm Thứ Bảy 2/4, sau khi nhập bệnh viện mấy lần, v́
những chứng bệnh trầm trọng khác nhau, như bị đột xuất
nhiễm trùng, bị hư tâm mạch bất khả văn hồi, bị xưng ống
tiểu tiện v́ nhiễm trùng, bị tăng áp huyết tim và thiếu
máu cục bộ.
Cuộc khổ nạn của Cha Đaminh Maria Trần
Đ́nh Thủ cũng thế, cũng hầu như bị cấm khẩu và nhập bệnh
viện mấy lần v́ các chứng bệnh khác nhau, như bị tai
biến mạch máu năo, viêm phế quản măn tính, viêm phổi măn
tính và huyết áp thấp. Thậm chí, như Chúa Giêsu trong
cuộc Khổ Nạn và Tử Giá đă không c̣n h́nh thù loài người
và dung nhan con người thế nào (x Is 52:13-14), vị linh
mục sáng lập Ḍng Đồng Công biệt danh Đaminh Maria Thánh
Giá cũng đă hoàn toàn biến dạng và biến diện, không c̣n
tầm vóc cân đối và khuôn mặt đẹp lăo của ngài nữa, khi
ngài vào bệnh viện lần cuối! Tôi đă giật ḿnh đến kinh
sợ khi nh́n thấy tấm h́nh của ngài đang nằm trên giường
vào những giờ phút cuối cùng, được một người con của anh
em thân hữu Đồng Công ở Việt Nam đă chụp lén nhà
thương.
Một trùng hợp nữa, ngoài cuộc khổ nạn
cuối đời, giữa Cha Đaminh Maria và Đức Gioan Phaolô II,
vị Giáo Hoàng “totus tuus”, đó là cả hai đă sống đời tận
hiến cho Mẹ Maria theo đường lối của Thánh Long Mộng Phố
(Louis Montfort) trong tác phẩm Luận Về Ḷng Thành Thực
Sùng Kính Mẹ Maria của thánh nhân, một cuốn cẩm nang
Thánh Mẫu mà tu sĩ Đồng Công phải học hỏi trong năm tập,
một thời gian được mở màn bằng Lễ Nghi Tận Hiến cho Mẹ
và được kết thúc bằng lời khấn tạm lần đầu.
Phải chăng các vị thánh đều có một thân
mệnh giống nhau, đó là được phúc uống chén đắng với Thày
(Mt 20:22-23): “Thày đi để dọn chỗ cho các con, rồi
Thày sẽ trở lại với các con, để Thày ở đâu các con cũng
được ở đó với Thày”
(Jn 14:3)?
Đúng thế, nếu ngay ở đời này, vị linh mục
được ơn sáng lập Ḍng Đồng Công vào chính ngày Lễ Mẹ Đau
Thương 4/4/1941 đă được Chúa Kitô Khổ Nạn và Tử Giá trở
lại để đem ngài đi đến “chỗ” của Người, và ngài đă thực
sự được mai táng với Người qua tất cả mọi khổ đau về cả
tâm hồn lẫn thể xác của ḿnh trong cuộc hành tŕnh đức
tin kéo dài trên 100 năm theo Người, th́ ngài cũng sẽ
được chung phần vinh quang phục sinh với Người (x Rm
6:4), như một hạt lúa miến mục nát đi…
Biết đâu, sau 5 năm được cải táng để bắt
đầu tiến tŕnh phong thánh cho ngài, người ta thấy được
chẳng những một thân xác không hư thối, mà c̣n trở lại
nguyên dạng, không c̣n dị dạng như trước khi chết nữa.
Chính việc biến đổi này, nếu xẩy ra, th́ thực sự là dấu
chứng cụ thể chẳng những cho thấy dấu vết phục sinh của
ngài mà c̣n cả thánh đức của “Cha Thánh Thủ” nữa vậy.
Cha Thủ - Tần Số Thánh
hật là may cho tôi, tôi đă được diễm phúc
gặp lại vị linh mục dẫn dắt tôi theo đuổi Lư Tưởng Thánh
Đồng Công này tại pḥng riêng của ngài. Ngài vẫn c̣n nhớ
tôi. Ngài đă tiếp tôi, không phải là 5 hay 6 phút như
mọi trường hợp khác, và như tôi đă được các vị thẩm
quyền trong ḍng bấy giờ dặn ḍ kỹ lưỡng trước khi tôi
được vào gặp ngài. Khi vào tới nơi th́ quả thực mới hiểu
được lư do tại sao mọi người chỉ được gặp ngài 5 hay 6
phút. Ở chỗ, sức khỏe của ngài không cho phép! Đúng thế,
hôm ấy hai cha con chúng tôi đă nằm để hàn huyên tâm sự
với nhau. Theo thói quen hăm ḿnh không thay đổi, ngài
vẫn nằm trên nền nhà. Hôm ấy, ngài nằm nghiêng về phía
bên phải, lưng quay vào tường, để nói chuyện với tôi.
Tôi cũng đă nằm sấp, hướng mặt về ngài, để nói chuyện
với ngài.
Ngày
xưa, khi c̣n được ở bên ngài, hai cha con nói chuyện với
nhau, một là bằng cách đi đi lại lại ở ngoài hàng hiên
gần pḥng của ngài, hai là ngồi dựa tường bên nhau trên
nền nhà ở trong pḥng của ngài, cho đến khi hết chuyện.
Ngài không bao giờ ép ai gặp ngài, trừ khi ngài có
chuyện cần gặp họ về vấn đề trách vụ của họ, hay liên
quan đến vấn đề trầm trọng cần phải sửa ḿnh để nên
thánh của họ. Trong cuộc gặp gỡ, ngài cũng không hạch
hỏi hay đi sâu vào tâm hồn những ai xin gặp ngài, nếu họ
không tự động tỏ ra cho ngài.
Tuy nhiên, ngài có thể thấu biết được
t́nh trạng tâm hồn anh em của ngài hơn ai hết, thậm chí
hơn cả chính họ nữa. Bởi vậy, có những người xin gặp
ngài mà không được, trái lại, chỉ nhận được một câu nói
vắn gọn của ngài: “cứ thế mà sống”. Hay có được gặp ngài
th́ chỉ rất vắn tắt ngắn ngủi, bởi v́ hầu như chỉ có họ
nói, nói tất cả những ǵ đầy lên trong óc của họ, đến
nỗi họ viết cả ra giấy kẻo quên. Phần ngài, những ǵ
được bàn hỏi, ngài trả lời vắn tắt, và những ǵ được tâm
sự, ngài nghe biết vậy, cuối cùng, nếu cần, như một vị
lang y, ngài bốc cho một thang thuốc thiêng liêng vắn
tắt, bằng những lời khuyên hợp với từng tâm hồn, từng
trường hợp, mà nếu họ tin tưởng và áp dụng thực hành, họ
sẽ cảm thấy lời ngài dạy hoàn toàn là một phương dược
linh nghiệm cho cuộc đời tận hiến theo đuổi Lư Tưởng
Thánh Đồng Công của họ.
Trong dịp được gặp ngài lần cuối cùng,
giữ đúng lời hứa với những người anh em có trách nhiệm
về thời lượng vắn vỏi được diện kiến với ngài, một thời
lượng để đủ chào hỏi vài ba câu theo kiểu xă giao bề
ngoài, sau khi nói chuyện với ngài được khoảng đúng 5-6
phút, tôi hỏi ngài có mệt không, ngài nói không, rồi
ngài tự động tiếp tục nói chuyện với tôi, (làm cho bên
ngoài hết sức thắc mắc nhưng không dám can thiệp vào nội
bộ giữa ngài và tôi), cho đến đúng nửa tiếng (từ 4 đến 4
giờ 30 chiều), khi chính tôi, v́ giờ giấc hạn hẹp theo
lịch tŕnh du lịch, đành phải “đoạn trường tân thanh”
chấm dứt cuộc gặp gỡ lịch sử cuối cùng không bao giờ
quên được này, không bao giờ tái diễn ấy.
Sở dĩ tôi có thể nói chuyện lâu với ngài
như thế là v́, có thể nói, tôi đă bắt được trúng tần số
của ngài, một tần số tôi đă quá quen thuộc. Như vị đương
kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta, khi c̣n là
Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin Joseph
Ratzinger đă biết được tần số của Cố Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II thiên về triết lư nói chung và luân lư thần
học vậy (xem tác phẩm Muối Đất - Salt of the Earth, ấn
bản Anh ngữ, Ignatius Press, 1997, trang 10), hay tần số
của chính vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI này là
phụng vụ, giáo hội và đức tin (cùng nguồn trang 49,
65-66). Vậy tần số của vị linh hướng đáng kính đáng mến
của tôi đây là ǵ, nếu không phải là chính Lư Tưởng
Thánh Đồng Công!
Phải, hôm ấy, trong mấy câu chào hỏi hết
sức thân thương ban đầu, tôi đă lợi dụng câu ngài hỏi
tôi hiện đang ở đâu, để bắt đầu nhập cuộc. Tôi thưa ngài
rằng tôi ở Mỹ về, rồi từ đó kể cho ngài nghe t́nh h́nh
sống đạo bên Mỹ liên quan tới đức tin, tới thánh đức.
Thế là ngài đă thật sự trở nên hào hứng hơn bao giờ hết,
có lúc ngài đă vỗ vai tôi mà nói, mà khuyên giục. Tôi
c̣n nhớ hai câu nói lập đi lập lại của ngài, nguyên văn
như sau: “Ngày nay người ta bỏ đạo, mất đức tin mà
không biết…. Ở bên Mỹ mà c̣n giữ được đức tin là một
phép lạ đấy!”
Phần tôi, trước khi cùng với 2 cháu trai
qú xuống xin ngài ban phép lành tràn đầy ân phúc từ
cuộc đời thánh đức của ngài, như xin ngài tiếp tục
truyền nội lực thánh thiện của ngài cho ḿnh, tôi đă nói
những lời từ biệt (mà tôi biết cũng là lời vĩnh biệt)
sau đây: "Em cùng gia đ́nh em về thăm Anh nhân dịp
mừng Anh 100 tuổi. Trước hết để tỏ ḷng tri ân cảm tạ
Anh. V́ không có Anh em đă không được như ngày hôm nay,
và không có được một gia đ́nh như bây giờ. Tuy em không
c̣n chính thức là một tu sĩ Đồng Công trong Ḍng, song
em vẫn tiếp tục theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công, vẫn
cố gắng sống theo những ǵ Anh Cả đă truyền đạt cho em.
Xin anh cầu cho em để em có thể trở thành một 'Đồng Công
Nằm Vùng', sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian,
như men trong bột!"
Tôi phải cám ơn Chúa cho tôi được gặp
ngài, dù không được ở gần ngài cho tới giây phút ngài
ĺa đời. Tôi nghĩ Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự,
biết rơ là tôi hết ḷng biết ơn ngài, hết ḷng cảm phục
ngài, hết ḷng gắn bó với ngài, đă cho tôi được măn
nguyện gặp ngài lần cuối, vào hôm ấy, dù chỉ nửa tiếng
đồng hồ. Nếu tôi về muộn 1 tháng thôi, kể như chỉ c̣n
biết rơi lệ nh́n ngài! Cuộc đời trần gian của tôi đây,
bao gồm cả gia đ́nh của tôi, lẫn sự nghiệp tông đồ của
tôi, sẽ chẳng bao giờ có, nếu tôi không được trực tiếp ở
với ngài trong nửa số thời lượng tu tŕ 18 năm 2 tháng
của tôi (1966-1975). Tôi hoàn toàn thâm tín như thế. Cái
di sản vô giá ngài để lại cho tôi, đó là sự thánh thiện,
là ḷng hăng say nên thánh, là t́m nước Chúa trước, là
tinh thần tận hiến, là chính ID Đồng Công, Lư Tưởng
Thánh Đồng Công.
Xin hăy đọc những lời chia sẻ chân t́nh
này, theo chiều hướng qui về và bắt nguồn từ Cha Thánh
Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ, với nhiều chi tiết liên quan
tới bản thân người viết, những chi tiết chỉ mang tính
cách chứng cớ để làm sáng tỏ một Sự Thật Rạng Ngời -
Veritatis Splendor về Vị Linh Hướng Thánh của tôi.
Cha Thủ - Sống Thánh
́nh ảnh sâu đậm của ngài nơi tôi đó là
h́nh ảnh một vị linh mục Yêu Thánh, Sống Thánh và Huấn
Thánh. Việc ngài Yêu Thánh được tỏ hiện, trước nhất, nơi
việc ngài thường lấy gương Chúa Mẹ và Các Thánh (Tây
phương) ra khuyên giục anh em ḿnh, và đặc biệt nhất,
qua chính việc ngài Sống Thánh và Huấn Thánh. Riêng về
việc ngài Sống Thánh, ngài đă được tiếng là “Cha Thánh
Thủ” ngay từ khi c̣n ở ngoài Bắc. Có lẽ v́ bề ngoài
người ta thấy cuộc sống của ngài khổ hạnh, ở chỗ ăn uống
kham khổ, nằm ngủ dưới đất v.v., cuộc sống của một linh
mục triều mà chẳng khác ǵ một tu sĩ khổ tu ḍng Biển
Đức, một cuộc sống giống như Cha Sở Họ A ở bên Pháp là
Cha Thánh Gioan Vianney. Người ngoài có thể c̣n không
biết những ǵ ngài âm thầm sống khổ chế khác nữa, chẳng
hạn như việc ngài tuyên hứa không găi ngứa, một việc khó
làm chứ không dễ, trong khi ngài bị phong ngứa ở chân.
Riêng tôi, tôi c̣n thấy dấu hiệu thánh thiện nơi ngài
qua việc ngài cử hành Thánh Lễ. Ngài đă giành giờ dọn
ḿnh dâng lễ mỗi ngày và tạ lễ sau đó hằng mấy tiếng
đồng hồ. Dường như ngài đă dùng thời giờ cầu nguyện, suy
gẫm và dọn lễ và tạ lễ bằng 15 tràng Mân Côi mỗi ngày.
Có lần chính tôi giúp lễ cho ngài mà ngài cũng không
biết là ai, v́ trong cuộc nói chuyện với ngài măi sau
đó, tôi có nói đến một chi tiết trong Thánh Lễ ngài dâng
th́ đă khám phá ra được điều này.
Thế nhưng, hầu như chỉ có anh em ḍng mới
biết được vị sáng lập ḍng của ḿnh c̣n thánh thiện ở
chỗ nào, ở một điểm khác nữa, liên quan tới tinh thần tu
đức, đó là ḷng khiêm nhượng. Ngài không để cho ai khen
ngài trước mặt, bằng không, đối với ngài, những lời khen
tặng đó như là những lời nói phạm thượng, phạm đến chính
Đấng “đă làm cho tôi những sự trọng đại” (Lk 1:49). Đó
là lư do ngài đă nhận một câu tâm niệm cho đời sống
thánh của ngài, một câu tâm niệm bằng tiếng Latinh, với
hai chữ đầu là QP, nên ngài thường được anh em ḍng (khi
nói với nhau) gọi ngài là "Anh QP" thế này thế kia, nếu
không muốn gọi là Anh Cả, một danh xưng thường được dùng
để trực tiếp thân thưa với ngài. QP là Quorum Primus,
hai chữ cuối cùng trong câu Thánh Tông Đồ Phaolô nói về
ḿnh ở Thư Thứ Nhất gửi môn đệ Timôthêu, đoạn 1 câu 15:
“Chúa Giêsu Kitô đă đến thế gian để cứu các tội nhân.
Trong đó, tôi là con người tội lỗi nhất”.
