Truyện Minh Hoạ - Biết Ơn

Hãy biết ơn những gì bạn đang có

Một đứa bé trai bị mù, ngồi bên lề đường, với một cái nón đặt gần chân nó. Nó dựng một tấm bảng có ghi như vầy: “Tôi bị mù, xin giúp tôi”. Trong cái nón của nó, lúc đó chỉ có thưa thớt một vài đồng bạc cắc.

Một người đàn ông đi qua. Ông ta thò tay vào túi, lấy ra vài đồng bạc rồi thả vào cái nón. Sau đó, ông với tay lấy cái bảng, xoay mặt sau ra phía trước và ghi một vài chữ lên đó. Ông để tấm bảng lại chỗ cũ để những ai qua lại có thể đọc được hàng chữ mới ông vừa viết lên đó.

Sau đó cái nón của đứa bé mù bắt đầu có nhiều tiền. Bây giờ, có nhiều người hơn hồi sáng cho tiền đứa bé mù này. Buổi chiều hôm ấy, người đàn ông đã đổi hàng chữ trên tấm bảng, quay trở lại tìm đứa bé để xem tình hình ra sao. Đứa bé mù nhận ra bước chân của người đàn ông này và hỏi: “Có phải chính ông đã đổi những hàng chữ trên tấm bảng này? Ông đã viết gì trên tấm bảng vậy?”

Người đàn ông bèn đáp: “Chú chỉ ghi ra sự thật mà thôi. Những gì chú ghi ra trên tấm bảng cũng giống như câu cháu đã ghi, nhưng chỉ theo một cách thức khác thôi”

Người đàn ông đã viết trên tấm bảng như sau: “Hôm nay là một ngày đẹp trời nhưng tôi không thấy được”.

Quý vị và các bạn có nghĩ rằng hàng chữ của đứa bé và hàng chữ của người đàn ông có cùng nói lên một điều không?

Dĩ nhiên, cả hai hàng chữ đều cho người ta biết cậu bé bị mù. Nhưng hàng chữ thứ nhất chỉ nói rằng đứa bé bị mù, vậy thôi. Nhưng hàng chữ thứ hai nói với mọi người rằng họ thật là may mắn bởi vì họ không bị mù. Bây giờ quý vị có còn ngạc nhiên vì sao hàng chữ thứ hai, do người đàn ông viết, gặt hái nhiều kết quả cho cậu bé mù.

Kính thưa quý thính giả,

Giáo sư tâm lý Lee Ross nói: “Thế giới này có thể là một nơi tệ hại và tàn nhẫn – nhưng cùng một lúc, nó có thể là một thế giới phong phú và tuyệt vời. Cả hai sự thật đều đúng cả”

Kinh Thánh có nhắc nhở: “Hãy mãi mãi vui mừng, cầu nguyện không ngừng, và tạ ơn Chúa trong mọi tình huống môi trường” (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:16-18)

Hãy sáng tạo và thay đổi cách nhìn cũng như cách suy nghĩ. Hãy sống một đời sống mà không viện lý do này, nguyên nhân nọ để thoái thác trách nhiệm trong tình yêu. Khi cuộc đời đem đến 100 lý do muốn ta khóc, hãy chỉ ra cho cuộc đời biết bạn có 1000 lý do để cười. Đừng cứ tiếc nuối quá khứ. Hãy tin cậy trong hiện tại. Cũng chuẩn bị cho tương lai với một niềm tin.

Hãy cảm tạ ơn Thượng Đế về những gì bạn đang có. Hãy tin cậy vào tình yêu của Ngài bằng cách tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu là Đấng đã chết thay, đền nợ tội thế cho quý vị và tôi. Trong Chúa Giê-xu, quý vị và tôi được tha trắng tội và được quyền thừa hưởng mọi điều quý báu nhất của Đấng Tạo Hóa, ngay trong cuộc sống

hiện tại và trong tương lai đời đời bên cạnh Ngài, như chính lời Chúa Giê-xu khuyên bảo:

“Ta khuyên các con đừng lo âu vì vấn đề cơm áo. Đời sống không quý hơn cơm nước sao? Thân thể không trọng hơn quần áo sao? Các con xem loài chim bay liệng trên trời, chúng chẳng gieo, gặt, cũng chẳng tích trữ vào kho, thế mà chúng vẫn sống, vì Cha các con trên trời nuôi chúng. Các con không có giá trị hơn loài chim sao? Trong các con có ai lo âu mà kéo dài đời mình thêm được một giờ không?

