Bạo hành ngược: Nước mắt đàn ông


Hạt Cát và Bác sĩ Lan Hải

Ngay từ thời xa xưa, ông bà ta đã nói đến những người đàn ông có tướng râu quặp, nổi tiếng “nể vợ” qua câu ca dao quen thuộc:

Làm trai rửa bát, quét nhà
Vợ gọi thì “Dạ, bẩm bà, tôi đây !”

hay tình cảnh thất thế của một đấng quân tử:

Còn thời cưỡi ngựa bắn cung,
hết thời xó bếp cầm thung bắn ruồi.

hoặc tâm trạng chán chường của người vợ chê chồng:

Chồng ai đi ngược về xuôi,
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.

Cho đến nay, những đàn ông dân tộc “sơ vơ” (sợ vợ) đã tăng dân số đáng kể, họ không chỉ xuất hiện trong ca dao dân ca, mà còn ở rất nhiều ban ngành đoàn thể, thuộc nhiều lứa tuổi và thành phần, từ nông thôn ra chốn thị thành, thậm chí phải kêu oan ở chốn công đường.
Khi nói đến bạo lực gia đình, người ta thường nghĩ ngay đến nạn nhân là phụ nữ và trẻ em. Tuy nhiên, có một giới nạn nhân khác chưa được xã hội nhìn nhận đúng mức, đó là đàn ông. Ngày nay, khi có sức khoẻ thể lực hơn, có khả năng làm ra nhiều tiền hơn, có cá tính độc lập và tự quyết hơn, một số phụ nữ có khuynh hướng sử dụng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn trong các mối quan hệ, nhằm đạt được những gì họ mong muốn. Bạo lực do phụ nữ gây ra đang gia tăng, khi cán cân quyền lực trong gia đình và xã hội đổi chiều so với trước đây.
Cùng với phong trào giải phóng phụ nữ, ngày nay đã xuất hiện nhiều “bóng hồng” trong các lãnh vực từng là độc quyền của phái mạnh, và họ chẳng hề thua kém “cánh mày râu” trong việc tấn công người khác giới.
 
“Thế gian được vợ hỏng chồng”:

Theo các nhà xã hội học và các chuyên viên tâm lý, với xu hướng tìm kiếm để bổ sung cho những khiếm khuyết của bản thân, những người đàn ông hiền lành, kém linh hoạt thường chọn người bạn đời có cá tính mạnh mẽ, năng động, tháo vát. Trong đời sống chung với người nhu nhược, những phụ nữ quá mạnh mẽ có phần nổi loạn, sẽ dễ dàng bực bội và phát sinh mâu thuẫn. Về lâu dài biến thành những ẩn ức, có thể dẫn đến tình trạng khó kiềm chế được bản thân, và trở nên mất kiểm soát trong nhiều tình huống. Những người chồng an phận thường không “có chí làm quan có gan làm giàu”, thu nhập thấp hơn vợ, thiếu khả năng và ý chí vực dậy nền kinh tế gia đình, không cáng đáng được chi phí nuôi các con ăn học, khiến vợ con chịu thua thiệt so với các nhà cùng mặt bằng giai tầng xã hội. Ngay cả những người chồng có trình độ và tay nghề cao, mang bản tính thật thà, cả nể vẫn có thể bị “lép vế” như thường, nếu trót cưới cô vợ cầm tinh sư tử.

Các vụ xung đột gia đình thường bắt đầu bằng cảm giác không hài lòng “cơm không lành canh không ngọt” và thái độ lạnh nhạt, coi thường của người phụ nữ, khi người chồng không biểu lộ cảm xúc và hành động đáng mặt nam nhi, không làm chủ được tình hình trong những tình huống cần thiết. Sự giao tiếp đôi bên bị phá vỡ: nhẹ thì người vợ cằn nhằn, trách móc, chê bai chồng, nặng thì tuyên bố “cấm vận”, chiến tranh lạnh. Người chồng thoạt đầu chỉ nín nhịn cho nhà cửa “trong ấm ngoài êm”, dần dần đánh mất vị thế người chủ gia đình và để bà nội tướng lấn lướt, bắt nạt. Mâu thuẫn tăng dần theo những trận “khẩu chiến” và người vợ sẵn sàng “dễ dàng, nhanh chóng, mọi lúc, mọi nơi” xỉ vả, xúc phạm chồng, bất chấp cảm xúc và tính sĩ diện cao ngút trời của người đàn ông. Sau mỗi lần như thế, nàng lại chủ động xin lỗi, vuốt ve tự ái của chồng, có khi nước mắt ngắn nước mắt dài rất tội nghiệp khiến người chồng “bỏ thì thương, vương thì tội”. Mọi việc cứ thế đâu lại vào đấy. Nhiều quá hóa quen, người chồng từ bất ngờ chuyển thành bất lực trước những cơn tam bành của vợ. Sau đó nàng nhanh chóng chuyển sang giật tóc, cấu véo, tát, cắn, quăng mọi thứ đồ đạc vào mặt chồng, kể cả nước bọt,… Rồi dần dà lên “đô” theo kiểu đánh mãi quen tay, trở thành một “nữ võ sĩ” có đẳng cấp.