Phải, người Anh Cả của anh em tu sĩ ḍng
Đồng Công mang biệt danh QP đây chính là “con người tội
lỗi nhất”, bởi đó khen tặng “một con người tội lỗi
nhất”, một con người thật ra chỉ đáng trách nhất, đáng
bị nguyền rủa nhất, đáng đền tội nhất, đáng bị trừng
phạt nhất, đối với ngài, quả thực là phạm thượng, là
những ǵ không thể nào chấp nhận được. Đó cũng là lư do,
hầu như không một bài huấn đức nào mà ngài không đề cập
đến vấn đề “hạ ḿnh xuống, vui chịu khinh chê giầy
đạp, chịu dể duôi bắt bớ”, như chính lời kinh nguyện
ngài đặt ra cho anh em ḍng đọc hằng ngày. Thậm chí ngài
c̣n dạy “hăy luôn nhận ḿnh là trái”, một lời
khuyên thoạt nghe thật là chướng tai, nhưng lại hoàn
toàn phản ảnh tinh thần của câu Phúc Âm nạn nhân phải tự
đi làm ḥa trước với kẻ thù của ḿnh (x Mt 5:23-24). Đối
với ngài, cái trở ngại lớn nhất trong việc nên thánh đây
chính là cái tôi đầy tự ái của con người, không dẹp bỏ
được nó th́ không thể nào nên thánh được, không thể nào
theo Chúa nổi, đúng như chính Người đă khẳng định: “Ai
muốn theo Thày th́ phải từ bỏ ḿnh đi, vác thập giá ḿnh
hằng ngày mà theo Thày” (Mt 16:24); “Ai không vác thập
giá ḿnh mà theo Thày th́ không xứng với Thày” (Mt.
10:38).
Ḷng khiêm nhượng của ngài quả thực đă
đẹp ḷng Chúa, đến nỗi đă được Chúa đóng ấn bằng những
hiểu lầm cả trong lẫn ngoài, nhờ đó, đức ái trọn hảo
(perfecta caritas) của ngài càng được sáng tỏ, nhất là
đối với những con người được Chúa dùng để giúp ngài nên
thánh hơn, nên giống Chúa Kitô Khổ Giá hơn. Có thể nói
cảm nghiệm tu đức nên thánh của ngài là “hạ ḿnh
xuống, vui chịu khinh chê giầy đạp, chịu dể duôi bắt bớ”,
như ngài đă trải qua, chẳng những trở thành những ǵ
thâm tín nơi ngài mà c̣n là một nền tảng nên thánh mà
ngài hết sức muốn truyền lại cho những ai muốn theo ngài
nữa. Ở Việt Nam trước năm 1975, hầu như ít ai biết đến
Ḍng Đồng Công, hay có biết đến th́ hầu như cái ấn tượng
đầu tiên và chính yếu trong đầu của họ về hội ḍng này
chỉ là những ǵ có vẻ quê mùa (chẳng có bằng cấp ǵ, đầu
th́ care, thân mang áo khẩu v.v.), và kỳ cục (cá mè một
lứa, trên dưới, cha thày ǵ cũng đều gọi nhau là anh em
v.v.).
Thế mà, một hội ḍng hầu như vẫn bị coi
thường như thế, "Thiên Chúa là Đấng toàn năng"
lại sử dụng để "làm những việc lạ lùng" (Lk 1:49)
tại hải ngoại, ngay trước mắt chẳng những Liên Đoàn Công
Giáo Việt Nam mà c̣n cả các vị thuộc hàng Giáo Phẩm Việt
Nam (sang thăm Hoa Kỳ) nữa, đó là Ngày Thánh Mẫu hằng
năm (liên tục từ năm 1978 tới nay, với con số tham dự từ
1500 vào năm đầu tiên lên tới 70 ngàn vào Năm Thánh
2000), một Biến Cố Thánh Mẫu hằng năm không thua ǵ Đại
Hội Lavang vào trung tuần Tháng Tám ở Việt Nam). Chưa
hết, để tiếp tục sống thân phận tôi tớ "không hưởng
thụ nhưng phục vụ" theo khẩu hiệu của một hội ḍng
vẫn chẳng là ǵ và hầu như vô danh tiểu tốt của ḿnh,
những con người theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công với
Cha Thủ ở Chi Ḍng đă lập Nhà Hưu Dưỡng tại trụ sở trung
ương Chi Ḍng, nơi tổ chức Ngày Thánh Mẫu hằng năm, và
ngay từ tháng 7 năm 1977, đă được hân hạnh đón tiếp và
phục vụ các Đức Cha và quư cha có tiếng tăm của Giáo Hội
Việt Nam, trong đó có Đức Tổng Giám Mục Phêrô M. Ngô
Đ́nh Thục, Đức Giám Mục Giacôbê Huỳnh Văn Của, cha
nguyên Viện Trưởng Đại Học Đà Lạt Lê Văn Lư, cha nguyên
Viện Trưởng Đại Học Huế Cao Văn Luận, cha nguyên chánh
xứ La Vang, Quảng Trị, Phêrô Trần Điển...
Nói đến việc Sống Thánh của Cha Thủ,
ngoài ra, không thể không kể đến một yếu tố nữa, hay một
nhân đức nữa hết sức nổi bật của ngài, đó là niềm tin
bất khuất, có lúc đến “liều lĩnh” của ngài. Người ta, kể
cả anh em trong ḍng, vẫn không hiểu là ngài lấy tiền ở
đâu để nuôi anh em. Vẫn biết là theo tinh thần “tự
lực mưu sinh” của ḍng, anh em của ngài đă luôn luôn
cố gắng thực hiện những việc kinh tài, không thuê mướn
ai, chẳng hạn Trại Gà Thiện Chí (từ năm 1965), Ao Cá và
cơ sở phát hành Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ ở Thủ Đức,
đồn điền trà bơ mít Thiên Mẫu ở Di Linh Lâm Đồng (từ năm
1971) v.v. Thế mà cũng chẳng được bao nhiêu, nguyên cho
vấn đề ăn mặc và di chuyển của anh em thôi, chứ chưa nói
đến vấn đề chi phí cho các hoạt động tông đồ truyền
giáo, chẳng hạn như Nhà Hưu Dưỡng cho các vị linh mục ở
Thủ Đức (từ năm 1957), các trạm phát thuốc ở Qui Nhơn
(từ năm 1957), cư xá Rạng Đông cho sinh viên miễn phí ở
Đà Lạt (từ năm 1970) v.v. Cho tới nay, với con số anh em
ḍng chỉ được ở một chỗ duy nhất là Thủ Đức lên tới cả
400-500 người, chẳng làm ăn ǵ cả, thế mà hằng ngày vẫn
đủ cơm ăn áo mặc và các thứ chi dùng cần thiết cả 15 năm
năm nay, đặc biệt từ khi Cha Thủ đột nhiên bị tống về
không được ở tù từ chung thân xuống 20 năm nữa. Tiền ở
đâu ra? Nếu là phép lạ hay sự lạ th́ phải chăng nhờ ở
đức tin của vị sáng lập ḍng?
Đức tin của ngài chẳng những lạ lùng như
thế song có lúc c̣n tỏ ra “liều lĩnh” nữa. Địa điểm
truyền giáo rất nguy hiểm ở Nhà Đá giữa quận Phú Cát và
Phù Mỹ, Tỉnh B́nh Định ngoài Qui Nhơn, nơi không một
ḍng tu nào hay một vị linh mục triều nào dám bén mảng
tới. Thế mà, anh em theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công
với ngài đă hiên ngang hoạt động ở đây suốt từ năm 1966
tới 1975 (trừ thời khoảng 1972-1974 không thể ở nổi v́
quá nguy hiểm). Họ đă từng nghe chiêu hồi về đêm, giữa
cả bên quốc gia lẫn bên mặt trận giải phóng. Có những
lúc quá nguy hiểm, họ đă phải đi bộ từ Nhà Đá về Quận
Phù Mỹ vào khoảng chiều chiều, cách 6 cây số, để ngủ qua
đêm, sang hôm sau trở lại tái sinh hoạt. Họ đă chứng
kiến vào năm 1974 những chiếc cầu bị giật sập vào ngay
sáng sớm, những buổi chợ bị đạn nổ ngay giữa ban ngày.
Họ đă gặp những em học sinh trong trường đột nhiên bỏ
học đi tập kích rồi bất ngờ xuất hiện vác súng về thăm
bạn bè thày dạy.
Chính người viết này đă tận mắt thấy cái
xác không đầu của đại úy đại đội trưởng Phước (đóng ở
Phù Ly) bị phục kích ngay buổi trưa, xác nằm trên đường
gần Dốc Truông, khi chiếc xe Jeep của ông từ quận Phù Mỹ
về, một chiếc xe bị bắn bay sang bên kia đường, bốc cháy
trên bờ ruộng cùng với xác người tài xế trong ấy. Cũng
chính người viết này, trong số 7 người anh em đồng đội
(cùng lớp khấn IX), ngay trưa hôm mới vào Tập Viện ngày
8/9/1966, đă bị lính quốc gia phục kích bắn, v́ tưởng là
thành phần địch quân đang lẩn quẩn ở đầu Nhà Thờ Nhà Đá,
nhưng may thoát chết. Biết bao nhiêu là trận đánh chung
quanh khu vực nhà ḍng, và có biết bao nhiêu là người
chết, ḅ chết (chó ở đây không bao giờ sủa) chung quanh
nhà ḍng v́ bị trúng đạn, trúng ḿn, bị Mỹ bắn vào nhà
khi họ bị phục kích bất ngờ, nhất là bởi những mảnh đại
bác câu từ quận lên, rớt rào rào xuống trên mái tôn
trong nội vi nhà ḍng. Thế mà, trong nhà ḍng, có lúc
lên đến cả trăm anh em, suốt bằng ấy năm, không ai bị
chết, thậm chí bị chảy một giọt máu. Một người đă từng ở
cạnh nhà ḍng bấy giờ, đă từng vào nhà ḍng lấy thực
phẩm hằng ngày, đó là một chú bé mang tên Phạm Quốc
Tuấn, cháu của ông Quế là người bổ củi cho nhà ḍng, một
cậu bé hiện đang là một trong những vị linh mục Việt Nam
từng làm cha sở ở Giáo Phận Orange.
Đức tin của Cha Thủ chẳng những lạ lùng,
liều lĩnh mà c̣n tinh khôn nữa. Như bài “Lênh Đênh
Hải Ngoại: Vượt Thoát Hay Lên Đường” của tôi được
Nguyệt San Hiệp Nhất phổ biến vào Tháng 7/2005 cho thấy,
đối với người Việt hải ngoại nói chung và Cộng Đồng Công
Giáo Việt Nam hải ngoại nói riêng, chỉ có Ḍng Đồng Công
là có ư tổ chức xuất ngoại ngay từ đầu tháng tư đen,
theo lệnh của Cha Thủ, với mục đích “để giữ lấy ḍng
và để truyền giáo”. Cái viễn kiến này của ngài đă
hoàn toàn trở thành hiện thực, ở chỗ, ḍng của ngài
chẳng những vẫn c̣n tồn tại, không bị tan vỡ trong biến
cố chụp mũ của chính quyền, với hậu quả là chính ngài
cùng với một số đông anh em ḍng bị xử án và tống ngục,
mà c̣n phát triển ở hải ngoại nữa, qua hoạt động tông đồ
nổi tiếng nhất cộng đồng Công Giáo Việt Nam là Ngày
Thánh Mẫu Missouri hằng năm (từ năm 1978). Tuy nhiên,
viễn kiến của ngài không phải chỉ là tác động khôn ngoan
trần gian biết nh́n xa trông rộng, mà là tác động gắn
liền với đức tin mănh liệt của ngài, đến nỗi, với một
lực lượng 170 anh em di cư năm 1975, không một ai tự
nhiên dám đứng ra nhận nuôi, bấy giờ mọi người trong
cuộc đang lo có nguy cơ tan ḍng, nếu xẩy ra trường hợp
mỗi người một nơi, hay từng nhóm nhỏ một chỗ, thế mà,
Đấng Quan Pḥng Thần Linh đă lo cho đâu vào đấy, qua một
con người được Ngài gửi tới vào đúng thời điểm của nó,
đó là Đức Cha Bernard Law bấy giờ là giám mục Giáo Phận
Sprinfield Cape-Girardeau Missouri, vị giám mục sau trở
thành Hồng Y cai quản Tổng Giáo Phận Boston! Và vào
chính ngày Quan Thày của vị sáng lập của ḿnh là
8/8/1975 đă trở thành ngày đoàn tụ lịch sử của toàn thể
anh em Đồng Công lên đường xuất ngoại "để giữ lấy ḍng
và để truyền giáo" theo lệnh của Đấng Sáng Lập, và nơi
đoàn tụ thiên định này ở tại Carthage Missouri, một
chủng viện của Ḍng các Cha Thừa Sai Vô Nhiễm vừa bỏ
trống 5 năm trước.
Đó là việc Sống Thánh của Cha Đaminh
Maria Trần Đ́nh Thủ, và nền tảng Sống Thánh (khiêm
nhượng bỏ ḿnh và tin tưởng phó thác) chẳng những của
ngài mà c̣n được ngài triệt để áp dụng cho những ai muốn
cùng ngài theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công nữa, tức
muốn được ngài Huấn Thánh cho, muốn được ngài giúp cho
đi vào con đường thánh thiện, muốn thực sự trở thành môn
đệ của Chúa Kitô, nên nhân chứng trung thực của Chúa
Kitô. Chính ngài đă thú nhận rằng mục đích ngài lập ḍng
Đồng Công, một ḍng thuần túy Việt Nam đầu tiên, do
người Việt thành lập cho người Việt, chứ không phải là
ḍng ngoại quốc, ḍng do các Thánh Tây phương lập được
du nhập vào Việt Nam, là để Huấn Thánh, để huấn luyện
cho Việt Nam có Thánh, như Âu Tây, một châu lục có nhiều
Thánh hiển tu - tại sao Việt Nam lại không thể!
Đối với riêng tôi, tôi vẫn cảm thấy đúng
như những ǵ tôi đă viết trong cuốn “Sống Thánh Chứng
Nhân” (Phong Trào Tông Đồ Fatima Thế Giới Việt Nam xuất
bản năm 2006), trang 174, như sau: “thật thế, phải
thú nhận rằng, mỗi khi nghe ngài giảng dạy, ḷng tôi
không thể nào không cảm thấy bừng nóng lên như hai môn
đệ đi Emmau nghe Chúa Giêsu giải thích Thánh Kinh trong
cuộc hành tŕnh của họ (x Lk 24:32). Chưa hết,
chẳng cần nghe ngài nói, chỉ cần trông thấy ngài thôi,
tôi đă cảm thấy ḿnh ra sao và tự nhiên thấy được nhắc
nhở phải nên thánh, phải sống thánh”.