“Sao các con lo âu về quần áo? Hãy xem hoa huệ ngoài đồng, chúng chẳng làm việc nặng nhọc, cũng chẳng xe tơ kéo chỉ. Thế mà giàu có sang trọng như vua Sa-lô-môn cũng không được mặc áo đẹp bằng hoa huệ. Cỏ hoa ngoài đồng là loài sớm nở tối tàn mà Thượng Đế còn cho mặc đẹp như thế, lẽ nào Ngài không cung cấp y phục cho các con đầy đủ hơn sao? Tại sao các con thiếu đức tin đến thế? Vậy các con đừng lo âu về cơm áo, là những thứ người ngoại đạo mãi lo tìm kiếm, vì Cha các con trên trời thừa biết nhu cầu của các con. Nhưng trước hết các con phải tìm kiếm Thượng Đế để được Ngài tha tội và ngự trị trong lòng, Ngài sẽ cung cấp đầy đủ mọi nhu cầu cho các con. Vì thế, các con đừng lo âu về tương lai. Ngày mai sẽ lo việc ngày mai; nỗi khó nhọc từng ngày cũng đã đủ rồi.” (Ma-thi-ơ 26:25-34)

Sưu tầm


Những Con Bọ Chét

Corrie ten Booms là một tác giả nổi tiếng với những quyển sách hồi ký, kể lại kinh nghiệm che dấu người Do-thái, để rồi sau đó bị Đức quốc xã bắt được và bị tống giam ở các trại tù tập trung trong Đệ Nhị Thế Chiến. Bà và người chị Betsy bị đưa vào trại tập trung Ravensbruck. Khu vực trại hai người bị giam thật là đông đúc, dơ bẩn và kinh khủng nhất là đầy bọ chét. Một buổi sáng nọ, trong khi bà và người chị thầm giở cuốn Kinh Thánh mà bà giấu được mang theo trong người, thì hai người đọc đến câu trong sách 1 Tê-sa-lô-ni-ca nhắc nhở phải tạ ơn Thượng Đế luôn luôn, dầu trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Chị Betsy nhắc: “Nè em Corrie, chúng ta phải tạ ơn Thượng Đế vì khu vực trại tù này và thậm chí về những con bọ chét nữa”.

Bà Corrie liền nói lại: “Không cách nào em có thể cảm ơn Ngài vì những con bọ chét kinh khủng này được”. Nhưng vì chị Betsy cứ thuyết phục, nên cuối cùng Corrie miễn cưỡng cùng chị Betsy thầm cảm ơn Chúa về khu trại toàn những con bọ chét thật đáng gớm ghê này.

Những tuần lễ sau đó, Corrie và Betsy cảm thấy hình như khu vực trại nơi mình bị giam, dường như sự canh gác được thả lỏng, thậm chí họ dám tổ chức học Kinh Thánh công khai và tổ chức cầu nguyện với nhiều người trong khu vực này. Đây quả thật là nơi trú ẩn an toàn cho họ trong cơn phong ba của cuộc đời. Vài tháng sau đó, học biết được bọn lính gác không thích bén mảng tới khu vực trại này vì chúng ớn những con bọ chét kinh khủng kia!

