Truyện Minh Hoạ - Đức Tin |
Một hôm Đức Ala gọi một Thiên sứ đến và truyền lệnh : “Ngươi hãy xuống trần gian để đưa về đây người đàn bà góa có 4 đứa con thơ”. Thiên sứ ra đi, gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài nhìn người đàn bà với 4 đứa con dại, rồi lại lên Đức Ala để tha thiết nài xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm tách lìa người mẹ khỏi những đứa con thơ ấy ? Nhưng lời van xin của Sứ thần chẳng mảy may đánh động được Đức Ala. Cuối cùng Sứ thần đành phải vâng lệnh Đức Ala mà cướp người mẹ góa khỏi bầy con thơ và đưa về trời. Hoàn thành công tác, nhưng xem chừng vị thiên sứ lại có vẻ buồn. Phải, làm sao vui được trước cảnh chia ly giữa mẹ và con ? Thấy sứ thần buồn, Đức Ala gọi đến và đưa vào sa mạc. Ngài chỉ cho sứ thần thấy một tảng đá lớn và bảo đập nó ra. Tảng đá vừa vỡ đôi, sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong tảng đá một con sâu nhỏ từ từ bò ra. Chợt hiểu được ý nghĩa của sự kiện ấy, sứ thần bỗng thốt lên : “Ôi lạy Đấng tối cao, mầu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự khôn ngoan thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật bé nhỏ như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được 4 đứa trẻ mồ côi là con cái của Ngài.” Trích ”Món quà giáng sinh” Năm 1597 lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở công giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ. Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được 2 linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục : người gì mà để trái tim ra ngoài ! Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác, nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ : “đối ngoại hữu kỳ tâm - đối nội vô tâm giả” Từ đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim trên bàn làm việc một cách kín cẩn. Một hôm có ông bạn tên Osaki đến chơi, thấy vậy hỏi : - Thế nào, bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao ? - Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo. Để ông bạn coi : đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì ”Hữu Tâm”, còn với bản thân mình thì ”Vô Tâm”. Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời ; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh nầy tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là ngay chính của Thiên hạ vậy. Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo công giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm nhận phép rửa tội, đồng thời vận động triều đình thả hai linh mục... Trích “Phúc” Đức Tổng Giám Mục Helder Camara của Braxin, có lần đã chia sẻ kinh nghiệm như sau: Tôi có người anh lớn hơn tôi 5 tuổi, đã rửa tội từ lúc mới sinh, và từng theo học nhiều năm trong trường dòng. Nhưng lớn lên anh bắt đầu bê trễ, bỏ đọc kinh, bỏ dự lễ, và cuối cùng là bỏ... đạo. Sau khi tôi thụ phong linh mục, anh cùng với tôi sống chung với người chị độc thân. Mỗi lần biết tôi sắp đi giảng tĩnh tâm, anh lại hỏi: - Hôm nay chú nói về đề tài gì? Tôi lại có dịp giải thích cho anh những điều mình sắp giảng. Anh chỉ lắng nghe, không bình luận. Tám năm sau, anh bị mắc căn bệnh hiểm nghèo. Biết mình sắp chết, anh gọi tôi lại và nói: - Lâu nay tôi để ý quan sát, thấy không có sự cách biệt giữa lời chú giảng và việc chú làm. Vậy xin hỏi chú, tôi có thể dựa vào đức tin của chú để rước lễ không? Tôi trả lời: - Em tin là Chúa lòng lành vô cùng sẽ đoái thương anh. Bấy giờ anh tôi nói trong nỗi xúc động: - Ngay bây giờ thì chưa được đâu, vì tôi chưa xưng