Cho đến nay, về phương diện tu đức, tôi
vẫn thực hành ba điều tối quan trọng trong những điều
cần cho việc liên lỉ nên thánh theo Lư Tưởng Thánh Đồng
Công được ngài chỉ dẫn, cũng là những ǵ được ghi ngay
trong Tục Lệ Đồng Công. Thứ nhất, đó là, trước khi làm
bất cứ một việc ǵ, nhất là những việc chính yếu trong
ngày, nhớ dâng các việc làm và từng việc làm trong ngày
cho Chúa, với ư thức là làm v́ Chúa và cho Chúa, chứ
không phải làm theo sở thích và ư riêng. Thứ hai, thế
rồi, đang khi làm, thỉnh thoảng tái nhận thức ư hướng
ngay lành làm việc của ḿnh từ đầu, kẻo bị lệch lạc lúc
nào không hay trong khi làm, lúc đầu v́ Chúa sau đó cho
ḿnh (đó là lư do trong ḍng Đồng Công ngày xưa thường
có chuông “Nhớ Mẹ” như để nhắc nhở nhau “Nhớ Mẹ”, sống
thánh). Thứ ba, chưa hết, ngay cả sau mỗi việc làm, nhất
là sau một ngày sống, phải “hồi tâm” lại xem ḿnh đă
thực sự theo đuổi ḷng ham ước nên thánh trong khi làm
việc đó hay chăng, trong ngày sống đó hay chăng. Việc
hồi tâm xét ḿnh hằng ngày của tu sĩ Đồng Công, vào 7
phút thinh lặng trước kinh tối, buổi kinh chung được kết
thúc bằng Kinh Lạy Nữ Vương – Salve Regina và phép lành
cuối ngày của bề trên, không phải chỉ xét đến những lỗi
lầm có vẻ tiêu cực, mà trước hết và trên hết xét tới
t́nh trạng thánh thiện của ḿnh, đến ḷng ham ước nên
thánh của ḿnh. Bởi v́, một khi đă hay đang sa sút ḷng
nên thánh nồng cốt và chính yếu này, th́ mọi sự khác sẽ
bị tụt xuống thôi, trái lại, c̣n hăng say nên thánh th́
tất cả mọi sự trở thành dễ dàng và tốt lành đẹp ḷng
Chúa.
Ngoài ra, về bề ngoài, cho đến nay, tôi
vẫn c̣n tiếp tục giữ "cái đầu Đồng Công", không phải chỉ
là "cái đầu Đồng Công" về tinh thần như những ǵ tôi vừa
bày tỏ trên đây, hay sắp bày tỏ dưới đây, mà c̣n là "cái
đầu Đồng Công" về thể lư nữa. Tức là tôi hớt tóc kiểu
"cái đầu Đồng Công" ngày xưa, trước năm 1975, một cái
đầu kiểu gần như carê hay đầu lính, hoàn toàn giản dị và
gọn ghẽ, chứ không chải tém vuốt ve (mà trước đây có thể
được Cha Thủ cho là) có vẻ làm dáng, không hợp với những
con người chỉ t́m kiếm Thánh trước hết và Thánh trên
hết. Hai thằng con trai của tôi, một cháu 21 và một cháu
20 c̣n có cái đầu trọc hơn cả bố của chúng nữa. Hôm đó,
cùng với tôi, các cháu cũng được hân hạnh diện kiến dung
nhan của vị mà các cháu vẫn được bố các cháu nói rằng "không
có ngài cũng chẳng có bố của các con như bây giờ, và do
đó cũng chẳng có gia đ́nh này và chẳng có các con đặc
biệt như hiện nay!"
Ngoài ra, trên ngực của tôi, tuy không
đeo cỗ tràng hạt đen 150 kinh trước ngực như thày Tâm
Phương Đồng Công tôi ngày xưa, nhưng đi đâu ra ngoài, dù
diện áo vét, tôi cũng vẫn hiên ngang đeo ảnh Đức Mẹ Ban
Ơn to trước ngực. Nhiều người đă nh́n thấy và hỏi tôi,
nhất là những người đồng đạo tỏ vẻ vừa khâm phục vừa
thắc mắc, tôi đă thẳng thắn thưa với họ rằng: "Tại
sao ở Mỹ quốc tự do này, người ta làm được đủ thứ, đeo
đủ thứ, cả nam lẫn nữ, nào là trên tai, trên mũi, trên
môi v.v. lỉnh kỉnh như thế, mà chúng ta lại không lợi
dụng tự do để sống đạo và làm chứng nhân, bằng những
h́nh thức bề ngoài này chứ?" Tôi không biết họ có
chấp nhận lập luận này của tôi hay chăng, nhưng tôi phải
công nhận là cái gan sống thánh ấy không thể có nơi tôi,
nếu không có “Cha Thánh Thủ” và từ “Cha Thánh Thủ”. Và
có phải v́ thấy tôi c̣n "cái đầu Đồng Công" và ngực c̣n
đeo tràng hạt bấy giờ, (v́ tôi quên ảnh Đức Mẹ Ban Ơn ở
nhà bên Mỹ, nên lấy một cổ tràng hạt luôn mang theo
trong người đeo thế, suốt từ Bắc vô Nam, làm cho một sơ
thuộc Ḍng Khiết Tâm B́nh Cang Nha Trang nói rằng: 'cái
anh này gan thật'), mà ngài c̣n thấy tần số thánh
của ngài nơi tôi, nên đă hào hứng nói chuyện với tôi đến
nửa tiếng hết sức ngoại lệ hay chăng?
Chưa hết, đă có một số lần, với tất cả
niềm thâm tín của ḿnh, tôi đă nói trong Khóa Tĩnh Huấn
của nhóm giới trẻ Thiếu Nhi Fatima được tôi hướng dẫn,
cũng như với một số bạn đồng chí hướng Thánh trước hết
và Thánh trên hết của tôi rằng: "Nếu chúng ta không
dám nói 'tôi là ánh sáng thế gian', như Chúa Kitô đă
định nghĩa về Kitô hữu chúng ta là thành phần môn đệ
theo Người nói chung: 'Các con là ánh sáng thế gian' (Mt
5:14), th́ chúng ta không thể nào trở thành chứng nhân
cho Người và của Người, Đấng chính 'là ánh sáng thế
gian' (Jn 8:12). Chúng ta tự ḿnh thực sự không phải 'là
ánh sáng thế gian', mà chỉ phản ảnh Chúa Kitô 'là ánh
sáng thế gian' thôi. Chúa Kitô không dạy chúng ta phải
ra trước phố xá hay lên mái nhà để công bố chúng ta 'là
ánh sáng thế gian', nhưng Người muốn chúng ta luôn ư
thức căn tính bất di bất dịch của ḿnh 'là ánh sáng thế
gian', và sống căn tính ấy, trước hết và trên hết, bằng
việc Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta, làm sao để
chúng ta có thể trung thực và sống động phản ảnh Người
'là ánh sáng sự sống' (Jn 8:12). Nếu chúng ta không dám
nhận ḿnh 'là ánh sáng thế gian', (không minh nhiên bằng
lời nói hơn là mặc nhiên bằng việc Sống Thánh Chứng
Nhân), v́ cho rằng nhận ḿnh như thế là kiêu ngạo, th́
chúng ta đă vô h́nh chung (hay cố t́nh) phủ nhận bản
chất của Giáo Hội 'là truyền giáo' (Sắc Lệnh Ad Gentes,
2), đă sống ngược lại với căn tính Kitô hữu của ḿnh 'là
ánh sáng thế gian', và như thế, chúng ta rơi vào t́nh
trạng như Chúa Giêsu đă nói với vị nghị viên lăo thành
Nicôđêmô là 'chuộng tối tăm hơn ánh sáng' (Jn 3:19),
'ghét ánh sáng, không dám đến gần ánh sáng... (sợ ánh
sáng)' (Jn 3:19)". Thậm chí, với kinh nghiệm Sống
Thánh Chứng Nhân qua nhiều hoạt động tông đồ giáo dân
khác nhau, tôi đă bạo gan mạnh miệng phấn khích các đồng
nghiệp tông đồ của tôi, những người tỏ ra nản chí hay
muốn bỏ cuộc rằng: "Không có máu tử đạo không thể nào
làm việc của Chúa và cho Chúa"!
Cha Thủ - Huấn Thánh
ất cả những tâm thức tôi có được về việc
Nên Thánh hay Sống Thánh như thế đều hoàn toàn xuất phát
từ “Cha Thánh Thủ”, vị đă cưu mang tôi và đớn đau hạ
sinh ra tôi, như Thánh Tông Đồ Phaolô với các giáo đoàn
Kitô Giáo tiên khởi do thánh nhân thành lập (Gal 4:19;
cũng xem 1Cor 4:14-15; 1Thes 2:7-8). Đúng thế, cũng
chính v́ Lư Tưởng Thánh Đồng Công này mà bản thân “Cha
Thánh Thủ” đă phải chấp nhận những giá hy sinh khôn
lường, chẳng những từ bên ngoài trong thời gian mới
thành lập ḍng, mà nhất là từ nơi chính nội bộ ḍng của
ngài. Phải chăng v́ Lư Tưởng Thánh Đồng Công ngài đề ra
quá cao? Trong lúc Ḍng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêsa
Calcutta bên Ấn Độ, cũng được thành lập vào thời điểm
(7/10/1950) với ḍng của ngài (Ṭa Thánh Châu Phê Hiến
Pháp Đồng Công ngày 15/12/1952), phát triển nhanh nhất
và rộng nhất trên khắp thế giới, hơn bất cứ một ḍng nào
khác trong lịch sử Giáo Hội, th́ ḍng của ngài chỉ vỏn
vẹn ở Việt Nam thôi mà đă có lúc trải qua một cuộc khủng
hoảng đến nỗi chính ngài cương quyết đánh liều thực hiện
một cuộc “mở sổ khấn” (năm 1968) để ai muốn ra th́ ra,
c̣n tu phải cho ra tu! Chính hành động dứt khoát không
chấp nhận thái độ “ương ương dở dở” (Rev 3:16) này của
ngài nơi những ai muốn theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng
Công với ngài đă là những ǵ cho thấy ngài coi trọng vấn
đề Nên Thánh là chừng nào, thậm chí bất chấp cả chính
thành phần anh em vốn được ngài yêu thương chẳng khác
nào ruột thịt của ngài, như chính Chúa Giêsu đă cương
quyết bảo vệ đường lối nên trọn lành của Người, thà bị
thiệt hại mất mát, như trong trường hợp nhiều môn đệ bỏ
đi sau bài giảng về Bánh Hằng Sống (x Jn 6:60-69), hay
trong trường hợp của người thanh niên giầu có bỏ đi sau
khi nghe Người ra điều kiện nên trọn lành quá tầm tay
với của ḿnh (x Mt 19:20-22).
Chủ trương Thánh trước hết và Thánh trên
hết này của Cha Thủ, cho dù có phải trả giá đến đâu
chăng nữa, liên quan tới bản thân ngài, hay tới t́nh
trạng mất mát về nhân sự, chẳng những đă hợp với đường
lối và thái độ của Chúa Giêsu trong Phúc Âm, mà c̣n hợp
với cả Giáo Hội nữa, điển h́nh là Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II, vị Giáo Hoàng đă mở màn cho Giáo Triều dài 26
năm rưỡi của ḿnh vào ngày Chúa Nhật Lễ Đăng Quang
22/10/1979 bằng lời kêu gọi riêng Giáo Hội lẫn chung thế
giới rằng: “Đừng Sợ, hăy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”,
một lời kêu gọi đă được ngài dẫn giải trong tác phẩm
“Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của ngài (ấn bản Anh ngữ,
trang 222), liên quan tới thái độ dứt khoát theo Chúa và
nên trọn lành theo Phúc Âm như sau: “Phúc Âm thực sự
là những ǵ gay go đ̣i hỏi. Chúng ta biết rằng
Chúa Kitô đă không cho phép các môn đệ của Người và
những ai lắng nghe Người ôm ấp một ảo tưởng nào về vấn
đề ấy. Trái lại, Người đă không bỏ qua một nỗ lực nào để
sửa soạn cho họ chấp nhận mọi thứ khó khăn trong ngoài,
dù luôn biết rằng họ có thể quyết định đi đến chỗ ĺa bỏ
Người”.
V́ mục đích lập ḍng của Cha Thủ là để
Huấn Thánh cho người Việt Nam, nên ngài cũng để ư tới
những yếu điểm nơi người bản xứ của ngài. Chẳng hạn, như
ngài vẫn nói, người Việt Nam hay thay đổi, không trung
thành như người Tây phương (tất nhiên là ngài có ư nói
loại người Tây phương ngày xưa có nhiều Thánh, chứ không
phải loại Tây phương ly dị và phá giới tu tŕ ngày nay),
và thiếu ư chí, không cương quyết như người Tây phương.
Ngài thường kể lại những tích truyện chính ngài được
chứng kiến nơi các Cha Tây mà ngài đă được gặp và làm
việc với. Bởi thế, ngài rất lưu ư tới yếu tố tự nhiên
nơi tính nết và tâm lư của anh em theo đuổi Lư Tưởng
Thánh Đồng Công với ngài nữa. Chẳng hạn, để luyện tập ư
chí, chính bản thân ngài chỉ ăn một món, ngày nào cũng
thế, và chỉ ăn điều độ bằng nào thôi, không hơn không
kém. Không bao giờ ngài kêu ca về của ăn thức uống dọn
ra cho ngài. Thậm chí cũng chẳng ai biết là ngài thích
ăn ǵ nữa.
Thế nhưng, nếu Phúc Âm cứu độ là tin mừng
sự sống được loan truyền cho muôn dân, cho tất cả mọi
tạo vật (x Mk 16:15; Mt 28:19) thế nào, th́ con người
nào đi nữa, dù thuộc văn hóa nào, chủng tộc nào, tŕnh
độ trí thức nào, ở vào thời đại nào, cũng có thể được
cứu độ, cũng có thể theo Chúa, cũng có thể nên thánh, có
thể trở thành chứng nhân của Người và cho Người. Bởi
vậy, không một vị sáng lập nào có thể phác họa một đường
lối sống Đức Ái Trọn Hảo - Perfecta Caritas ngoài tinh
thần Phúc Âm. Vậy đường lối Huấn Thánh hay linh đạo nên
thánh của Cha Thánh Thủ cho Ḍng Đồng Công, cho những
người Việt Nam muốn theo ngài ở đây là ǵ và như thế
nào, nếu không phải ở ba tinh thần chính được ngài phác
họa đó là Bỏ Ḿnh, Yêu Nhau và Tận Hiến. Tận Hiến là
tinh thần trực tiếp liên quan tới Thiên Chúa, Bỏ Ḿnh là
tinh thần trực tiếp liên hệ tới bản thân, và Yêu Nhau là
tinh thần trực tiếp liên hệ tới anh em trong ḍng nói
riêng và tha nhân nói chung.
Theo tôi, như tôi đă nhận định và phân
tích trong cuốn “Sống Thánh Chứng Nhân” (2006, trang
175-178), 3 tinh thần của Ḍng Đồng Công rất thích hợp
với linh đạo truyền thống của Giáo Hội Công Giáo, một
linh đạo phổ thông được gắn liền với cảm nghiệm tu đức
của ba vị Thánh Tây Ban Nha thuộc thế kỷ 16 là I Nhă –
Ignatio (1491-1556), Thiên-Sa Viên-Lan – Teresa Avilla
(1515-1582) và Giang Thập Giá – John of Cross
(1542-1591), và là một linh đạo tam cấp được Cố Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II tóm gọn trong tác phẩm cuối đời
của ḿnh là "Hồi Niệm Và Căn Tính" (ấn bản Anh ngữ 2005,
trang 28-30). Theo linh đạo tam cấp này, th́ giai đoạn
đầu được gọi là giai đoạn khởi sinh, liên quan tới t́nh
trạng thanh tẩy linh hồn (purgative stage/way), giai
đoạn thứ hai là giai đoạn tiến sinh, liên quan tới t́nh
trạng soi sáng linh hồn (illuminative), và giai đoạn thứ
ba là giai đoạn hiệp sinh, liên quan tới t́nh trạng hiệp
nhất linh hồn (unitive).