Sưu tầm


Lòng biết ơn

Một Mục sư hay kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về lòng biết ơn. Một sáng Chúa nhật nọ, Đức Chúa Trời bảo 3 vị thiên sứ xuống thế gian để nhận lấy những lời cầu xin, cầu thay và lời cảm tạ của loài người. Chỉ khoảng 15 phút sau vị thiên sứ thứ nhất đem về một bao tải rất lớn, chứa toàn những lời cầu xin. Khoảng gần trưa, vị thiên sứ thứ hai mới trở về, tuy bao tải của vị thiên sứ này không nhiều bằng bao tải của vị thiên sứ thứ nhất, nhưng cũng chứa khá nhiều lời cầu thay. Hai thiên sứ ngồi chờ thiên sứ thứ ba về để cùng vào gặp Đức Chúa Trời, chờ mãi đến chiều mà vẫn chưa thấy về. Khi ánh hoàng hôn dần chìm trong bóng tối, thì vị thiên sứ thứ ba mới trở về, dáng vẻ mệt nhọc vì phải đi rất nhiều nơi, ai dè trong bao tải chứa chỉ vỏn vẹn phần nhỏ những lời cảm tạ …

Chắc chắn ai cũng biết câu chuyện trên nói đến sự vô ơn của loài người trước những ơn phước bao la của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta. Không phải cho đến bây giờ chúng ta mới nhắc đến mà từ ngàn xưa, ông bà ta đã từng nói: “Cứu vật, vật trả ơn (ân), cứu nhơn (nhân), nhơn trả oán”. Câu tục ngữ hàm chứa ý nghĩa dạy dỗ sâu xa này đã đúc kết được một bản tính cố hữu của con người: đó là lòng vô ơn. Thật ra, chúng ta cũng không chắc con vật có lòng biết ơn hơn con người đâu, nhưng vì con người là sinh vật có lý trí, có tâm linh nên vấn đề nhận thức được đâu là chân lý phải được đặt lên hàng đầu, vì thế lòng biết ơn phải chiếm giữ một giá trị nhất định trong ý thức của con người.

 Con người, muốn tồn tại, dù muốn hay không cũng phải gắn bó với một cộng đồng xã hội. Chúng ta không thể “tự cung, tự cấp” đầy đủ những nhu cầu của mình được, mà phải nương nhờ bàn tay, trí tuệ của những người khác trong cộng đồng. Nói vui vui, một người thợ cắt tóc, dù giỏi đến đâu thì cũng không thể tự cắt tóc cho mình. Những thức ăn, thức uống, đồ mặc, nhu cầu sinh hoạt hằng ngày… chúng ta cũng phải nhờ những người khác mới có được. Một hạt gạo, một mét vải dù không bao nhiêu tiền, nhưng nó là công sức lao động của bao nhiêu người dãi nắng, dầm sương… Vì vậy khi tôi cám ơn một người phục vụ đem nước ra, người học trò liền hỏi: “Sao thầy trả tiền rồi mà còn cám ơn họ làm gì, họ đâu có cho không mình?”, tôi cười trả lời: “Tiền trả cho ly nước, còn lời cám ơn cho sự phục vụ, nếu mình có tiền mà không có họ, cũng không thể có nước uống”. Thật vậy, khi ở giữa sa mạc nóng bỏng, không một bóng người, lúc đó mới thấy được giá trị của cộng đồng. Cơ đốc nhân phải là người có lòng biết ơn mọi người. Biết ơn cha mẹ đã sinh thành, dưỡng dục; biết ơn thầy cô đã tận tâm dạy dỗ; biết ơn anh em đã thương yêu, đùm bọc; biết ơn hàng xóm đã gần gũi, xẻ chia những vui buồn; biết ơn cộng đồng đã cung cấp những nhu cầu thiết yếu… Và dĩ nhiên, trên hết chúng ta biết ơn Chúa đã cho ta cuộc sống, thế giới tốt đẹp này, không những thế Ngài đã ban cho chúng ta Chúa Jesus, để qua sự hy sinh của Chúa Jesus trên thập tự giá, chúng ta được trở lại làm con của Đức Chúa Trời, được kết nối lại mối tương giao tốt đẹp với Ngài.