Nguy cơ bạo hành gia tăng khi người phụ nữ lăng mạ chồng trước mặt con cái, đe doạ đến mối quan hệ cha con, hoặc chẳng thèm kiềm chế thái độ hung hăng khi có mặt con cái, họ hàng thân tộc, người cùng cơ quan, hàng xóm láng giềng. “Bản lĩnh đàn ông thời nay” khiến các ông chồng lúc nào cũng phải tỏ ra cứng rắn, quân tử, dù bị vợ đánh cũng ít khi dám lên tiếng hay tìm sự giúp đỡ. Có anh sau khi “tỏ thái độ” phản kháng còn bị vợ xử lý nặng tay hơn. Tệ hại hơn nữa, người vợ kéo dài bi kịch gia đình bằng cách lôi kéo con cái đứng về phe mình, tạo bè phái, làm ngơ hoặc xúi giục những đứa trẻ tỏ thái độ bất kính, coi thường, hắt hủi chính cha đẻ mình. Điều này khiến người đàn ông mất dần tính tự tôn, sự tự tin và đến một lúc nào đó thực sự nghĩ rằng mình là một kẻ nhu nhược “bất tài vô dụng”, “chẳng làm nên trò trống gì” và coi tất cả những việc tồi tệ này là do lỗi của mình.
 
Những giọt nước mắt khô:

Nhưng chính chút lòng tự tôn còn sót lại đó đã khiến người đàn ông “sơ vơ” không thể khóc lóc, kể lể chuyện nhà “như đàn bà”. Họ âm thầm nuốt những giọt lệ đắng chát vào lòng, chấp nhận “sống chung với lũ, nên lâu lâu phải chịu … lũ quét”.

Sự đay nghiến, chì chiết, kiểm soát tiền bạc, thời gian, cấm vận tình dục, hành hạ tinh thần, bạo hành thể xác là các hình thức mà các bà vợ thường sử dụng khi bạo hành chồng.

Một số phụ nữ dùng lời lẽ ngọt ngào, ra vẻ quan tâm, nhờ vả để dễ bề kiếm soát chồng. Họ có đầy “mưu kế” để đẩy chồng vào tình thế chỉ biết phục tùng, thụ động, “chỉ đâu đánh đấy”, thậm chí chẳng dám có ý kiến gì trong gia đình và dòng tộc. Một số phụ nữ coi chồng như bất động sản của mình, ngăn cấm mọi giao tiếp, quan hệ của chồng với bạn bè, đồng nghiệp. Có chị đến quậy chồng ở công ty hoặc thưa kiện làm mất danh dự của chồng. Có bà vợ còn dùng “chiêu” doạ ly dị, giành quyền nuôi con để gây áp lực với chồng hoặc khủng bố tinh thần bằng cách đập phá đồ đạc, dọa thắt cổ, uống thuốc trừ sâu tự tử,…

Trong tổng số các vụ phụ nữ tấn công nam giới thống kê từ 1929-1985, có 95% vụ xảy ra sau thập niên 1970. Nghiên cứu này cho thấy, trong những thập niên gần đây của thế kỷ này, nạn bạo hành do phụ nữ là thủ phạm gia tăng nhiều hơn.

Kết quả một cuộc thăm dò 8.000 cặp vợ chồng người Mỹ trong vòng 10 năm 1975-1985: có 12,4% xô xát trong gia đình là do vợ tấn công chồng, so với 12,2% là do chồng tấn công vợ. Có nghĩa là, tỷ lệ phụ nữ tấn công nam giới ngang ngửa với tỷ lệ đàn ông giở trò vũ phu với vợ.

Một nghiên cứu khác trong giai đoạn 1985-1994, cho biết con số phụ nữ bị bắt vì sử dụng bạo lực tăng 90%, trong khi đó con số đàn ông vi phạm tăng 43%.

Ở Việt nam, Bộ Công an cho biết: cả nước cứ khoảng 2 – 3 ngày có 1 người bị giết liên quan đến bạo hành gia đình, 80% nạn nhân là nữ, số nạn nhân còn lại là đàn ông. Trong năm 2005 có 14% số vụ giết người liên quan đến bạo hành gia đình (151/1113 vụ, trong đó 39 vụ chồng giết vợ, 16 vụ vợ giết chồng). Chỉ riêng 3 tháng đầu năm 2006, tỉ lệ này là 30,5% (26/77 vụ).

Với những con số thống kê trên, người ta tự hỏi tại sao vấn nạn bạo hành nam giới vẫn chưa được quan tâm đúng mức? Sau đây là một vài lý do:

• Trong hầu hết các trường hợp, những thiệt hại thể lý gây ra bởi nam giới thì nhiều hơn, trầm trọng hơn so với những tổn hại thể lý gây ra bởi phụ nữ. Ảnh hưởng của nạn bạo hành ngược này ít biểu hiện ra ngoài và cũng ít gợi được sự chú ý của người khác.