Căn cứ vào nội dung và tính chất của 3
giai đoạn tu đức này, 3 tinh thần Đồng Công là Bỏ Ḿnh,
Yêu Nhau và Tận Hiến có thể được hiểu theo chiều kích tu
đức như thế này. Trước hết là tinh thần Bỏ Ḿnh, tương
ứng với giai đoạn khởi sinh – giai đoạn thanh tẩy linh
hồn, thanh tẩy nhất là những ǵ được Cha Thánh Thủ nhấn
mạnh tới khi giảng dạy chung riêng là tâm trạng kiêu
căng tự ái nơi con người. Sau nữa là tinh thần Yêu Nhau,
tương ứng với giai đoạn tiến sinh – giai đoạn soi sáng
linh hồn. Bởi v́, “ai cho ḿnh ở trong ánh sáng mà
ghét anh em ḿnh th́ vẫn ở trong tăm tối. Ai tiếp tục ở
trong ánh sáng là kẻ yêu thương anh em” (1Jn
2:9-10). Sau hết là tinh thần Tận Hiến, tương ứng với
giai đoạn hiệp sinh – giai đoạn hiệp nhất linh hồn, ở
chỗ, linh hồn được Chúa chiếm đoạt, tới độ siêu thoát
không c̣n ước vọng ǵ khác ngoài ước nguyện cho Danh Cha
cả sáng, Nước Cha trị đến, Ư Cha thể hiện dưới đất cũng
như trên trời, hoàn toàn phó thác theo tác động của
Thánh Thần, để có thể sống Chúa Kitô như Mẹ Maria. Tiến
tŕnh từ giai đoạn tu đức tiến sinh Yêu Nhau tới giai
đoạn tu đức hiệp sinh Mến Chúa này hoàn toàn phản ảnh
mạc khải Tân Ước: “Khi các người làm (hay) không
làm cho một trong những người anh em bé mọn nhất của Ta
đây là các người làm (hay) không làm cho chính Ta”
(Mt 25:40,45); “Kẻ nào không yêu thương anh em là
người họ thấy được th́ cũng không thể yêu mến Thiên Chúa
họ không thấy” (1Jn 4:20); “Không ai đă từng thấy
Thiên Chúa. Thế nhưng nếu chúng ta yêu nhau th́ Thiên
Chúa ở trong chúng ta, và t́nh yêu của Ngài đạt đến mức
trọn lành nơi chúng ta” (1Jn 4:12), đến độ chúng ta
có thể “yêu nhau như Thày đă yêu” (Jn 15:12;
13:34).
Ba tinh thần Đồng Công, thứ tự là Bỏ
Ḿnh, Yêu Nhau và Tận Hiến này của Ḍng Đồng Công, làm
nên Lư Tưởng Thánh Đồng Công, chẳng những hợp với linh
đạo Kitô Giáo như thế, mà c̣n hoàn toàn phản ảnh tinh
thần của Chư Thánh Tử Đạo Việt Nam, của Chúa Cứu Thế và
của Mẹ Đồng Công nữa. Trước hết, 3 tinh thần của Ḍng
Đồng Công phản ảnh Chư Thánh Tử Đạo Việt Nam, ở chỗ, các
vị đă tận tuyệt Bỏ Ḿnh, bỏ cả họ hàng thân thuộc, vinh
hoa phú quí, tiện nghi vật chất, nhất là cả chính mạng
sống ḿnh; đă Yêu Nhau qua việc truyền giáo cho dân
Việt, hay phục vụ Cộng Đồng Dân Chúa bằng việc mục vụ
hay tông đồ; và đă hoàn toàn sống Tận Hiến, phó mặc mọi
sự cho Chúa Quan Pḥng, và sẵn sàng chịu đựng hết mọi
cơn gian nan khốn khó cho đến hơi thở cuối cùng, như
cành nho đă sai trái lại được cắt tỉa cho càng sai trái
hơn (x Jn 15:2) là các Kitô hữu ("Apologetico" 50,13: "Plures
efficimur quoties metimur a vobis: semen est sanguis
christianorum"). Sau nữa, 3 tinh thần của Ḍng Đồng
Công phản ảnh sứ vụ của Chúa Cứu Thế, Đấng đă tuyên bố ở
Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 20 câu 28 là: "Thày đến
không phải để được phục vụ (bỏ ḿnh: "không tự
cho ḿnh ngang hàng với Thiên Chúa, song đă tự hủy ra
như không" – Phil. 2:6-7), mà là để phục vụ (yêu
thương: "mặc lấy thân phận tôi đ̣i, nên giống như con
người” – Phil. 2:7), để hiến mạng sống ḿnh làm giá
chuộc cho nhiều người (tận hiến: “đă vâng lời cho đến
chết đến chết trên thập giá" – Phil. 2:8). Đến đây
chúng ta thấy linh đạo của Lư Tưởng Thánh Đồng Công ở
ngay câu khẩu hiệu của Hội Ḍng: “Non ministrari sed
ministrare”. Và 3 tinh thần của Ḍng Đồng Công cũng
phản ảnh đời sống của Mẹ Đồng Công nữa, Vị đă thưa trong
giây phút Truyền Tin Lời Nhập Thể (Luca 1:34, 38): "Việc
ấy thành sự sao được v́ tôi không biết đến nam
nhân (bỏ ḿnh)… Này tôi là nữ tỳ Chúa (yêu
thương phục vụ), tôi xin vâng như lời sứ thần
truyền (tận hiến)".
Thật ra, không một vị thánh nào lại không
sống 3 tinh thần Bỏ Ḿnh, Yêu Thương và Tận Hiến, cũng
như không một Kitô hữu nào có thể nên thánh nếu không
biết "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mt 18:3).
Song thực tế cho thấy, nếu chỉ có chị Thánh Têrêsa Hài
Đồng Giêsu là vị thánh đáng được Giáo Hội tuyên phong là
Tiến Sĩ Hội Thánh, vị tiến sĩ nữ thứ ba và là vị tiến sĩ
thứ 33 của Giáo Hội, v́ chị chẳng những chủ trương một
cách minh nhiên tỏ tường mà c̣n thực sự sống linh đạo
thơ ấu thiêng liêng nữa, như chị đă tâm sự và chia sẻ
trong cuốn Một Tâm Hồn của chị, th́ Ḍng Đồng Công cũng
thế, là một hội ḍng rơ ràng chủ trương nên thánh và
sống thánh theo ba tinh thần này. Tuy nhiên, trong ba
tinh thần chính yếu này của Ḍng Đồng Công do “Cha Thánh
Thủ” sáng lập ấy, tinh thần làm nên căn tính của hội
ḍng thuần túy Việt Nam đầu tiên, song cũng đồng thời v́
thế mà, theo tôi, trở thành một thách đố hết sức gay go
cho những người theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công, đó
là tinh thần Tận Hiến. Tại sao?
Trước hết, Ḍng Đồng Công là một ḍng
truyền giáo. V́ là một hội ḍng truyền giáo, một việc
truyền giáo đặc biệt chú trọng tới vấn đề giáo dục, mà
ḍng đă nỗ lực mở những trường Trung Tiểu Học Đồng Công
Thủ Đức (từ thập niên 1950 vào năm 1956), Mỹ Chánh Phù
Mỹ B́nh Định (từ đầu thập niên 1960), Nhà Đá Phù Cát
B́nh Định và Lương Sơn Phan Rí (từ thập niên 1970) v.v.,
và với cư xá Rạng Đông Đà Lạt (đầu thập niên 1970) cho
sinh viên theo học ở Đại Học Công Giáo Thụ Nhân Đà Lạt.
Bởi vậy, cần nhiều anh em đi học, có bằng cấp. Sau nữa,
Ḍng Đồng Công c̣n là ḍng giáo sĩ nữa, dù là thiểu số,
(từ đầu được
ấn định tối đa là 1/3), nhưng lại là thành phần chẳng
những cần thiết trong việc quản trị nhà ḍng mà c̣n liên
quan tới vấn đề thánh hóa anh em tu sĩ ḍng qua việc ban
phát các bí tích nữa. Bởi thế, cũng cần phải có những
anh em đi học làm linh mục và được thụ phong linh mục.
Thế mà, hai lănh vực này, học hành và làm linh mục, đối
với tinh thần Tận Hiến, với Lư Tưởng Nên Thánh Đồng
Công, dù cần thiết mấy đi chăng nữa, cho việc truyền
giáo đối ngoại, cũng như cho việc quản trị đối nội, vẫn
được coi là những ǵ thứ yếu, không được coi trọng hơn
Lư Tưởng Thánh, ưu tiên hơn việc Nên Thánh. Đối với Đấng
Sáng Lập Ḍng Đồng Công th́ đi tu mà không nên thánh th́
thật là uổng phí, hoàn toàn phí công vô ích, không đạt
được mục đích của đời tận hiến, dù làm linh mục. Bởi
thế, cần phải để ư và nỗ lực nên thánh trước, dù có phải
hy sinh tất cả mọi sự, hy sinh học hành hết sức khẩn
thiết, hy sinh chức linh mục vô cùng cao trọng. Thực tế
của tinh thần Tận Hiến để theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng
Công c̣n phũ phàng hơn nữa, ở chỗ, vẫn có anh em đi học
và làm linh mục đấy, nhưng nhiều khi lại là những người
tu sau ḿnh, những người thua kém ḿnh về nhiều hay một
số lănh vực, trong khi ḿnh hầu như suốt đời (hay cứ
măi) làm bếp, làm vườn, không ngóc đầu lên được v.v.
Đối với “Cha Thánh Thủ”, vấn đề làm linh
mục rất ư là quan trọng, nên ngài chọn lựa thật là kỹ
lưỡng. Chẳng những v́ bản chất và phẩm vị vô cùng cao
trọng của thiên chức này, mà c̣n v́ tác dụng và ảnh
hưởng của thừa tác vụ ấy nữa. Đến nỗi, ngài đă chủ
trương làm linh mục th́ phải thánh thiện, bằng không sẽ
có thể đi đến chỗ phá Giáo Hội. Tất nhiên ngài không có
ư nói rằng không thánh thiện th́ đừng có làm linh mục,
v́ chính bản thân ngài là một “con người tội lỗi nhất”
th́ làm sao ngài dám làm linh mục. Thế nhưng, trên thực
tế, ngài vẫn (cùng với Hội Đồng Tổng Quản Ḍng) chọn đi
học làm linh mục, những người em nào của ngài được ngài
nhận thấy, với tầm mức tu đức của ngài, (ít là căn cứ
vào bề ngoài), tốt lành thánh thiện trổi vượt. Và điều
kiện tối thiểu, được ngài cho là chín chắn và thích hợp
nhất để chịu chức linh mục đó là tuổi tam thập nhi lập,
tuổi Chúa Giêsu bắt đầu xuất thân đi rao giảng Nước
Trời, thực hiện việc cứu độ của Người.
Nói đến đây, cũng cần nhắc đến một đặc
điểm nữa của Ḍng Đồng Công, phản ảnh từng chi tiết liên
quan tới đời sống siêu nhiên, đời sống thánh theo chủ
trương của Đấng Sáng Lập, đó là vấn đề tổ chức các lễ
mừng kỷ niệm khác thường. Chẳng hạn, lễ bạc và lễ vàng
khấn ḍng hay thụ phong linh mục. Lễ bạc, thay v́ 25 năm
chỉ c̣n 15 năm, thời khoảng liên quan tới tuổi đời của
Mẹ Maria hạ sinh Lời Nhập Thể, và lễ vàng, thay v́ 50
năm chỉ c̣n 33 năm, thời khoảng liên quan tới tuổi đời
của Chúa Giêsu. Ngoài ra, nếu Thánh Kinh đă có những con
số đặc biệt liên quan tới mầu nhiệm cứu độ thế nào, như
con số 7 (7 ngày tạo dựng, 7 ơn Chúa Thánh Thần v.v.),
số 40 (40 năm trong sa mạc của Dân Do Thái, 40 ngày chay
tịnh của Chúa Giêsu v.v.), th́ các con số tự nhiên cũng
có một ư nghĩa siêu nhiên đặc biệt với Cha Thủ như vậy,
v́ nó nhắc nhở các mầu nhiệm trong đạo, và cần được
tưởng nhớ để áp dụng vào đời sống thánh, để nhắc nhở nên
thánh, như con số 3 kính Chúa Ba Ngôi, con số 5 kính 5
Dấu Thánh Chúa Giêsu, con số 7 kính Đức Mẹ 7 Sự, con số
12 kính 12 nhân đức của Đức Mẹ v.v.
Tuy nhiên, theo tôi, yếu tố chính yếu làm
nên căn tính của Ḍng Đồng Công và là điều kiện bất khả
châm chước cho việc Nên Thánh của những ai muốn theo
đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công, vẫn là tinh thần Tận
Hiến, một tinh thần c̣n khó hơn cả việc khổ chế, chay
tịnh, phạt xác, câm lặng, đi chân không v.v. có tính
cách bề ngoài ở các ḍng khổ tu nữa. Vẫn biết những việc
khổ hạnh khác thường ấy nếu không có tinh thần thánh
thiện cũng chẳng thể nào thực hiện nổi, song ngược lại,
nếu thực hành những việc khổ hạnh tự bản chất chỉ là
phương tiện để thánh hóa mà không tiến tới chỗ hoàn toàn
tận hiến tuân phục th́ cũng không đạt được mục đích của
những việc làm bề ngoài ấy. Bởi vậy, ở đây chỉ so sánh
giá trị khách quan giữa phương tiện khổ hạnh giúp nên
thánh với chính tinh thần tận hiến thánh thiện mà thôi,
theo ư nghĩa của câu Chúa Giêsu trả lời cho vấn đề được
các môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đặt ra là tại sao
các môn đệ của Người không chay tịnh như họ và những
người Pharisiêu (x Mt 9:14-15).
Trong Ḍng Đồng Công, chỉ có ai thật t́nh
và liên lỉ “t́m Nước Thiên Chúa và sự công chính của
Ngài trước” (Mt 6:33), theo tinh thần Tận Hiến hoàn
toàn phó thác mọi sự theo Ư Chúa, mới có thể sống được
mà thôi. Chỉ có ai hoàn toàn đến “không phải để được
phục vụ mà là phục vụ” (Mt 20:28), đúng như khẩu
hiệu của Ḍng Đồng Công là “Non Ministrari Sed
Ministrare”, theo tinh thần bác ái Yêu Nhau, mới có thể
bền đỗ cho đến cùng ở trong tổ chức được lập nên để Huấn
Thánh cho người Việt Nam này mà thôi. Chỉ có ai biết “hạ
ḿnh xuống, vui chịu khinh chê giầy đạp, chịu dể duôi
bắt bớ”, theo tinh thần Bỏ Ḿnh, mới có thể Làm
Thánh, thay v́ bỏ ra, khi không được làm linh mục, làm
giáo sư dạy học mà thôi. Có thể nói, trên thực tế, theo
đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng Công với “Cha Thánh Thủ” và như
“Cha Thánh Thủ”, tu sĩ Đồng Công nào có được một tinh
thần Tận Hiến, theo chiều hướng Thánh trước hết và Thánh
trên hết, sẽ có được cả tinh thần Bỏ Ḿnh và Yêu Nhau.
Đó là lư do, trong chính cuộc sống của tu sĩ Đồng Công,
Cha Thủ c̣n muốn đào tạo đặc biệt một số anh em muốn nên
trọn lành hơn, bằng cách kêu gọi họ dấn thân tuyên hứa
sống đời Toàn Thiêu, theo những qui định do chính ngài
biên soạn được gọi là Luật Toàn Thiêu.
Cha Thủ – Linh Hướng Thánh
Đầu năm 1972, khi tôi đang ở Di Linh Lâm
Đồng Bảo Lộc, đầu tiên có phận sự vừa làm vườn ở đồn
điền Thiên Mẫu của nhà ḍng, sau đó được tạm nghỉ để lấy
giờ tự học thi tú tài hai. Sáng hôm đó, bất ngờ tôi được
tin Anh Cả muốn gặp tôi. Tôi đă lập tức đến gặp ngài
ngay. Không ngờ, đây là lần gặp gỡ quyết liệt nhất và
quan trọng nhất cho cuộc đời tu tŕ của tôi, cho cuộc
đời nên thánh của tôi, tác dụng của nó thậm chí c̣n ảnh
hưởng sâu đậm cho đến tận bây giờ và măi măi.