Nhiều người trong chúng ta hay “phê bình” những người chưa tin Chúa: họ uống nước của “Trời”, ăn cơm của “Trời”, nhưng lại không biết ơn “Trời”. Thật ra, nói một cách khách quan, họ vẫn biết ơn “Trời”, tuy “Trời” của họ chỉ là một nhận thức vượt qua khỏi giới hạn của con người nhưng nó vẫn chưa đạt đến được mức tối cao là Đức Chúa Trời, Đấng Sáng tạo vũ trụ. Chính vì vậy mà bên cạnh những lời bày tỏ lòng biết ơn: “Nhờ trời mà tôi được mạnh khỏe”, “Nhờ trời tai qua nạn khỏi”, “Trời thương, Trời ghét”…, hoặc “Trời ơi! Cứu tôi”, “Trời kêu ai, nấy dạ”, “Lưới trời lồng lộng”, “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”… thì họ lại dùng theo một kiểu khác thường: “Đồ trời đánh, thánh đâm”, “Trời ơi, sao mà ngu quá vậy!”, “Trời đất!”… “Trời” của họ nhiều khi gần với thiên nhiên hơn là một Đấng Tối cao cụ thể, chính vì vậy họ không thể đến gần với Đức Chúa Trời được. Nhiệm vụ của chúng ta, những người thực sự biết rõ Đức Chúa Trời là ai, là hướng dẫn, giới thiệu cho đồng bào, cho anh em mình biết đặt lòng biết ơn của họ vào đúng chỗ, đúng Đức Chúa Trời cao cả, như lời Chúa đã phán chúng ta:

 “ Ngài phán cùng các sứ đồ rằng: “Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin lành cho mọi người.” (sách Phúc âm Mác 16:15). Họ cũng giống như hoạn quan Êthiôbi ngày xưa, khi ông nói cùng Philíp: “Nếu chẳng ai dạy cho tôi, thể nào tôi hiểu được?” (sách Công vụ các Sứ đồ 8:31), “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.” (thư của Phaolô gởi các tín hữu tại thành Rôma 10:7).

Nhiều người cũng có tấm lòng biết ơn Chúa đã ban cho mình nhiều điều, song họ chỉ biết nói đến như vậy. Thấy anh em mình khó khăn, họ vẫn bình thản. Thấy bên cạnh có biết bao nhiêu người cần được cứu, họ cho đó là trách nhiệm của người khác… Những người như vậy chỉ biết ơn Chúa bằng miệng lưỡi, mà không phải bằng tấm lòng. Biết ơn Chúa không chỉ nói lời cảm tạ Chúa không thôi mà còn phải bày tỏ bằng bằng hành động cụ thể đối với những người khác. Chúa ban ơn cho chúng ta không phải để chúng ta đền đáp ơn cho Ngài, mà nếu chúng ta có nổ lực đền đáp thì cũng không thể sánh được những gì Ngài đã ban cho chúng ta, điều mà Ngài muốn đó là giúp cho mọi người hiểu được tình yêu của Chúa ban cho nhân loại, và đó là cách chúng ta đền đáp ơn Ngài tốt nhất. Lòng biết ơn Chúa khiến chúng ta phải ra đi, đến với anh em mình để nói về tình yêu của Chúa, sự cứu rỗi của Ngài. Ngày xưa, chính Chúa Jêsus đã đi khắp nơi để giảng dạy cho mọi người, thì ngày nay chúng ta không thể ngồi một chỗ được. Vì vậy, cần phải ra đi, cần phải lên đường…

Biết ơn Chúa không chỉ những lúc hạnh phúc, sung sướng mà còn cả khi hoạn nạn, khó khăn. Hoạn nạn, khó khăn thì không có gì vui để mà cảm tạ cả, nhưng chúng ta biết ơn, cảm tạ Chúa vì chúng ta biết chắc chắn rằng đây là những thử thách mà Chúa muốn chúng ta vượt qua một cách kiên trì để rồi bên kia đường hầm tăm tối là những tháng ngày phước hạnh, và tất nhiên chỉ những ai chịu thử thách thì họ mới được hưởng những ơn phước dồi dào của Chúa. Một kỳ thi khó chính là một kỳ thi cần thiết để chọn lựa những người tài giỏi. “Xin tạ ơn Chúa đã ban cho tôi một đời tự do. Xin tạ ơn Chúa đã ban cho tôi ngày tháng lao tù ”, đó là câu mở đầu bài hát Ca khúc Tạ ơn Tôn vinh của nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm, ông viết những câu này rất thật bởi bản thân ông đã được trãi nghiệm những giây phút đó, chính vì vậy bài hát có một sức sống mãnh liệt và được nhiều người yêu thích. Lòng biết ơn Chúa chỉ thật sự sống động khi chúng ta thật sự cảm nhận được bằng những kinh nghiệm của bản thân mình chứ không phải từ những điều chúng ta nghe người khác nói…