tội. Tôi định tìm cho anh một linh mục khác nhưng anh đòi xưng tội với tôi. Sau khi rước lễ xong, anh thều thào trong nước mắt: - Tôi tin, tôi tin, chú ạ. Bây giờ tôi tin không phải dựa vào đức tin của chú, mà tôi thực sự xác tín rằng Chúa yêu thương tôi! Ít phút sau đó anh đã ra đi trong bình an, thanh thản. Sưu tầm Một hôm Thiên Chúa đưa mắt nhìn xuống trần gian để xem loài người thờ phượng Ngài thế nào. Ngài thấy một tín đồ Ấn Giáo đang ngồi trầm mặc thinh lặng như thể quên hết mọi sự trên trần gian này. Thiên Chúa rất hài lòng về cử chỉ ấy. Nhưng Ngài lại nói: - Tại sao lại phải nhọc thân khổ xác như thế? Ngài lại thấy một nhà sư Phật giáo đang mỉm cười và cố gắng tạo sự hài hoà giữa điều thiện và điều ác. Thiên Chúa vui mừng vì nụ cười ấy, nhưng Ngài lại nói: - Tại sao con người phải nhọc công tốn sức như thế mà lại không nhờ đến sự giúp sức của trời cao? Ngài lại thấy một người bán khai tế thần với tất cả sự run rẩy sợ hãi. Ngài xúc động trước cử chỉ ấy, nhưng lại nói: - Tại sao con người lại có thể run sợ như thế? Ngài lại thấy một người Hồi giáo đang quì phủ phục hướng về thánh đường La Mecque. Thiên Chúa gật đầu thán phục nhưng Ngài lại nói: - Tại sao lại phủ phục nhiều như thế? Ngài lại thấy nhà thông luật Do thái đang cất tiếng đọc to những khoản luật trong Kinh Thánh. Thiên Chúa cũng hài lòng vì những lời cầu nguyện nhưng Ngài lại nói: - Tại sao lại có quá nhiều luật lệ như thế? Sau khi đã quan sát tất cả những hình thức cầu nguyện và thờ phượng của con người, Thiên Chúa Cha mới nói với Con Một của Ngài như sau: Con hãy xuống nói với thế gian và mang Thần Khí yêu thương xuống cho nó. Cha không muốn những hy tế vô ích bởi vì Cha là Cha. Cha không muốn sự chết bởi vì Cha là Cha. Cha không muốn sự sợ hãi bởi vì Cha là Cha. Cha không muốn lề luật bởi vì Cha là Cha. Cha chỉ muốn một tình yêu thanh thản và chân thành, bởi vì tất cả mọi người đều là con cái Cha. Tác giả Veritas Một đệ tử luôn bị chia trí trong công việc bổn phận hằng ngày, anh bị ám ảnh và mất nhiều thời giờ để lo lắng về cuộc sống sau khi từ trần: Cuộc sống ở thế giới bên kia sẽ ra sao ?, Tôi sẽ đi về đâu? ..v.v... Một ngày kia anh đến với Minh Sư để xin chỉ dạy. Ngài nói với anh: - Tại sao con phải mất nhiều thời giờ để nghĩ về thế giới bên kia? Sau một lúc suy nghĩ, người đệ tử trả lời: - Nhưng con có thể nào không nghĩ tới được sao? - Được chứ. - Thưa thầy bằng cách nào? - Bằng cách sống trên thiên đàng, ngay bây giờ và ngay tại nơi đây. - Thưa thầy! Vậy thiên đàng ở đâu? - Ở tại nơi đây và ở ngay trong cuộc sống này. Anthony de Mello Nhà thừa sai nọ ở Châu Phi được mời đến rửa tội cho một già làng đang hấp hối. Ông cụ đã được một giáo lý viên giúp sửa soạn để lãnh nhận bí tích này. Giáo lý viên nói với ông cụ: “Được rửa tội, cụ sẽ được lên thiên đàng, sống với các thiên thần, các thánh và với tất cả những người được rủa tội khác.”... Sau khi chào và nói mấy lời an ủi cụ già làng, vị linh mục thừa sai bắt đầu cử hành nghi thức phép Rửa bằng câu hỏi: “Cụ có muốn lãnh phép Rửa vào thiên đàng phải không? “Ồ, thú thật, thưa cha, tôi đã nghĩ kĩ và quyết định thôi không nhận phép ấy nữa”. “Hử! Sao kỳ vậy? Điều gì đã xảy ra với cụ?” “Thưa cha, tôi không muốn được rửa tôi. Tôi muốn hỏa ngục hơn bởi vì tôi không quen ai trên thiên đàng cả. Ở hỏa ngục, ít nhất tôi cũng có bạn bè, bà con, và tất cả tổ tiên của tôi _ họ đều đã chết và không ai trong họ từng được rửa tội”. Sưu tầm Câu trả lời của CHÚA
Bạn
nói: “Điều đó là không thể”
|