Tôi c̣n nhớ, cuộc gặp gỡ hôm ấy diễn ra,
khi mọi người đă đi làm công tác (ngoài vườn), hai cha
con chúng tôi, đúng hơn, nói theo tinh thần b́nh dân của
Ḍng Đồng Công, hai Anh em chúng tôi, đi dọc theo hành
lang hội trường, nối liên giữa nhà cơm và pḥng ngủ, một
tác động đi lại để nói chuyện với một “Đấng Thánh” như
Cha Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ bấy giờ, được tôi coi như
là một cuộc hành tŕnh Huấn Thánh, như cuộc hành tŕnh
của thành phần môn đệ về làng Emmau đang ở trong tâm
trạng bối rối, cần phải được Chúa Kitô Phục Sinh đồng
hành soi đường chỉ bước, trước khi có thể trở thành
chứng nhân cho Người giữa các vị tông đồ (x Lk
24:13-35). Chúa Kitô Phục Sinh đă tự động hiện ra với
hai môn đệ này thế nào, Cha Thủ cũng tự động đến với tôi
như thế, chứ không phải tôi xin gặp ngài như những lần
trước. Chúa Kitô Phục Sinh đă đến để làm cho các môn đệ
của Người cảm thấy ḷng họ nóng lên và cuối cùng nhận ra
Người thế nào, Cha Thủ cũng làm cho ḷng tôi trở nên
khác thường, và cuối cùng tôi đă thực sự gặp được Chúa
Kitô, với một cuộc đời hoàn toàn biến đổi như thế.
Đúng vậy, v́ hoàn toàn hết sức thương yêu
tôi, lo Huấn Thánh cho tôi, một cách tận t́nh, một cách
kỹ lưỡng, một người em ngài vốn thấy thật sự là ngay từ
khi nhập Thử Viện ở Nhà Đá B́nh Định Qui Nhơn vào mùa hè
năm 1966 đă tỏ ra hết sức hăng say nên thánh, chẳng
thiết ǵ cả, sẵn sàng xung phong làm tất cả những ǵ và
bất cứ những ǵ không ai chịu làm hay không ai dám làm,
một thái độ Cha Thủ cảm thấy như điều kiện tối cần nơi
thành phần muốn theo Chúa với ngài, muốn theo Lư Tưởng
Thánh Đồng Công như ngài, mà Cha Thủ đă gọi tôi tới và
hết sức nghiêm thẳng chưa từng thấy, trong việc vạch ra
cho tôi biết là tôi có 3 “tội”: tội thứ nhất là tội ham
học (tức phạm tới tinh thần Tận Hiến của ḍng), tội thứ
hai là tội chống đối (tức phạm tới tinh thần Bỏ Ḿnh của
ḍng), và tội thứ ba là tội nghĩa riêng (tức phạm tới
tinh thần Yêu Nhau của ḍng).
Thú thật, bấy giờ, tâm thần tôi hoàn toàn
như bị tẩu hỏa nhập ma, choáng váng, quay cuồng, như
trời rung đất sập. Bởi v́, tôi cảm thấy ḿnh hoàn toàn
bị oan. Chẳng có một tội nào trong ba tội này hết… Thế
là tôi nghẹn ngào không nói lên lời. Chỉ biết bật khóc.
Khóc nức nở. Khóc chưa từng thấy trong cuộc đời tu của
ḿnh. Tôi cảm thấy nhức nhối quá sức. Tôi cảm thấy tủi
nhục quá đi. Cả cuộc đời tu của ḿnh, cho tới bấy giờ,
tôi chỉ một ḷng theo Chúa, hết sức ham ước nên thánh,
lúc nào cũng sẵn sàng làm tất cả những ǵ Chúa muốn qua
bề trên, dù những điều ấy vượt khả năng của ḿnh, chấp
nhận tất cả những ǵ là thiệt tḥi nhất cho ḿnh, để đổi
lấy Lư Tưởng Thánh Đồng Công v.v. Thế mà giờ đây, vị
được tôi tin tưởng nhất, kính yêu nhất, cảm phục nhất,
cần nương tựa nhất, lại đẩy tôi ra, lại gán ghép cho tôi
những điều chẳng những tôi thật sự không có mà c̣n phạm
đến tôi nữa. Cách riêng vấn đề ham học, một việc chính
ngài bảo tôi học chứ tôi đâu có coi trọng và van xin
ngài cho đâu!
Cuối cùng, tôi đă lấy lại được b́nh tĩnh
và đă thưa với ngài trong nước mắt rằng: "Nếu Anh
không tin em, th́ em chỉ biết chứng minh bằng việc sẵn
sàng bỏ học ngay bây giờ". Theo chiều hướng Thánh
trước hết và Thánh trên hết, ngài đồng ư liền. C̣n về 2
tội kia, tôi cũng thành thật tŕnh bày với ngài là tôi
cảm thấy không có, và xin ngài cho tôi biết rơ vấn đề để
tôi có thể sửa ḿnh một cách cụ thể và đúng như ư của
ngài hơn. Về tội chống đối, ngài cho tôi biết rằng tôi
lập bè kéo cánh chống lại đội trưởng của tôi. Về tội
nghĩa riêng, ngài cho tôi biết là tôi yêu riêng một
người anh em trong đội, được ngài nêu tên đàng hoàng,
(lớn hơn tôi 2 tuổi). Sau khi nghe thêm những chi tiết
này của ngài, theo linh tính tự nhiên, tôi biết ngay
được ai là người đă “tâu” với ngài về tôi với 3 “tội” đồ
như thế. Thế nhưng, v́ Lư Tưởng Thánh Đồng Công, tôi
chấp nhận tất cả, chỉ chân thành minh oan cho ḿnh về
tội nghĩa riêng mà thôi, nên ngài đă tỏ ra thông cảm.
C̣n tội chống đối, với con người nhiệt thành đóng góp để
xây dựng đoàn thể của ḿnh, (nhóm anh em cùng khấn một
lần với nhau), tôi xin chấp nhận những nhận định bề
ngoài ấy của anh đội trưởng “nạn nhân”. Kết quả ngài đă
ra việc “đền tội” cho tôi như thế này: hằng ngày, sáng
đi làm vườn (tức không c̣n học thi tú tài II nữa), chiều
về tĩnh tâm một ḿnh (ở đâu đó tùy tôi), tối họp hành
trong đội không được phát biểu ǵ nữa (được nghe mà
không được nói).
Thế là thằng bé Gióp tôi bắt đầu đi vào
xóm nhỏ điêu tàn. Âm thầm sống những ngày đền tội. Không
ngờ, theo ư Chúa Quan Pḥng vô cùng mầu nhiệm, những
ngày đền tội ấy lại là những ngày thần tiên nhất cho
cuộc đời tu tŕ và sống đức tin của tôi. Chỉ một tháng
sau, tôi đột nhiên hiểu được một câu Phúc Âm rất quen
thuộc mà lại tưởng là tầm thường nhưng bấy giờ đă hiện
lên trong tâm trí tôi cả một linh đạo, cả một con đường
Nên Thánh, đó là câu: “Hăy chọn chỗ rốt bét” (Lk
14:10). Đây là câu Phúc Âm thứ hai đă thực sự làm biến
đổi hẳn cuộc đời của tôi. Câu thứ nhất là “được lời
lăi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi”
(Mt 16:26). Câu Phúc Âm thứ nhất này đang vang vào tai
tôi, khi tôi c̣n là một thiếu niên trung học, đă biết
yêu thương và đang ôm đủ thứ mộng của một con người trẻ
của thời bấy giờ, thậm chí c̣n là một thiếu niên tội lỗi
dâm ô, và chỉ sau khi nghe thấy câu ấy, từ lời giảng của
một vị linh mục trong Lễ Đêm Giáng Sinh ở sân trường Đức
Minh Tân Định Sài G̣n năm 1963, tôi đă cảm thấy mọi sự
thế gian là giả trá, là hư vô, kể cả t́nh yêu phái tính
đang lôi cuốn tôi bấy giờ, đến độ, tôi không thể cầm
ḷng được nữa, đă tâm sự thốt lên với hai người bạn thân
nhất của tôi đang tham dự Thánh Lễ bấy giờ rằng: “Tao
muốn đi tu ngay bây giờ!”.
Nếu câu Phúc Âm thứ nhất ấy đă hoàn toàn
biến đổi cuộc đời yêu cuồng sống vội của tôi, cuộc đời
hoàn toàn chẳng biết Chúa là ai, chẳng biết ḿnh là ǵ,
ngoài thiên đường trần thế, cuộc đời bỏ lễ Chúa Nhật
nhiều lần của tôi, lười lĩnh kinh hạt, bê tha tội lỗi
v.v. từ đó đă trở thành một thiếu niên tự động dậy sớm
đi lễ hằng ngày, âm thầm cầu nguyện trong ngày, cho đến
khi nhập Ḍng Đồng Công ngày 21/6/1964 thế nào, th́ câu
Phúc Âm thứ hai sau đó 9 năm, cũng biến đổi một con
người tu sĩ (sắp vĩnh thệ vào ngày 22/8/1973) của tôi
như vậy. Phải thú thật là khi mới vào tu Ḍng Đồng Công,
tôi rất ư là sốt sắng, đến độ không muốn nói chuyện với
ai, chỉ sợ chia trí không thể kết hợp với Chúa, kiểu kết
hợp khi c̣n là đệ tử bấy giờ tôi cứ nghĩ phải bằng trí
khôn hơn bằng ư muốn, cần phải giữ lặng mới làm được, và
đến độ ăn uống kham khổ hơn mọi người, cho tới khi biết
được là phải có phép giám đốc đệ tử mới được làm như
thế. Tôi luôn được vị giám đốc đệ tử này thường khuyên
bảo tôi cần phải sửa đổi một trong những điều chính yếu
là “hăy cố gắng sống ḥa ḿnh với mọi người, đừng lập
dị”.
Ngoài ra, v́ sốt sắng “quá” như vậy, dù
chưa được thực sự lên tới bậc tu đức tột đỉnh là “tầng
trời thứ ba” (2Cor 12:2) như Thánh Phaolô, tôi quả
thực cũng có “những ư nghĩ kiêu căng” (Lk 1:51),
không biết có giống như trường hợp của Vị Đại Tông Đồ
Dân Ngoại này hay chăng (x2Cor 12:5-10), chỉ biết rằng
tôi rất hay phán đoán xấu cho anh em tôi, khinh thường
những người không được sốt sắng như ḿnh. Cho đến khi,
phải, cho đến khi Chúa mở mắt tôi ra, trong thời gian
tôi ở Tập Viên năm 1966, bằng cách, Chúa để cho tôi cũng
bị anh em ḿnh xét đoán xấu lại đúng y như những ǵ tôi
đă đoán xét xấu cho họ. Từ đấy, tôi cảm thấy hết sức
thấm thía câu Phúc Âm “các con lấy đấu nào đong cho
ai th́ cũng bị đong lại cho đấu ấy” (Mt 7:2), để rồi
tôi không c̣n dám khinh khi một ai nữa, trái lại, rất
thông cảm với mỗi người và mọi người.
Tới giai đoạn tu đức này, giai đoạn từ
ḿnh vươn ra với tha nhân như thế, Chúa c̣n kéo tôi gần
đến ngài nữa, khi tôi cảm thấy rằng chính lúc tôi làm
bậy, ở những tác động phán đoán xấu xa và khinh thường
anh em ḿnh như thế, Chúa vô cùng nhân từ chẳng những
không phạt tôi, lại c̣n thương tôi, làm lành thánh hóa
tôi nữa, đúng hơn, phải nói rằng Ngài đă phạt tôi (khi
để tôi bị xét đoán xấu lại và bị anh em xa cách), nhưng
chính cái phạt ấy lại là tác động yêu thương nhân ái của
Ngài, nhờ đó, chính từ cái xấu của ḿnh, tôi biết ḿnh
hơn, biết người hơn và biết Chúa hơn. Đó là cảm nghiệm
thần linh thứ hai tôi có được trong cuộc đời nên thánh
của ḿnh, cảm nghiệm chẳng những về mối liên hệ hiệp
thông giữa tôi với Chúa cùng tha nhân, mà c̣n về T́nh
Yêu Thiên Chúa có thể biến đổi mọi sự dữ do con người
làm ra để biến thành sự lành cho họ.
Thế là, trong tiến tŕnh nên thánh của
ḿnh, theo sự dẫn dắt của Thần Linh, tôi đă đi từ cảm
nghiệm thần linh thứ nhất “được lợi lăi cả thế gian
mà mất linh hồn nào được ích chi”, liên quan đến
việc từ bỏ thế gian mà theo Chúa, sang đến cảm nghiệm
thần linh thứ hai, liên quan tới việc sống với Chúa và
tha nhân, đến cảm nghiệm thần linh thứ ba “hăy chọn
chỗ rốt bét mà ngồi”, liên quan đến việc phó thác
cậy trông, tức là đừng bao giờ tự động t́m cách
đưa ḿnh lên, dù là những ǵ thực sự rất hợp với Ư Chúa,
như trường hợp của hai nguyên tổ muốn tự động lên
bằng Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa (x Gen 3:1-7),
Đấng quả thực muốn họ nên trọn lành như Ngài (x Mt
5:48), một việc mà chỉ có Ngài mới có thể làm được cho
con người và nơi từng người vào thời điểm của Ngài, trái
lại, cứ sống trọn “thân phận thấp hèn tôi tớ” (Lk
1:48) của ḿnh, như Mẹ Maria, c̣n việc được “mời lên
chỗ trọng vọng hơn” (Lk 14:10) là việc của Chúa chứ
không phải của ḿnh. Tôi đâu ngờ cảm nghiệm thần linh
thứ ba này là cảm nghiệm Chúa sửa soạn cho tôi trước khi
Ngài muốn sử dụng tôi, muốn sai tôi đi làm việc cho
Ngài, trước khi Ngài mời tôi lên chỗ cao hơn, để sau đó,
cho dù có ở chỗ được mời lên cao hơn như vậy, tôi cũng
không thể vênh vang tự đắc với ai, mà vẫn cứ sống ở “chỗ
rốt bét của ḿnh” là ḷng khiêm nhượng và “đức
tin tuân phục” (Rm 1:5).
Đúng thế, chỉ sau hai tháng sống đời tu
tŕ đền tội hết sức là thần tiên như vậy, đột nhiên, tôi
được “con người tội lỗi nhất” là Anh QP gọi tôi là người
em đang trong thời gian “đền tội” vô hạn định, tới pḥng
riêng của ngài vào buổi chiều hôm ấy. Không phải là để
thẳng thắn nói lời tha án cho tôi, nhưng qua những ǵ
ngài quyết định, gián tiếp ngài đă công nhận là thời kỳ
đền tội của tôi đă xong, tôi thực sự không phải là kẻ
ham học như ngài ra phán quyết. Bấy giờ, sau giây phút
trầm ngâm, ngài nh́n tôi mà nói: “Anh muốn sai em đi
giúp tiểu chủng viện Simon Ḥa Đà Lạt!” Lại một cơn
bàng hoàng sửng sốt đến tột độ khác đến với tôi. Lần này
không phải là một cơn chấn động lở đất như lần trước,
liên quan tới buổi gặp gỡ “kết tội” và xử án tôi, mà là
một cơn sấm sét long trời, liên quan tới một sứ vụ từ
trời, hoàn toàn vượt khả năng và ước tưởng của tôi. Ở
chỗ, tôi đang mắc đủ thứ tội phản với các tinh thần
chính yếu của nhà ḍng, mà nay lại là người được sai đi
mang chuông đánh nước người. Vả lại, tôi cũng chẳng có
đủ bằng cấp và khả năng kiến thức để vào giúp một tiểu
chủng viện là nơi đào tạo mầm non linh mục cho Giáo Hội,
trong khi đó nhiều anh em trong ḍng đang dạy ở các
trường trung tiểu học Đồng Công các nơi, đang dạy ở
chính Đệ Tử Viện Đồng Công, nhất là đang theo học ở ngay
Đại Học Thụ Nhân Đà Lạt, hoặc đang coi sinh viên ở Cư Xá
Rạng Đông Đà Lạt gần tiểu chủng viện này.