Cuộc đời mỗi con người là một chặng đường dài nhận biết và bày tỏ lòng biết ơn với Đức Chúa Trời, Đấng đã tạo dựng ra muôn loài vũ trụ. Càng sớm biết ơn Chúa, thì càng sớm có cơ hội bày tỏ lòng biết ơn Ngài, những ngày sống trên đất này của chúng ta càng có giá trị. Hãy nhìn lại chặng dường đã qua trong cuộc đời mình, có những ơn phước nào Chúa ban cho chúng ta không?, tôi chắc chắn rằng không ai nói không cả. Mong rằng, các bạn khi đọc được những dòng chữ này, nếu chưa nhận biết Đức Chúa Trời, thì cơ hội vẫn còn cho bạn, và hãy mau tìm đến Ngài với lòng biết ơn vô hạn để được hưởng những ơn phước dồi dào của Ngài sẽ dành cho bạn và có cơ hội thể hiện lòng biết ơn của bạn đối với Ngài.

                                                                Vũ Hướng Dương


Vô ơn

Có một cô gái trẻ xinh đẹp bị mù đôi mắt và vì thế cô căm ghét bản thân mình vì sự mù lòa này. Cô căm ghét tất cả mọi người ngoại trừ người bạn trai đáng yêu của cô. Người bạn trai này luôn bên cạnh cô, chăm sóc và an ủi cô mỗi ngày. Cô đã quả quyết rằng nếu có được một đôi mắt sáng và nhìn được thế giới này thì cô sẽ cưới ngay người bạn trai của mình làm chồng.

Một ngày nọ, có một người đã tặng đôi mắt sáng của mình cho cô gái và cô có thể nhìn thấy tất cả và tất nhiên là thấy được người bạn trai của mình. Người bạn trai của cô đã hỏi cô “Bây giờ em đã nhìn thấy được tất cả, vậy em có bằng lòng lấy anh làm chồng không?” Cô gái đã thật sự bị sốc khi cô nhìn thấy người bạn trai của mình vì anh ta cũng bị mù và cuối cùng … cô đã từ chối và không giữ lời hứa của mình.

Người bạn trai của cô đã ra đi trong nước mắt và sau đó anh viết thư về cho cô gái chỉ với một hàng chữ “HÃY GIỮ GÌN VÀ CHĂM SÓC ĐÔI MẮT CỦA ANH!”.

Đây là câu chuyện nói về sự thay đổi lòng dạ của con người khi mà cuộc đời họ có những sự thay đổi. Rất ít người nhớ đến cuộc sống cũ của họ và nhớ đến những người đã luôn ở bên cạnh họ trong những thời khắc khó khăn nhất của đời mình.

Suy gẫm

Câu chuyện về cô gái là câu chuyện của chính tôi. Tôi đã từng là một tội phạm, là một người xấu xa đáng phải chết mất nhưng có NGƯỜI đã hy sinh cho tôi không chỉ đôi mắt mà cả sinh mạng của NGƯỜI để đem tôi đến sự sáng và sự sống đời đời. NGƯỜI đã đến với tôi bằng tình yêu mà không tình yêu nào của loài người có thể sánh bằng. Tôi cũng đã từng kết ước sẽ yêu NGƯỜI bằng tình yêu không đổi nhưng thật ra tôi đã từ chối NGƯỜI trong cuộc sống hằng ngày của tôi. Tôi đã chán khi phải nói chuyện với NGƯỜI, tôi cảm thấy mệt mỏi để tìm hiều NGƯỜI muốn gì, tôi chỉ muốn làm theo điều tôi thích và có lúc tôi còn ngại ngùng, hổ thẹn khi giới thiệu NGƯỜI cho bạn bè của mình. Tại sao tôi không thấy mình là một kẻ bội bạc vô ơn nhỉ? Tại sao tôi có thể trách cô gái trẻ mà không trách chính bản thân mình chứ? 

