Người con gái khi lớn lên vào
đời, tâm lý chung bao giờ cũng mơ đến một mái ấm gia đình. Mơ
ước này tự nó đã gắn liền với vai trò mà người phụ nữ phải có
khi bước vào đời sống hôn nhân gia đình: Vai trò làm vợ.
Trong huấn từ ngày 9 tháng 6
năm 2005, nhân dịp khai mạc Hội Nghị Giáo Sỹ của Giáo Phận Rôma,
Ðức Bênêđíctô XVI đã khai triển nền tảng nhân chủng học của gia
đình như sau: “Hôn nhân và gia đình không phải là một cấu trúc
xã hội hời hợt, hoa trái của những tình trạng lịch sử và kinh tế
đặc thù. Trái lại, vấn nạn về quyền liên đới giữa một người nam
và một người nữ có căn rễ trong ý nghĩa nền tảng căn bản nhất
của nhân loại, và chỉ có thể tìm được câu trả lời từ đó.”
Theo Ðức Bênêđíctô XVI, thì
nguồn gốc con người được tìm thấy trong tương quan giữa nó với
Thiên Chúa, vì nó được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài. Nguồn
gốc ấy bắt đầu từ Ðấng tạo thành và lan rộng đến mỗi cá nhân con
người và quy tụ vào sự hợp nhất giữa người nam và người nữ. Vì
thế, khi hai người nam nữ thưa “có” trong lúc cử hành hôn phối,
họ diễn lại chữ “có” mà Thiên Chúa đã phán ra trong lúc tạo
thành vũ trụ và con người. Nếu tiếng “hãy có” của Thiên Chúa đem
con người vào hiện hữu, thì còn tiếng có của hai người yêu nhau
là làm cho hiện hữu ấy được tái diễn qua ơn gọi hôn nhân. Khi
Thiên Chúa dẫn Evà đến với Adong, thoạt nhìn, ông đã nhận ra đấy
chính là sản phẩm phát xuất từ mình, và ông đã đón nhận nàng như
đón nhận chính mình. Ông đã thốt lên: “Ðây là xương của xương
tôi, thịt của thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là “đàn bà” vì nàng
được rút ra từ “đàn ông” (Gn 2:23).
Con người của Evà là do Thiên
Chúa đã tạo ra từ khúc xương rút ra từ cạnh sườn của Adong trong
lúc ông ngủ. Từ sự chấp nhận ấy, Thánh Kinh ghi tiếp: “Bởi thế
người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà luyến ái với vợ mình và cả hai sẽ
trở nên một” (Gn 2:24). Vai trò làm vợ bắt nguồn từ đó. Như vậy,
sự cộng tác trước nhất và lớn lao nhất của người phụ nữ vào sự
hình thành thế giới chúng ta đang sống là sự cộng tác với người
chồng trong vai trò làm vợ của nàng. Vì từ vai trò này sẽ dẫn
đến vai trò làm mẹ và làm nhà giáo dục sau này.
- Ðồng hàng:
“Người đàn ông không được dựng
nên từ người đàn bà, nhưng người đàn bà được dựng nên từ người
đàn ông” (1 Cor 11:8).
Xuất phát từ Thiên Chúa, con
người mang hình ảnh của Ngài, và trong đó Ngài đã tạo nên con
người có nam, có nữ. Từ căn bản này, người phụ nữ trong đời sống
hôn nhân được coi là người đồng hàng hay ngang hàng với chồng.
Nàng là một chủ thể không thể thiếu trong đời sống của chồng.
Như mặt trái và mặt phải của bàn tay, và như hai mặt của một
đồng tiền. Vai trò này bắt nguồn từ Thiên Chúa, ngay bước đầu
tạo dựng, và vai trò người phụ nữ được nâng lên vai trò làm vợ,
“người trợ giúp đương đối” (Gn 2:18) của chồng. Ðó là lý do tại
sao Thánh Phaolô đã viết: “Hỡi các người chồng, hãy yêu thương
vợ mình như Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội và hiến toàn thân
cho Giáo Hội” (Êph 5:25).
Ngang hàng hay đồng hàng với
nam giới, đặc biệt trong ơn gọi hôn nhân gia đình. Theo Thánh
Kinh, người phụ nữ không có gì để thua kém và bị coi thường bởi
nam giới cả. Bởi vì họ cũng phát xuất từ đàn ông, và được tạo
dựng đồng hàng với nam giới. Tuy nhiên, vai trò làm vợ của nữ
giới hiện nay đang có nhiều biến dạng và thay đổi. Mới đây trong
kỳ bầu cử Hoa Kỳ, ngày 4 tháng 11 vừa qua, tại California khi dự
luật 8 cho phép hôn nhân đồng tính bị đánh bại, đã có hàng chục
ngàn người xuống đường biểu tình đòi hủy bỏ kết quả và hợp pháp
hôn nhân đồng tính. Hiện tượng này đã khiến ta phải suy nghĩ
nhiều về vai trò làm vợ của những phụ nữ hiện nay. Một quan niệm
dẫn tới những tương quan tình yêu và tình cảm ngoài hôn nhân.