Đó là lư do, lần đầu tiên trong đời tu,
tôi đă, không phải là chối từ lệnh của bề trên, mà là
theo chiều hướng “việc ấy thành sự sao được” (Lk
1:34), như Mẹ Maria đă thân thưa với Tổng Thần Gabiên
trong ngày Truyền Tin Lời Nhập Thể, lên tiếng với ngài
rằng: “Thưa Anh, làm sao em có thể làm được việc này.
Như Anh biết, chính bản thân em c̣n lo chưa xong, mà nay
lại đi giúp người khác, th́ làm sao em có thể chu toàn
trách vụ nghiêm trọng này nổi? Vả lại, ngoài vấn đề tư
cách, cả đến khả năng tự nhiên em cũng không đủ bằng
cấp. C̣n nhiều anh em khác xứng đáng hơn em…” – “Em
cứ đi, đă có Chúa giúp. Thực sự đă có nhiều anh em cản
anh làm điều này. Nhưng em yên tâm. Cứ tin tưởng. Chúa
sẽ làm việc nơi em!” Trước lời khẳng định cương
quyết đầy tin tưởng của ngài, tôi cảm thấy được hoàn
toàn hồi sinh, như trường hợp các tông đồ được Chúa Kitô
Phục Sinh thổi hơi mà nói: “B́nh an cho các con. Như
Cha đă sai Thày thế nào, Thày cũng sai các con như vậy.
Các con hăy nhận lấy Thánh Thần” (Jn 20:21-22).
Thế nhưng, dù có được mời lên chỗ trọng
vọng hơn, ngon lành hơn, thực sự là ngoài ư muốn và khả
năng của ḿnh như thế, tôi vẫn có thể “chọn chỗ rốt
bét mà ngồi”, thậm chí vẫn phải tiếp tục “chọn
chỗ rốt bét mà ngồi”, khi hoàn toàn khiêm nhượng và
tin tưởng thưa tiếng “xin vâng” (Lk 1:38) như Mẹ
Maria. Tuy nhiên, sau cuộc gặp gỡ ấy, tôi vẫn tiếp tục
những tháng ngày thần tiên cầu nguyện như 2 tháng qua,
để dọn ḿnh cho một cuộc lên đường phục vụ đầu tiên
trong cuộc đời tu suốt đời đă từng làm đủ mọi thứ chuyện
được cho là thường hèn trong nhà ḍng. Một hôm, tôi đă
xin gặp ngài, để xin ngài một đặc ân, gọi là làm hành
trang lên đường, chẳng những cho công cuộc tông đồ đại
diện nhà ḍng, đáp ứng lời yêu cầu của Đức Cha Simon Ḥa
Nguyễn Văn Hiền đă xin Cha Bề Trên Thủ cho các thày đến
giúp, (như năm 1968 ḍng đă sai thày Giáo làm việc này),
mà c̣n cho cả cuộc đời theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng
Công của tôi nữa. Ngài đă nhận lời soạn một bản Luật
Sống Bé Nhỏ như tôi xin, được ngài kư ngày 8/7/1972, một
bản văn rất quí, với chữ viết tay của ngài, (song trước
khi hoàn tục “vào đời” năm 1982, tôi đă để lại bản chính
cho Chi Ḍng Đồng Công Hoa Kỳ cất giữ một cách xứng
đáng), một bản văn tôi đă phổ biến trong tác phẩm “Trở
Nên Như Trẻ Nhỏ” của tôi (Cao-Bùi, 1994, trang
219-224).
Trong thời gian tiền biến cố sai đi này,
câu Phúc Âm đă làm tôi thấm thía cảm nghiệm thần linh về
thân phận của tôi bấy giờ, mới chỉ làm cho tâm trí tôi
luẩn quẩn với tác động “chọn” lựa của tôi mà thôi, tức
là việc tự tôi, ở mọi nơi và trong mọi lúc, cũng như
trong mọi sự, phải làm sao để “chọn chỗ rốt bét mà
ngồi”, t́m chỗ thấp nhất mà ở. Thế nhưng, sau biến cố
sai đi, trong giây phút tiếp tục âm thầm nguyện cầu
trước nhan Chúa, cả tháng trời nữa, (tổng cộng trước sau
thời gian tương đương với 3 tháng Hè Nội Tâm, 3 tháng
như bế quan để khổ luyện Bí Quyết Phúc Âm), tôi mới thấm
thía hơn nữa ư nghĩa sâu xa của lời khuyên có vẻ rất đơn
sơ giản dị ấy của Chúa Giêsu. Thật thế, chính sau khi
được thấm thía rồi, đọc lại Phúc Âm, tôi mới vỡ lẽ ra
rằng Chúa Giêsu không bảo “hăy chọn chỗ cuối rốt
mà ngồi”, mà là “hăy đến mà ngồi vào chỗ cuối
rốt”. Chính Chúa Giêsu đă khẳng định nguyên tắc tu đức
này, khi phán: “Không phải các con chọn Thày mà là
Thày đă kén chọn các con và sai các con đi sinh hoa kết
trái” (Jn 15:16). Tức là tôi phải ngồi vào chỗ không
phải do tôi chọn, cho bằng đă được giành sẵn cho tôi
theo Ư Chúa, một chỗ “cuối rốt” đến nỗi theo tự nhiên
tôi không thể nào thấy được nó, mà phải có đức tin mới
thấy được, thậm chí mới chấp nhận được sau khi đă thấy
nó, v́ chỗ ấy đầy khổ đau hơn là vinh quang, hay đúng
hơn là một chỗ vinh quang đầy đau khổ (x Jn
12:23-24,27), chỗ được Chúa Giêsu nói với các tông đồ là
Ngài phải đi dọn cho các vị (x Jn 14:3), bằng không muôn
đời các vị không thể nào tới được (x Jn 13:33), nhờ đó,
Người ở đâu các vị cũng mới có thể ở đó với Người (x Jn
14:3 đối chiếu với Rev 14:4), chứ không phải như đă phũ
phàng xẩy ra khi Người bị bắt giải đi từ Vườn Cây Dầu
th́ bấy giờ “tất cả đă bỏ Người mà tẩu thoát” (Mk
14:50).
Đó là lư do tôi đă luôn tâm niệm “đến
mà ngồi ở chỗ rốt bét” theo chiều hướng này chính là
luôn sống tinh tuyền khiêm nhượng bằng một đức tin tuân
phục như đệ nhất tạo vật Đầy Ơn Phúc Maria! Từ đó, khẩu
hiệu Sống Thánh của tôi là câu Phúc Âm “hăy hoán cải
và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3). Và để cho dễ nhớ
và luôn nhắc nhở ḿnh, chẳng những về cảm nghiệm thần
linh tôi có được trong thời gian “đền tội” đầy thần
tiên ấy, mà c̣n về linh đạo duy nhất có thể đến với Chúa
và theo Chúa này, tôi đă bắt đầu lấy biệt hiệu được kèm
theo tên thật của tôi, đó là 3 chữ tắt BVL (tức Bá Vũ
Ly, phiên âm từ chữ Latinh - Parvuli là Trẻ Nhỏ). Chính
v́ vẫn tiếp tục “đến mà ngồi vào chỗ cuối rốt”
của ḿnh, chỗ Thiên Chúa chọn cho tôi, chứ không phải
chỗ tôi tự chọn, mà cả đang khi, nhất là sau khi hoàn
tất một thứ “mission impossible” này, tôi đă được một
cảm nghiệm thần linh thứ năm, đó là cảm nghiệm thấy rằng
nếu thực sự là việc của Chúa th́ Chúa sẽ làm công việc
của Ngài trong tôi, và Chúa thánh hóa tôi ngay khi tôi
làm việc của Ngài và cho Ngài. Bởi vậy, làm việc của
Chúa, cho dù phải có máu tử đạo mới làm nổi, nhưng cũng
chính v́ nhờ máu tử đạo ấy mà tôi không bao giờ sợ lỗ và
bị lỗ, nếu tôi luôn biết “đến mà ngồi vào chỗ cuối
rốt”, chỗ của hạt lúa miến bị mục nát đi trong ḷng
đất (x Jn 12:24-25), do đó, thành công hay thất bại, đối
với tôi, trước hết và trên hết, là ở chỗ tôi có hết sức
nỗ lực hoàn thành Ư Chúa hay chăng, hơn là v́ tôi được
thế gian khen tặng hay chê trách!
Cha Thủ: Ảnh Hưởng Thánh
Hai năm phục vụ tiểu chủng viện Simon Ḥa
Đà Lạt (1972-1974), phải công nhận là cuộc đời tu tŕ
phục vụ của tôi chưa bao giờ cảm thấy vất vả như vậy,
chưa bao giờ cảm thấy mệt mă như thế, với vai tṛ kiêm
đủ thứ của tôi, nào là dạy học việt văn và sử địa (10
tiếng 1 tuần, chưa kể giờ dọn bài và chấm bài, hay đôi
khi dạy học thế cho người anh em cùng ḍng với ḿnh bận
trở việc học chính của họ) cho chủng sinh thuộc các lớp
trung học đệ nhất cấp (6-8), phụ giúp cha hiệu trưởng
Trần Văn Nhượng và giám học Vương Văn Điền; nào là làm
giám thị đệ lục coi học các lớp nhỏ (6-8), vào ban chiều
(chưa kể giờ chơi đá banh với chủng sinh sau giờ học
chiều và vui chơi tự do
với chủng sinh sau giờ cơm tối), phụ giúp cha giám thị
chính Nguyễn Hữu Duyên; nào là mua bán đồ cho chủng
sinh, nhất là bán đồ sau bữa trưa, phụ giúp cha quản lư
Nguyễn Văn Tính; nào là đặc trách cứu thương, lo đủ thứ
nhu cầu về y tế cho chủng sinh, từ việc phát thuốc cho
chủng sinh thường vào ban sáng sau điểm tâm, chở các
bệnh nhân đi khám bệnh bất cứ lúc nào cần, liên lạc với
nhà bếp lo nấu nướng riêng cho các chủng sinh bị bệnh,
bê cơm bê cháo cho họ v.v.
Vẫn biết trong thời gian này, mỗi năm tôi
có một người anh em ḍng cùng ở với tôi, nhưng không
phải để chia sẻ các việc phục vụ chủng viện với tôi, cho
bằng để giữ tinh thần cho tôi, nên các anh ấy, (Trần
Long Chu thuộc lớp khấn VIII năm 1972-1973, và Nguyễn
Mạnh Thư cùng lớp khấn IX năm 1973-1974), chỉ dạy học
part time một số giờ tượng trưng, ngoài ra, phận sự
chính của hai anh là theo học ở Đại Học Thụ Nhân Đà Lạt.
Thế nhưng, chính trong thời gian phục vụ này, tôi đă cảm
nghiệm thấm thía câu Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong
Bữa Tiệc Ly: “Các con sẽ cảm thấy sầu thương trong
một thời gian, song nỗi sầu thương của các con sẽ trở
thành niềm vui” (Jn 16:20), niềm vui không phải chỉ
ở chỗ được các chủng sinh hết sức quí mến, được các cha
hết lời khen tặng v.v., mà nhất là ở chỗ cảm thấy ḿnh
thật sự chỉ là “một người đầy tớ vô ích” (Lk
17:10), “vô ích” ở chỗ thật sự cảm thấy ḿnh chẳng làm
ǵ “hữu ích” nếu không có Ngài, và “vô ích” ở chỗ hết
sức cố gắng làm sao để không bao giờ dám cậy ḿnh và
vênh vang tự đắc, trái lại, liên lỉ tin tưởng vào Ngài
và hết ḿnh phục vụ chủng sinh, để Ngài nhờ đó có thể
làm tất cả những ǵ “hữu ích” như Ngài muốn qua tôi, và
cũng nhờ đó, “hữu ích” cho cả chính tôi, khi tôi được
Ngài biến thành một cành nho sinh hoa trái (x Jn
15:2,4), cho những tâm hồn trẻ được Ngài gọi theo Ngài
trên con đường trở thành linh mục của Ngài từ tiểu chủng
viện Simon Ḥa Đà Lạt. Như thế, "chỗ rốt bét" mà tôi
phải "đến mà ngồi" đây chính yếu là và thực sự là cảm
thức "vô ích" của ḿnh trước nhan Chúa!
Thành quả của việc hoạt động tông đồ đầu
đời tu tŕ của tôi qua 2 năm ở Tiểu Chủng Viện Simon Ḥa
Đà Lạt, chẳng những trước hết ở trong nội tâm của tôi, ở
nơi mối liên hệ càng trở nên thân mật hơn giữa tôi với
Thiên Chúa, mà c̣n nơi mối liên hệ rất tốt đẹp giữa
riêng cá nhân tôi với những người tôi được làm việc với
và phục vụ trong môi trường tiểu chủng viện ấy, cũng như
giữa chung nhà ḍng với Giáo Phận Đà Lạt. Để rồi, không
biết có phải là phần thưởng cho thành quả của 2 năm phục
vụ này hay chăng, tôi lại được mời lên chỗ trọng vọng
hơn một lần nữa, ngoài dự tưởng của ḿnh, khi được bề
trên chính thức tuyển chọn vào số đi học làm linh mục, ở
vào tuổi b́nh thường đă làm linh mục nếu đi tu triều.
Tuy nhiên, tôi chưa học được một chữ Latinh nào ở Lương
Sơn Phan Rí, nơi tôi được chỉ định tiếp tục nghề dạy học
của ḿnh từ Tiểu Chủng Viện Simon Ḥa Đà Lạt, với vị
thày Latinh của rất nhiều linh mục trong nhà ḍng, đó là
dịch giả mang biệt danh Phạm Duy Lễ, một tên tuổi đi
liền với nhiều tác phẩm dịch thuật nổi tiếng, trong đó
có bộ sách "Vinh Quang Mẹ Maria" của Thánh Anphongsô.
Sau đó, tôi được chuyển ra dạy học ở Nhà
Đá, Phù Mỹ, B́nh Định, Qui Nhơn, vào tháng 10/1974, nơi
mà cuối cùng tôi đă được lệnh giải nghệ dạy học để chỉ
chuyên trách việc phục vụ bếp rác nấu nướng cho anh em
thôi..., cho tới khi tất cả anh em phục vụ ở đây di tản
về Thủ Đức, đúng hôm Thứ Năm Tuần Thánh vào cuối tháng
3/1975. Trong số 170 anh em Đồng Công lên đường xuất
ngoại vào tháng tư đen 1975, có 12 người đă xong thần
học (và trở thành 12 vị linh mục Việt Nam đầu tiên ở Hoa
Kỳ năm 1977), 7 người xong triết học (về sau có hai linh
mục trong số này làm Giám Tỉnh của Chi Ḍng), và một số
được tuyển chọn học làm linh mục, trong đó có tôi (người
sang Mỹ đă học 2 năm triết ở Chủng Viện Conception ở
Missouri 1976-1978, rồi được bề trên gọi về phục vụ
nhiều lănh vực kinh doanh khác nhau của Chi Ḍng, như
làm quản lư Trại Heo ở Ash Grove Missouri 1978-1980,
thành lập và làm quản lư Sao-Mai Printing ở Houston
Texas 10 tháng đầu năm 1980, và làm quản lư Nguyệt San
Trái Tim Đức Mẹ 1980-1982... cho tới khi hoàn tục).