Kỷ Niệm Chúa Chịu Thương Khó là lúc để chúng ta nhớ đến tình yêu, sự hy sinh của Chúa dành cho mình và cũng là lúc để nhìn lại tình yêu của mình dành cho Chúa ... “Nếu ái tâm tôi đối Chúa phôi pha, chẳng có đâm chồi nở hoa, thì xin cho thấy Ghết-sê-ma-na chổ Chúa thế tôi nặng nề”

Kinh Thánh

“Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy, hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời” – I Cô-rinh-tô 6:20

 Thiên Ân


Anh lính biết ơn.

Kurt Emmerich, một bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể câu chuyện sau đây về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới Nga sô. Hàng ngàn thương binh đã được ông giải phẫu tại bệnh viện dã chiến, nhưng chỉ có một trường hợp làm ông không bao giờ quên. Người lính trẻ đó được đưa vào bệnh viện với một khuôn mặt bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc rất nhiều ngày để sửa lại khuôn mặt của anh với tất cả nỗ lực có thể được qua hàng loạt những phẫu thuật cấy và ghép da.

Trong lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết  toàn thể các phần còn lại với nhau ở khóe miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh, “Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi muốn nghe anh phát biểu một điều gì với môi miệng mới của anh”.

Anh thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một cách rất cẩn thận, và rồi với nụ cười mỉm chi đầu tiên của anh, miệng anh uốn theo những chữ :”Cám ơn”(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa… năm C, tr 343).


Không ai cám ơn tôi cả.
 

Cách đây đã lâu, một con tầu bị đắm vì giông bão trong vùng Ngũ Đại Hồ, Hoa kỳ. Những toán cấp cứu được phái đến giúp đỡ, trong đó có một nhóm sinh viên của trường Northwestern University ở Chicago. Một sinh viên trẻ tuổi, tên là Edward  Spencer, đã cứu được 16 người từ con tầu đang bị chìm. Anh làm việc hăng say cho đến khi gần kiệt sức. Khi được phỏng vấn, anh còn lúng túng e ngại  vì sợ rằng vẫn chưa làm hết sức mình :”Tôi đã làm việc hết sức chưa ? Quý vị có nghĩ rằng  tôi đã làm việc hết mình không”?
 
Nhiều năm sau đó, trong buổi họp mặt của các cựu sinh viên, một thuyết trình viên đã nhắc lại hành động anh hùng này. Bỗng nhiên có một người la lớn rằng Edward Spencer đang hiện diện ở đây. Thế là Spencer được mời lên bàn cử tọa. Bây giờ ông đã già, tóc bạc, buớc lên bục đài giữa tiếng hoan hô vỗ tay của khán giả. Thuyết trình viên hỏi ông :”Trong biến cố đó, sự kiện nào đáng ông ghi nhớ nhất” ? Ông cụ bèn trả lời:”Chỉ có một điều này làm tôi nhớ mãi, khoảng 16 hay 17 người đã được tôi cứu vớt, không một người nào đã cám ơn tôi cả”.

Sưu tầm


Hồng ân Chúa quá nhiều.

Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây : Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói :”Bố ơi, con sẽ đếm sao trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123,124,125… Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi :”Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa :”Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi :”Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế”

Phạm văn Phượng


Cám ơn.