- Phụ tá:
“Người vợ không thuộc về mình
những thuộc về chồng; cũng vậy, người chồng không thuộc về mình,
nhưng thuộc về vợ” (1 Cor 7:4). Thánh Phaolô tuy nói về sự liên
kết tính dục, nhưng cũng có thể hiểu rằng vợ và chồng đều cần
thiết cho nhau và vì nhau. Ở đây, chúng ta có thể tìm thấy vai
trò phụ tá, trợ lực của người phụ nữ được nhắc đến trong Thánh
Kinh, đó là “người trợ giúp đương đối” (Gn 2:18) của chồng
mình.
Trong Sáng Thế Ký, khi Adong
gọi vợ ông là “xương của xương tôi, thịt của thịt tôi”, đó cũng
là nhấn mạnh và đề cập đến chính bản thân ông hay chính ông.
Xương của xương tôi, thịt của thịt tôi cũng chính là tôi, hay là
tôi “mình”. Do đó, trong những cư xử thường ngày, người vợ đương
nhiên có quyền và có bổn phận phải phụ lực với chồng, vì làm như
vậy là nàng vui xới và giúp xây dựng chính bản thân. Ðiều này
cũng được tìm thấy trong văn hóa Việt Nam, theo đó, người chồng
gọi người vợ hay người vợ gọi người chồng là mình: “Mình ơi!”.
Do đó, khi người vợ làm tròn
trách nhiệm trợ giúp hay phụ tá một cách tận tình, năng động, và
hết sức mình là làm cho chính “mình”.
- Ðồng hành:
Ca dao Việt Nam có câu: “Thuận
vợ, thuận chồng tát biển Ðông cũng cạn”. Từ ngang hàng qua vai
trò phụ tá, vai trò làm vợ còn có thêm một đặc tính khác nữa, đó
là cùng đồng hành với chồng. Người vợ sẽ cùng với chồng chung
bước trên con đường xây dựng hạnh phúc. Và hạnh phúc của người
chồng cũng là hạnh phúc của người vợ; hay ngược lại, hạnh phúc
của người vợ cũng là hạnh phúc của người chồng. Trong đời sống
hôn nhân không có thứ hạnh phúc cá nhân. Hạnh phúc của tôi hay
của anh.
Ðặc tính đồng hành của người
phụ nữ trong đời sống hôn nhân bổ túc đặc tính ngang hàng và phụ
tá của vai trò làm vợ. Giữa người chồng và người vợ, trong hành
trình cuộc sống, không ai đi trước ai, vì như thế sẽ có người
trở thành kẻ cả, người dẫn đầu của người kia. Cũng đừng đi sau
nhau, vì như thế sẽ tạo mối quan tâm, lo lắng cho nhau. Nhưng đi
song song bên nhau. Cùng sánh bước bên nhau, nâng đỡ nhau tạo
nên một đời sống bình quyền, bình đẳng giữa hôn nhân. Một mặt
người vợ nói lên sự quan tâm, lo lắng, và săn sóc cho chồng. Mặt
khác, không mặc cảm về sự thua thiệt và yếu kém của mình ngay
trong gia đình và ngoài xã hội.
Người vợ và người chồng đồng
hành bên nhau còn tạo nên một cuộc sống bình đẳng, dễ dàng thông
cảm, và chia sẻ với nhau. Nó dẫn tới sự kết hợp và hòa đồng
trong tư tưởng, lối sống.
KẾT
LUẬN
Người phụ nữ khi bước vào đời
sống hôn nhân trong vai trò làm vợ, nàng không những đồng hàng
với chồng, mà còn là người phụ tá đắc lực và nâng đỡ chồng nữa:
“Vợ ngươi như cây nho sai trái, trong nội cung gia thất nhà
ngươi” (Ps 128:3). Ðức Gioan Phaolô II trong cuốn Bước Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng, khi đề cập đến địa vị phụ nữ trong đời sống
xã hội, đã viết: “Nếu kỷ nguyên chúng ta nổi bật với xã hội
phóng khoáng nhờ phong trào đòi bình quyền cho phụ nữ đang lớn
mạnh, thì hẳn phải nói rằng khuynh hướng này là một phản ứng đối
với sự thiếu kính trọng dành cho mỗi phụ nữ”. (tr. 217, Thăn
Tiến 1995). Và ngài khẳng định: “Tôi thiết nghĩ một vài phong
trào đòi bình quyền cho nữ giới hiện đại bắt rễ từ sự thiếu vắng
lòng tôn trọng đích thực dành cho phụ nữ” (tr. 218).
Với cái nhìn của tâm lý xã hội
và tâm lý hôn nhân, mức độ tiến bộ của một dân tộc, một nền văn
minh dựa trên sự bình quyền và tôn trọng vai trò của nữa giới.
Theo Elizabeth Cady Stanton, “Khoa học xã hội khẳng định rằng vị
trí của một người đàn bà trong xã hội đánh dấu trình độ văn minh
của nhân loại”. Ðể kiểm chứng, chúng ta có thể nhìn vào mức tiến
bộ của các dân tộc và các nền văn minh hiện nay trên thế giới,
đặc biệt tại các nền văn hóa mà vai trò, vị thế của người phụ nữ
không được thừa nhận. Thí dụ, tại một số quốc gia Hồi Giáo quá
khích.
Tóm lại, vai trò làm vợ của nữ
giới là một vai trò hết sức cần thiết và quan trọng đến nỗi
Socrates đã viết: “Cứ việc cưới vợ đi. Nếu được người vợ tốt,
bạn sẽ hạnh phúc. Ngược lại, nếu gặp phải người vợ xấu, bạn sẽ
trở thành một triết gia”. |