Đúng vậy, tất cả những thành quả tôi có
được qua hoạt động tông đồ lần đầu tiên trong đời tu ở
Tiểu Chủng Viện Simon Ḥa Đà Lạt ấy, là do niềm tin
tưởng của Cha Thánh Thủ trong việc sai tôi đi, như chính
niềm tin của ngài đă làm nên cuộc lên đường và định cư
của nhóm anh em Đồng Công theo lệnh của ngài xuất ngoại
“để giữ lấy ḍng và truyền giáo” vậy. Cho đến nay, mặc
dù không chính thức thuộc về thành phần c̣n sống trong
ḍng đi nữa, (v́ những lư do riêng, hoàn toàn không liên
quan ǵ tới tinh thần ḍng, mà chỉ tới những dấu hiệu
bất thường trong tâm hồn và đời sống, những dấu hiệu đă
được tôi chân thành tŕnh bày với Cha Thủ lần đầu tiên
gặp ngài năm 1966, và cuối cùng tŕnh bày với vị bề trên
thẩm quyền Chi Ḍng năm 1982 bấy giờ để biết được đâu là
Ư Chúa, và hoàn toàn sẵn sàng chấp nhận quyết định của
vị bề trên này cho dù có thế nào đi nữa, có không xuất
đi nữa), nhưng Lư Tưởng Thánh Đồng Công vẫn tồn tại nơi
tôi, và niềm tin tưởng của vị Linh Hướng tận t́nh dẫn
dắt tôi theo đuổi lư tưởng này vẫn tiếp tục sinh hoa
trái nơi tôi, nhất là qua những việc tông đồ giáo dân
tôi đang theo đuổi và phục vụ, những việc tông đồ tôi
sâu xa cảm nhận tôi không thể nào có thể dấn thân và làm
được, nếu không có Ảnh Hưởng Thánh từ Cha Thủ, đó là
Phong Trào Thiếu Nhi Fatima ở Tổng Giáo Phận Los Angeles
từ năm 1991, Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống từ
năm 2000, và Mạng Điện Toán Toàn Cầu Thời Điểm Maria từ
năm 2001.
Trước hết là Phong Trào Thiếu Nhi Fatima
TGP/LA, một phong trào khi tôi vừa nhào vô, chưa hề biết
ǵ về phong trào này, ngoài trừ thấy được thực sự “dấu
chỉ thời đại” Chúa muốn tôi nhập cuộc, tôi đă được
tín nhiệm tuyển bầu vào vai tṛ lănh đạo, cho dù bấy giờ
tuổi đời đă quá downhill. Theo đường hướng Thánh trước
hết và Thánh trên hết của Cha Thủ, và theo kinh nghiệm
b́nh dân phục vụ giới trẻ ở Tiểu Chủng Viện Simon Ḥa,
tôi đă đến với giới trẻ bằng t́nh yêu thương và cảm
thông, một thứ ngôn ngữ (yêu thương cảm thông) phổ quát
đại đồng ai cũng hiểu được và dễ dàng đối thoại, nhất là
thành phần đang ở vào lứa tuổi khát khao yêu thương và
nồng nàn yêu thương. Qua cửa ngơ yêu thương này, người
tông đồ giới trẻ mới có thể dễ dàng tiến vào ḷng giới
trẻ, mới làm cho họ tin tưởng, cảm mến, lắng nghe, và
sống theo những ǵ giới trẻ đang t́m kiếm là chân thiện
mỹ. Đóng vai tṛ của tiền hô Gioan Tẩy Giả, người tông
đồ giới trẻ phải làm sao để tự ḿnh nhận ra Chúa Kitô,
nhờ đó có thể đích xác và có thần lực thúc giới trẻ t́m
đến với Chúa Giêsu, Đấng duy nhất có thể đáp ứng tất cả
mọi khắc khoải và khát vọng mănh liệt của họ, để rồi
chính họ sẽ tự động rủ nhau đến với Người, như trường
hợp của Anrê và Philiphê với Simon và Nathanaen (x Jn
1:35-51). Tất cả những ǵ liên quan tới cảm nghiệm về
việc phục vụ giới trẻ và chất liệu phục vụ giới trẻ, tôi
đă chia sẻ và phổ biến trong các tác phẩm “Tông Đồ Giới
Trẻ” (12/1996), “Giới Trẻ Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”
(12/1996), “Đường Thánh Giá Giới Trẻ” (3/1998), và “Giới
Trẻ của Ngàn Năm Thứ Ba” (11/1999), chưa kể đến 2 cuốn
khác cho riêng Phong Trào Thiếu Nhi Fatima.
Đó là lư do, tôi đă cố gắng giúp cho giới
trẻ Thiếu Nhi Fatima, qua các Khóa Tĩnh Huấn Fatima hằng
năm, thường vào dịp cuối tuần Lễ Thanksgiving, sống theo
gương của 3 Thiếu Nhi Fatima tiên khởi là Lucia,
Phanxicô và Giaxinta, một nhóm 3 Thiếu Nhi Fatima, mới
từ 7 đến 10 tuổi, đă dám và có thể bỏ đi cả những ǵ vui
chơi lành mạnh nhất của ḿnh để sống ơn gọi Fatima là “chấp
nhận mọi đau khổ, mà đền tạ Chúa và cầu cho tội nhân ăn
năn cải thiện đời sống”. Nhờ tinh thần "vâng lời
trọng hơn của lễ" (1Sam 15:22), điều tâm niệm thứ 7
trong 10 Điều Tâm Niệm của Phong Trào Thiếu Nhi Fatima,
điều tâm niệm phản ảnh tinh thần Tận Hiến của Ḍng Đồng
Công, kết quả từ các khóa Tĩnh Huấn liên tục hằng năm
(1992-2006) cho thấy, chính giới trẻ hiện đại, tiêu biểu
nơi nhóm Thiếu Nhi Fatima nhỏ bé tôi được phục vụ, đối
với tôi, có thể nói thực sự trở thành “niềm hy vọng
của Giáo Hội”, đúng như những ǵ Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II ngỏ cùng họ vào Chúa Nhật 22/10/1979, trong
Thánh Lễ Đăng Quang của ngài, đến nỗi, tôi vẫn hay lập
đi lập lại với họ vào các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng từ năm
1992 rằng:
“Các em hơn tôi nhiều lắm. Hăy cố giữ
lấy ơn Chúa ban. Ở vào tuổi của các em đầu thập niên
1960, và ở Việt Nam bấy giờ không được văn minh như ở Mỹ
quốc hiện nay, thế mà tôi c̣n sống bê bối, chẳng biết
đạo nghĩa là ǵ, trong khi các em đang sống trong một
thế giới văn minh đầy tiện nghi vật chất, được tự do bay
nhẩy, sẵn đủ thứ để enjoy life, lại thức dậy sớm, mặc
đồng phục, đón chở nhau đến với Ngày của Đức Mẹ hằng
tháng, để cầu Kinh Mân Côi, đền tạ Chúa-Mẹ, học hỏi đạo
đức, dự Thánh Lễ, ăn trưa, rồi đi về, chẳng có ǵ vui
chơi hào hứng. Sự hiện diện của các em mỗi Ngày Thứ Bảy
Đầu Tháng ở chung Liên Đoàn, và Thứ Bảy hằng tuần ở mỗi
Đoàn, là một bài giảng hùng hồn đánh động cho tôi nhất
đấy, là gương mẫu rất sống động cho tên ‘lăo nhi’ Fatima
này!”
Phải chăng chính nhờ "đâm rễ" vào đời
sống đạo đức hơn là sinh hoạt này, thà làm một hạt cải
nhỏ bé c̣n hơn cây vả xum xuê lại bị Chúa nguyền rủa v́
không sinh hoa kết trái (x Mt 13:31; Mk 11:13-14), nhất
là nhờ bị cắt tỉa như cành nho sinh trái cho càng sinh
trái hơn (x Jn 15:2), qua thân phận từ 6 Đoàn vào năm
1990 c̣n 4 Đoàn vào năm 2006, mà giới trẻ Thiếu Nhi
Fatima, dù ít về nhân số và hạn hẹp trong nguyên Tổng
Giáo Phận Los Angeles, đă thật sự "vươn cao", chẳng
những ở các hoạt động bác ái xă hội, như thực hiện việc
tặng quà Giáng Sinh cho đủ thứ người bất hạnh vào Thứ
Bảy Đầu Tháng 12, đầu Mùa Vọng hằng năm, cũng là dịp
mừng quan thày Mẹ Vô Nhiễm của Liên Đoàn, hay ở việc
thành phần huynh trưởng chịu đựng tất cả mọi thách đố cả
trong lẫn ngoài để tiếp tục hăng say nhiệt thành phục vụ
các em Thiếu Nhi Fatima trong Phong Trào, nhất là ở việc
các huynh trưởng theo nhau dâng ḿnh cho Chúa trong đời
sống tu sĩ hay linh mục: với thành quả sau 22 năm thành
lập, 1984-2006, Thiếu Nhi Fatima đă có được 1 Linh Mục
(Ḍng Ngôi Lời chịu chức ngày 27/5/2006), 4 Đại Chủng
Sinh (2 sẽ chịu chức linh mục vào mùa hè 2008, và 2 vào
năm 2011), 1 Thày Ḍng vĩnh thệ (trong Ḍng Đồng Công)
và 2 Nữ Tu vĩnh thệ (1 trong Ḍng Kín Carmêlô ở Alhambra
TGP/LA, và 1 trong Ḍng Trinh Vương ở Lincoln Nebraska).
Về Chương Tŕnh Phát Thanh Tin Mừng Sự
Sống, được bắt đầu từ Chúa Nhật 17/9/2000, gần dịp Lễ Mẹ
Đồng Công (15/9), do một số anh (chị) em thân hữu Đồng
Công ở Nam California chủ trương và thực hiện, trên làn
sóng 106.3 FM vào mỗi tối Thứ Sáu hằng tuần, từ 9 đến 9
giờ 30. Hai năm rưỡi đầu, mỗi tuần chi phí phát thanh
lên tới 400 Mỹ kim, cho cả ở California, và cho trên 15
tiểu bang ngoài California qua Đài Tiếng Nói Việt Nam
Hải Ngoại ở Washington D.C. Từ đó tới nay, chỉ nguyên ở
những vùng nghe được tần số 106.3, bao gồm Orange
County, Los Angeles County, Riverside County và San
Bernadino County, với chi phí 300 Mỹ kim cho nửa tiếng
phát thanh mỗi tuần vào thời điểm "hot" trong ngày như
vậy.
Riêng về phần nội dung, chương tŕnh phát
thanh Tin Mừng Sự Sống cũng hoàn toàn mang dấu vết Đồng
Công. Nếu nội dung của mỗi buổi phát thanh Tin Mừng Sự
Sống, ngay từ đầu và liên tục cho tới nay không hề thay
đổi, hoàn toàn trung thực phản ảnh danh xưng Tin Mừng Sự
Sống, bao gồm 3 phần thứ tự là Phụng Vụ Lời Chúa (liên
quan tới Mạc Khải Thần Linh), Giáo Hội Hiện Thế (liên
quan tới Tác Động Thần Linh trong việc canh tân bộ mặt
trái đất nơi hoạt động và giáo huấn của Giáo Hội), và
Sống Thánh Chứng Nhân (liên quan tới Đức Tin Tuân Phục,
trong việc đáp ứng Mạc Khải Thần Linh và Tác Động Thần
Linh), th́ ba phần này cũng cho thấy 3 ḷng tôn sùng đặc
biệt của Ḍng Đồng Công: Phụng Vụ Lời Chúa liên quan tới
ḷng Tôn Sùng Thánh Thể, Giáo Hội Hiện Thế liên quan tới
ḷng Tôn Sùng Đức Thánh Cha, và Sống Thánh Chứng Nhân
liên quan tới ḷng Tôn Sùng Thánh Mẫu (theo tinh thần
Tận Hiến của một người Tôi Tớ Xin Vâng như Mẹ).
Tuy nhiên, vấn đề phát thanh không phải
chỉ có phần nội dung là bài vở, và kỹ thuật là máy móc,
mà c̣n cả vấn đề tài chính nữa, một yếu tố mà nếu không
có, hay không c̣n, th́ kể như dù có tưng bừng khai
trương cuối cùng cũng âm thầm dẹp tiệm thôi. Tuy nhiên,
để có đủ tài chính cho việc loan truyền Tin Mừng Sự Sống
hằng tuần như thế không phải là chuyện dễ. Nào là thực
hiện việc quyên tiền, bằng cách gửi thư đến những địa
chỉ quen biết một năm 2 lần, một vào Tháng Chín, dịp kỷ
niệm biến cố phát thanh hằng năm 17/9, và một vào Tháng
Ba, dịp mừng Quan Thày của Tin Mừng Sự Sống là Lễ Mẹ
Thai Lời 25/3. Nhất là việc gây quĩ hằng năm ở Ngày
Thánh Mẫu Missouri. Năm 2002, Tin Mừng Sự Sống đă gây
quĩ 2 lần, một lần tại Hội Chợ Xuân ở khu Tiểu Sài G̣n,
và một lần tại Ngày Thánh Mẫu ở Carthage Missouri, cả
hai lần cộng lại chưa tới 2 ngàn Mỹ kim, trong khi đó
Tin Mừng Sự Sống chi cho năm 2002 là 20.800 ngàn Mỹ kim.
Năm 2006, Tin Mừng Sự Sống gây quĩ ở Missouri, kiếm được
chưa đầy 1 ngàn Mỹ kim, trong khi đó chi phí cho năm
2006 là 14.500 Mỹ kim. Tiền ở đâu ra? Xin trở lại vấn đề
của “Cha Thánh Thủ” – ngài lấy tiền đâu ra để chẳng
những nuôi anh em trong ḍng mà c̣n có cả tiền để hoạt
động tông đồ truyền giáo nữa, nếu không phải là ngài đă
làm hết sức ḿnh, nhất là đă t́m Nước Chúa và Thánh
Thiện trước, nên mọi sự khác đă được ban cho sau? Phải
thú thật là, khi c̣n ở trong ḍng, tôi không hiểu được
vấn đề bí mật này nơi người Anh Cả của tôi, cho tới khi
tôi dấn thân vào việc loan truyền Tin Mừng Sự Sống (www.tinmungsusong.org )
bằng phương tiện truyền thanh đây!
Về mạng điện toán toàn cầu Thời Điểm
Maria (www.thoidiemmaria.net )
nếu ai để ư, cũng thấy dấu vết Cha Thủ và Đồng Công nơi
tôi. Mạng điện toán toàn cầu này, với sự trợ giúp đặc
biệt của 2 huynh trưởng Thiếu Nhi Fatima, một lo về h́nh
thức và một lo về kỹ thuật, được ra mắt từ ngày
8/12/2001, và ngay từ đầu, nội dung đă bao gồm ba phần
chính: Giáo Hội, Thánh Mẫu và Thánh Thể, liên quan tới
thứ tự 3 thần đức, Tin tưởng Giáo Hội, Cậy nhờ
Thánh Mẫu và Mến yêu Thánh Thể. Ba chủ đề này
cũng phản ảnh 3 ḷng tôn sùng đặc biệt của Ḍng Đồng
Công được ấn định trong Tục Lệ ḍng, đó là ḷng tôn sùng
Mẹ Maria, tôn sùng Thánh Thể và tôn sùng Đức Thánh Cha.