Thi sĩ Lamartine, người Pháp có kể lại một giai thoại như sau : một hôm ông tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kỳ lạ : cứ sau một tiếng búa đập vào đá lại vang lên một tiếng cám ơn ! Đến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhìn thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa vào phiến đá, ông lại thốt ra hai tiếng “cám ơn”.
Thi sĩ nấn ná đến hỏi chuyện, ngưởi thợ đá mới giải thích :”Tôi tạ ơn Chúa” ! Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ, lầm than hơn nhiều người, thi sĩ bảo :
- Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng “cám ơn”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần duy nhất, đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không ngó ngàng gì tới bác nữa, thế thì tại sao bác lại mỏi miệng cám ơn Ngài ?
- Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao ?
- Dĩ nhiên – Lamartine thách thức – Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần thôi !
Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, náo nức thốt lên :
- Tôi nghĩ điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và chỉ một lần thôi, vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao ? Vậy, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa !
Nói xong, người thợ đá đã bỏ mặc cho ông thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông : vừa đập đá vừa cám ơn Chúa.

Sưu tầm


Cơm phiêu mẫu

Hàn Tín được Lưu Bang (Hán Cao Tổ, Trung Quốc) phong Vương. Ngồi trên xe ngựa, cờ lọng lộng lẫy trở về đất Sở, nơi ông đang sống thuở nhỏ. Hàn Tín ngậm ngùi nhớ lại nỗi gian nan, cay đắng thuở xưa. Mỗi đoạn đường nhắc ông nhớ đến một quãng đời gian truân. Ông nhớ đến bà Phiếu Mẫu giặt sợi bên kia sông mà sa lệ.
Thuở nhỏ, chú bé Hàn Tín đi câu cá ở sông Hoài để kiếm sống, nhiều khi không câu được cá, chú bé lang thang vào chợ, thật quá lắm điều khổ nhục. Một hôm, sau mấy bữa nhịn ăn, chú đói quá, vác cần câu đi trên bờ sông. Một bà cụ đang giặt sợi dưới sông thấy chú bé thất thểu, con mắt hốc hác, bà gọi: “Này cháu, cháu bé, đợi bà một chốc”. Chú ngạc nhiên, dừng lại. Bà tất tả chạy lên bờ, tay dắt chú bé miệng nói: “Cháu theo bà về nhà ăn cơm”. Về đến nhà, bà bảo chú ngồi đợi trong nhà, rồi bà đi vo gạo thổi cơm”. Cơm chín, hai bà cháu ngồi ăn ngon lành. Ăn xong, Hàn Tín cúi chào bà cụ rồi ra đi. Hàn Tín là một người thông minh tuyệt vời, lại có ý chí như sắt đá. Lớn lên, chàng tìm cách lập thân. Trong cuộc chiến tranh giữa Hạng Lương và Tần Thủy Hoàng, Hạng Lương không biết dùng tài của chàng, Hạng Võ thay Hạng Lương cũng không có tầm nhìn lớn; Hàn Tín chẳng lập được công gì cho xứng với tài năng của chàng. Đến khi gặp Trương Lương, Trương Lương mới thấu hết tài kinh bang tế thế của chàng. Trương Lương đã tâu việc với Hán Lưu Bang. Lưu Bang phong Hàn Tín làm Nguyên Nhung cầm quân đánh nước Sở. Hạng Võ thua to, phải bỏ chạy. Lưu Bang lập nên cơ nghiệp nhà Hán, nhờ vào tài năng của Hàn Tín.
Về đến quê cũ, Hàn Tín cho mời bà Phiếu Mẫu đến dinh thự riêng của mình. Ông mời bà cụ ăn một bữa cơm sơn hào hải vị, dâng bà một ngàn lạng vàng và bái tạ.
“Phiếu Mẫu” hay “bát cơm Xiếu Mẫu” là sự đền đáp ơn sâu trong truyện Kiều, khi xử ân oán, Thuý Kiều mời bà Quản gia và sư Giác Duyên đến tạ ơn.
“Nghìn vàng gọi chút lễ thường, Mà lòng Xiếu Mẫu mấy vàng cho cân”."