Nếu chú ư sẽ thấy 3 ḷng tôn sùng này
hoàn toàn ăn khớp với 3 tinh thần Ḍng. Ḷng tôn sùng Mẹ
Maria liên quan tới tinh thần Tận Hiến, bởi đó bắt đầu
vào Tập Viện, tu sĩ tương lai của ḍng phải tận hiến cho
Mẹ Maria, và trong năm tập phải đặc biệt học hỏi tác
phẩm "Luận về Ḷng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria” của
Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort). Ḷng tôn sùng
Thánh Thể liên quan tới tinh thần Yêu Thương bác ái của
ḍng, một tinh thần Yêu Nhau được Cha Thủ rất chú trọng,
đến nỗi, mở màn cho một ngày sống (sau giờ ở lặng ngặt
qua đêm và thiêng liêng ban sáng) của tu sĩ Đồng Công là
bài Ca Vịnh Ubi Caritas – Đâu Có T́nh Yêu Thương, và tội
trầm trọng nhất tu sĩ Đồng Công vi phạm là tội lỗi đức
bác ái với nhau. Và ḷng tôn sùng Đức Thánh Cha, có thể
nói, ở một khía cạnh nào đó, liên quan tới tinh thần Bỏ
Ḿnh của nhà Ḍng, nhất là ở cấp độ quản trị nhà ḍng,
dính dáng đến các quyết định của những đấng bản quyền
thuộc Giáo Hội địa phương, (v́ Đồng Công vẫn c̣n thuộc
cấp Giáo Phận, chưa trực thuộc Ṭa Thánh), những quyết
định thường không được như ư nguyện của nhà ḍng và đáp
ứng nhu cầu của nhà ḍng.
Tuy nhiên, trong 3 ḷng tôn sùng này, 3
ḷng tôn sùng tiêu biểu cho đặc tính của Giáo Hội Công
Giáo và nơi Giáo Hội Công Giáo, tôi vẫn thường nói với
bạn bè rằng, về Thánh Thể và Thánh Mẫu th́ bên Các Giáo
Hội Chính Thống Giáo cũng có. Chỉ riêng Giáo Hội Công
Giáo mới chú trọng tới Huấn Quyền nói chung và đề cao
Thượng Quyền của Đức Thánh Cha nói riêng, đến nỗi Huấn
Quyền, cùng với Thánh Kinh và Thánh Truyền, đă trở thành
ba yếu tố bất khả thiếu như nền tảng cho Đức Tin của
Giáo Hội Công Giáo. Tôi vẫn nói với các em Thiếu Nhi
Fatima rằng, theo Giáo Hội không bao giờ sợ lầm lạc. Bởi
đó năm nào các em cũng học hỏi đặc biệt về Sứ Điệp Đức
Thánh Cha gửi giới trẻ hằng năm.
Tôi cảm thấy tự nhiên rất thích thú những
tài liệu của Giáo Hội. Mỗi ngày tôi đă bỏ ra ít là 3-4
tiếng để vừa đọc, dịch và phổ biến các tài liệu quí hóa
này, liên tục hằng ngày suốt từ khi bắt đầu có Thời Điểm
Maria tới nay. Một số vị tu sĩ, linh mục và giáo dân đă
gửi điện thư xin tôi được sử dụng những bài dịch tài
liệu hiếm quí này, cho riêng họ hay cho một mạng điện
toán toàn cầu khác, những tài liệu được dịch sang Việt
ngữ mà họ không t́m thấy ở bất cứ chỗ nào khác, dù nơi
một số mạng điện toán toàn cầu nổi tiếng hơn và đông
người vào xem mỗi ngày hơn. Chính tôi cũng sử dụng những
tài liệu quí báu này để phổ biến cả qua chương tŕnh
Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống hằng tuần, lẫn các báo chí
Công Giáo hằng tháng, đặc biệt là tờ Hiệp Nhất của Cộng
Đồng Công Giáo Giáo Phận Orange. Trong 62 tác phẩm tôi
viết và phổ biến từ năm 1988 tới 2006, đă có 12 cuốn
chuyên về văn kiện Giáo Hội và Giáo Hoàng.
Chính tôi là người được lợi nhất trong
việc nghiền gẫm và chuyển dịch này. Tôi cảm thấy càng
ngày càng đi sâu vào ḷng Giáo Hội hơn. Tài liệu tôi
dịch không phải chỉ thuần văn kiện của Giáo Hội, như các
Thông Điệp, Tông Thư, Tông Huấn, Sứ Điệp, Giáo Lư hằng
tuần, giảng huấn phụng vụ, huấn từ mục vụ, diễn từ ngoại
giao v.v. của Đức Thánh Cha, mà c̣n các bài diễn văn của
Ṭa Thánh ở Liên Hiệp Quốc, các hoạt động của hội đồng
giám mục trên khắp thế giới, các văn kiện thuộc các phân
bộ của Ṭa Thánh, kể cả các biến chuyển của thế giới tân
tiến ngày nay, liên quan tới tâm thức văn hóa và chính
trị cần phải được Giáo Hội truyền bá phúc âm hóa. Nếu
ḷng tin tưởng phó thác thực hiện chương tŕnh phát
thanh Tin Mừng Sự Sống của tôi được xuất phát từ tinh
thần Tận Hiến phó thác của Đồng Công, và nếu việc phục
vụ Phong Trào Thiếu Nhi Fatima của tôi xuất phát từ tinh
thần "không hưởng thụ nhưng phục vụ - non ministrari sed
ministrare", tức tinh thần Bỏ Ḿnh và Yêu Thương bác ái
của Đồng Công, th́ ḷng gắn bó Giáo Hội nơi tôi, được
thể hiện qua mạng điện toán toàn cầu Thời Điểm Maria,
thật sự đă được bắt nguồn từ cả ba ḷng tôn sùng của
Đồng Công, nhất là Ḷng Tôn Sùng Đức Thánh Cha.
Phải chăng chính v́ luôn gắn bó và hiệp
nhất với Đức Thánh Cha, vị Thừa Kế Thánh Phêrô, Đại Diện
Chúa Kitô trên trần gian để dẫn dắt Giáo Hội như thế, mà
Cha Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ đă có một chủ trương
giống hệt như các vị, đó là chủ trương Thánh trước hết
và Thánh trên hết, v́ chỉ có Thánh mới làm nên mọi
chuyện, cả trong Giáo Hội cũng như cho nhân loại và thế
giới, như hai vị Giáo Hoàng ở vào thời giao điểm giữa
thiên kỷ 2 và 3, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, đă bày
tỏ như sau:
Trước hết, Đức Gioan Phaolô II, một triết
gia nhân bản, một vị Giáo Hoàng đă thực hiện 104 chuyến
tông du để mang "vui mừng và hy vọng - gaudium et spes"
đến cho thế giới ngày nay, vị Giáo Hoàng đă phong nhiều
thánh nhất trong lịch sử Giáo Hội, với 483 vị hiển thánh
và 1.339 vị chân phước, và ngài dường như cho biết lư do
của việc làm này qua những lời ngài bày tỏ trong cuốn
Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của ḿnh (ấn bản Anh ngữ,
1994, trang 228), nguyên văn như sau:
“Ḷng kính sợ Thiên Chúa là quyền lực
cứu độ của Phúc Âm. Nó là một niềm kính sợ xây dựng chứ
không bao giờ hủy diệt. Nó tạo nên những con người sống
theo trách nhiệm, sống bằng t́nh yêu hữu trách. Nó tạo
nên những con người nam nữ – những Kitô hữu đích thực – thành
phần hoàn toàn nắm trong tay ḿnh tương lai của thế giới
này” (những chỗ in đậm ở đây và dưới đây là do
người dịch tự ư muốn nhấn mạnh).
Vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI của
chúng ta, một thần học gia về Giáo Hội hiệp thông và chủ
trương đệ nhất ưu tiên Đại Kết, trong cuốn The Ratzinger
Report (Ignatius Press, 1985), khi c̣n là Hồng Y Tổng
Trưởng Thánh Bộ Đức Tin đă chủ trương Giáo Hội cần Thánh
nhân hơn bất cứ một cái ǵ khác, dù là những ǵ liên
quan tới việc quản trị hay canh tân Giáo Hội:
“Như Đức Gioan Phaolô II trong bài
tưởng nhớ Thánh Borromeo ở Milan đă nói: ‘Giáo Hội
ngày nay không cần đến bất cứ một con người cải cách
nào. Giáo Hội cần đến những vị thánh’” (trang
42-43); “Thật vậy, các thánh là thành phần canh
tân Giáo Hội sâu xa nhất, không phải bằng những dự
án thực hiện các thứ cấu trúc mới, song bằng việc canh
tân chính bản thân ḿnh. Những ǵ Giáo Hội cần để đáp
ứng với các nhu cầu của con người ở hết mọi thời đại đó
là sự thánh thiện, chứ không phải vấn đề điều hành”
(trang 53); “Tôi không ngừng lập lại rằng Giáo Hội
cần đến những vị thánh hơn là những hành sự viên”
(trang 67).
Mười hai năm sau, trong tác phẩm Muối Đất
- Salt of the Earth (ấn bản Anh ngữ, Ignatius Press,
1997), ngài vẫn tiếp tục nhấn mạnh đến vai tṛ khẩn
trương và trọng yếu của các thánh nhân trong Giáo Hội
như sau:
"Điều chúng ta thực sự cần là những
con người có một nội tâm được Kitô Giáo chiếm đoạt,
những con người cảm nghiệm được nó như là niềm vui và hy
vọng, những người bởi thế trở thành những người yêu mến
Kitô Giáo. Và chúng ta gọi họ là những vị thánh nhân"
(trang 269); "trong thời đại của chúng ta đây, những
thứ canh tân cải cách chắc chắn không xuất phát từ những
cuộc diễn đàn và nghị hội, cho dù những điều này có tính
cách hợp lư của chúng, đôi khi thậm chí c̣n có tính cách
cần thiết nữa. Những điều canh tân cải cách sẽ xuất
phát từ các nhân vật tin tưởng, thành phần chúng ta có
thể gọi là những vị thánh nhân" (trang 270).
Những tư tưởng của vị hồng y tương lai là
Giáo Hoàng Biển Đức XVI này đă được lập lại với tư cách
là vị chủ chăn tối cao vào dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX
tại Đức quốc, tối Thứ Bảy 20/8/2005, (sau đó, vào dịp
phong thánh ở tại Ba Tây ngày 11/5/2007 cho một vị linh
mục bản quốc Ba Tây đầu tiên là
Antơnio de Sant'Ana Galvăo, ở đoạn cuối của bài giảng,
ngài c̣n lập lại ư tưởng cách mạng chính yếu ngài đă nói
với giới trẻ ở Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX), như sau:
"Các thánh nhân, như
chúng ta đă nói, thực sự là thành phần cải cách. Giờ
đây tôi muốn bày tỏ điều này một cách thậm chí quyết
liệt hơn nữa, đó là cách mạng thực sự chỉ xuất phát
từ các thánh nhân, từ Thiên Chúa mà thôi, con
đường tối hậu để biến đổi thế giới. Trong thế kỷ vừa
qua chúng ta đă trải qua những cuộc cách mạng có cùng
một dự tính – ở chỗ không trông mong ǵ ở Thiên Chúa cả,
chúng lănh nhận tất cả trách nhiệm phục vụ thế giới để
biến đổi thế giới. Để rồi, như chúng ta thấy, điều ấy có
nghĩa là quan điểm về con người và thiên lệch bao giờ
cũng được coi như là nguyên tắc hướng dẫn tuyệt đối.
Việc tuyệt đối hóa những ǵ không tuyệt đối mà là tương
đối được gọi là chủ nghĩa độc đoán. Nó không giải phóng
con người song lấy đi phẩm vị của họ và bắt họ làm nô
lệ. Đó không phải là những ư hệ cứu vớt thế giới mà chỉ
khi nào trở về với Thiên Chúa, với Đấng Hóa Công của
chúng ta, với vị bảo đảm tự do của chúng ta, vị bảo đảm
những ǵ thực sự là thiện hảo và chân thật. Cuộc cách
mạng đích thực chỉ là ở chỗ trở về với Thiên Chúa, Đấng
là tầm vóc của những ǵ là đúng và Đấng đồng thời là
t́nh yêu vĩnh hằng. C̣n ǵ có thể cứu vớt chúng ta ngoài
yêu thương đây?"
Nếu Thánh Nhân là những vị đă sống đời
đời ngay khi c̣n sống trên trần gian và trong thời gian,
v́ các vị đă sống trong chân lư và yêu thương là những
ǵ không bao giờ qua đi, không bao giờ lỗi thời, v́
chúng là những ǵ phản ảnh Thiên Chúa duy nhất hằng hữu
vô cùng chân thật và toàn thiện, và đời sống thánh thiện
bất diệt của các ngài vẫn c̣n được Thánh Thần sử dụng để
canh tân bộ mặt trái đất cho tới khi mọi sự được canh
tân vào ngày cùng tháng tận, trở thành Trời Mới Đất Mới
(x Rev 21:5,1) thế nào, th́ mộng ước thánh thiện, đời
sống thánh thiện và công cuộc thánh thiện của “Cha
Thánh” Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ, vị sáng lập hội ḍng
Đồng Công và tha thiết theo đuổi Lư Tưởng Thánh Đồng
Công, cũng măi măi tồn tại, nhất là khi ngài vĩnh viễn
nằm xuống, như một hạt lúa miến mục nát đi (x Jn 12:24),
cho tương lai của một Mùa Thánh Đức Việt Nam…
Ngay trong lúc Cha Thánh Thủ chưa vĩnh
viễn nằm xuống, cả anh em ḍng lẫn người ngoài đều đă
được chứng kiến thấy hoa trái tỏ tường của Lư Tưởng
Thánh Đồng Công do Cha khởi xướng và theo đuổi, nơi một
người anh em ḍng đặc biệt là Cha Minh Đăng, vị linh mục
nổi tiếng của Địa Phận Thái B́nh, đă xin nhập ḍng Đồng
Công, cũng hạ ḿnh xuống xưng ḿnh là "em" ngọt sớt với
anh em ḍng. Ngài là vị linh mục từng là chủ nhiệm của
tờ nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ của ḍng, và ngài chẳng
những có một ḷng tôn sùng Mẹ Maria rất đặc biệt, mà c̣n
có biệt tài nói về Mẹ rất ư là thu hút (như chính người
viết đă từng được diễm phúc nghe một số lần). Ngài chẳng
may đă bỏ mạng (mất cả tim) v́ một tai nạn xe hơi ở Thủ
Đức sau năm 1975, trong một lần đi giảng pḥng về, song
ngôi mộ của ngài ở trong nghĩa trang của nhà ḍng không
c̣n chỗ để bảng tạ ơn đă kín mít dầy đặc (như tôi đă
thấy khi ghé qua viếng mộ của ngài ngay sau cuộc gặp gỡ
Cha Thủ). Ngài không nổi tiếng ở hải ngoại bằng Cha
Trương Bửu Diệp, hay được bắt đầu tiến tŕnh phong thánh
ở Rôma như Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, nhưng dầu sao,
qua chứng cớ bề ngoài, ngài cũng có thể được coi là một
trong những hoa trái đầu mùa của Mùa Thánh Đức Việt Nam,
của Máu Tử Đạo Việt Nam, một hoa trái đă được nhú lên từ
mầm mống đă được cẩn thận gieo trồng và khổ công chăm
bón bởi chính Cha Đaminh Maria Trần Đ́nh Thủ là Lư Tưởng
Thánh Đồng Công!
(Xin đọc thêm bài 1: Chúa
Chăn Nuôi Tôi, Tôi Chẳng Thiếu Thốn Chi...)