Sưu tầm


Lòng thành thật

Mùa đông 1993 – 1994, một bà người Canada, để tránh cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông hàn đới, đã tìm đến mặt trời và nắng ấm ở tiểu bang Florida, miền nam nước Mỹ.
Khi mùa xuân về, cùng với những đoàn chim di cư, bà trở về Canada. Bà đã thuê một chiếc taxi để đưa bà từ chỗ trọ đến phi trường Miami. Tại phi trường, khi cân hành lý bà mới nhận thấy đã để quên một va-li hành lý trong taxi. Rủi thay bà không để ý đó là một công ty nào để gọi thiện thoại cầu may, lại nữa mấy bay sắp cất cánh, không còn thời giờ để làm gì được nữa.
Suốt hành trình trở về, bà kể như mất luôn món hành lý đó. Nhưng khi vừa về đến nhà bà nghe điện thoại reo. Bà chạy đến nhắc lên, thì đầu bên kia anh tài xế taxi gọi viễn liên đến xin lỗi bà về sự lơ đễnh của anh và cho bà biết anh đã trở lại phi trường để gởi va-li đó đến cho bà, ngày hôm sau chuyến máy bay sẽ đến.
Bà cám ơn rối rít, nhưng khi gác điện thoại xuống rồi bà mới sực nhớ không hỏi tên và địa chỉ và điện thoại của người công chính ấy để tận tình tri ân.
Kính thưa quí vị và các bạn thân mến!
Mặt đất này sẽ đổi thay khi mỗi người đều chỉ biết nghĩ đến làm vui lòng người khác, khi tiêu chuẩn để đo sự giàu sang không còn phải là tiền bạc nữa mà là lòng nhân nghĩa đối với nhau.
Chúng ta phải nể, phải kính những người như anh tài xế taxi trong câu chuyện trên đây. Anh chỉ nghĩ đến sự lo lắng của người bị mất của. để bỏ tiền gọi điện thoại cho bà ta được an tâm càng sớm càng tốt, và gởi món hàng ấy đến cho bà ngay mà không cần cho biết danh tánh địa chỉ của mình, để mong được đền ơn đáp nghĩa.
Nếu mỗi người đều như thế, nhất là những người xưng mình là Kitô hữu, thì nước Chúa sẽ hiển trị, hòa bình an vui sẽ bao bọc quả địa cầu, và con người sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi liềm, lấy giáo làm nên lưỡi cày, để lo xây dựng cho mau no cơm ấm áo, hạnh phúc vui tươi.
Có lẽ chúng ta bảo điều đó là quá lý tưởng. Quá lý tưởng, thực hiện được hay không, điều đó chúng ta hãy để cho Chúa. Bổn phận của mỗi người chúng ta là bắt đầu ngay sống đời công chính. Đó mới là điều quan trọng và là công việc của chúng ta.
Câu người ta bảo: “Thà tự thấp lên một ngọn nến nhỏ, chớ đừng ngồi yên nguyền rủa bóng tối” có thể áp dụng đúng nghĩa ở đây.
Lạy Chúa.
Xin cho con biết cố gắng thắng được tính ích kỷ cố hữu nơi con, để con biết nghĩ đến người khác, để con luôn sẵn sàng chấp nhận mọi thua thiệt, miễn sao con thấy khác vui tươi, hạnh phúc.
Xin cho con biết thấy rõ nơi người khác cũng là những con người như con, cũng phải mệt nhọc no kiếm sống từ sáng sớm đến chiều hôm, cũng luôn ước ao được hài lòng thoải mái, khi vui cũng cười, lúc buồn cũng ra nước mắt như con, để con yêu mến họ và mong mọi sự lành cho họ.
Dầu cho đời sống này phải vật lộn để sống, phải cạnh tranh để vươn lên, nhưng xin cho con hiểu được tinh thần cầu tiến, nâng đỡ nhau, để đạt được những điều hoàn hảo hơn và cùng nhau chung hưởng, chớ không phải nhận chìm kẻ khác để mình được tôn vinh.
Để được thế, xin cho con biết luôn thấy nơi người khác hình ảnh của Chúa, đối tượng Chúa yêu thương và vô cùng quí giá trước mặt Chúa.
Con hết lòng cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.

Sưu tầm