• Phải mất rất nhiều năm để khuyến khích nạn nhân nữ đối mặt và giải quyết cách hữu hiệu nạn bạo hành gia đình. Ngược lại hầu như không có gì được thực hiện để khuyến khích người đàn ông trình báo sự ngược đãi mà họ là nạn nhân.

• Một phần là do ý thức hệ, người ta cho rằng loại đàn ông bị bạo hành chắc là yếu đuối hoặc không bình thường. Ý nghĩ người đàn ông có thể là nạn nhân của bạo hành là điều không thể tưởng tượng nổi với phần đông mọi người, đến nỗi nhiều người đàn ông đành im lặng cam chịu để giữ thể diện.

• Người ta quan tâm nhiều đến vấn đề bạo hành phụ nữ hơn vấn đề bạo hành nam giới. Có rất ít đề tài nghiên cứu đề cập đến vấn đề này.

• Ngay cả khi người đàn ông trình báo mình là nạn nhân, hầu như mọi người đều kinh ngạc, nên nạn nhân cảm thấy bất lực vì chẳng ai tin lời mình cả. Những vết bầm dập trên thân thể người đàn ông thường bị bỏ qua, vì mọi người nghĩ là hậu quả để lại của trận ẩu đả tay đôi với người đàn ông khác hoặc bị tai nạn lao động hay va quệt trong khi chơi thể thao. Ai mà tin nổi phụ nữ vốn “chân yếu tay mềm” lại làm những việc như thế.

• Người đời thường chạnh lòng xót thương khi nhìn thấy những vết thâm tím trên thân thể người phụ nữ, hơn là những vết bầm trên mặt người đàn ông, vì những dấu vết đó làm người ta liên tưởng ngay đến những vụ đàn ông đánh lộn hơn là do vợ gây ra.

• Đôi khi người ta dường như phớt lờ vấn nạn cho đến khi có những hậu quả gây chết người nghiêm trọng. Nhiều thông tin về bạo hành nam giới bị coi là chuyện vặt vãnh được phóng đại lên.
 
Vì đâu nên nỗi?

Người đàn ông bị vợ “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” có thể dựa vài lý do rất chính đáng:

1. Bảo vệ con cái: Nạn nhân nam giới thường sợ con cái sẽ gặp nguy hiểm khi sống một mình với người mẹ thích bạo hành. Anh ta sợ vợ mình sẽ chia cắt tình phụ tử, khi nói với con cái rằng cha chúng là một người xấu hoặc cha chúng không yêu thương chúng. Ở những nước phát triển, nạn nhân nam thường sợ rằng nếu bỏ đi, họ sẽ chẳng bao giờ được phép gặp lại con lần nữa.

2. Mặc cảm tội lỗi: Nhiều nạn nhân nam tin rằng đấy là do lỗi của họ hoặc cảm thấy họ đáng bị đối xử như thế. Họ mặc cảm về những sự việc chỉ xảy ra cho mình mà những người khác không bao giờ gặp phải. Họ cảm thấy có trách nhiệm và ảo tưởng kiểu sau cơn mưa trời lại sáng rằng: cứ cố chịu đựng biết đâu có thể mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn.

3. Phụ thuộc (hoặc sợ phải sống tách riêng): Người đàn ông là nạn nhân của bạo hành bị lệ thuộc về tinh thần, tình cảm hoặc tài chánh với vợ mình. Ý nghĩ kết thúc mối quan hệ thường gây cho họ sự lo lắng hay suy nhược về thể chất lẫn tinh thần. Có thể nói nạn nhân và thủ phạm “nghiện” nhau như một “cặp bài trùng”, họ sinh ra là để có nhau, đến mức không thể sống thiếu nhau được.

Người ta thường gọi phụ nữ là phái yếu, phái đẹp nhưng xem chừng kết quả các công trình nghiên cứu này đã đưa ra một kết luận: bản năng bạo hành tồn tại ở cả hai giới. Trên thực tế, sự tàn nhẫn do hai giới gây ra không thua gì nhau. Nếu như người nam dễ thực hiện hành vi bạo hành vì sự nóng tính, thì bạo lực do phụ nữ gây ra thường có nguyên nhân phức tạp hơn. Xét về góc độ xã hội, tiến sĩ xã hội học Trịnh Hòa Bình, Viện Xã hội học Việt Nam, nhận định: Hành vi bạo hành cơ học của nữ giới đối với nam có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân như ngộ nhận về sức mạnh của bản thân, hoặc cũng có thể do việc không thể giải tỏa áp lực cuộc sống hằng ngày...

Nhiều thập niên qua, xã hội đã không ngừng nỗ lực đấu tranh cho sự bình đẳng giới, “nam nữ bình quyền”, góp phần quan trọng vào sự tiến bộ của nhân loại. Vấn đề bạo hành cần được nhìn nhận không nằm ở giới tính, mà ở con người. Bạo hành ngược trong đó vợ hành hạ chồng đủ kiểu là hoàn toàn trái với luân thường đạo lý, lỗi đạo làm vợ, góp phần tạo ra những đứa con bất hiếu, vô ơn bạc nghĩa, ngược đãi cha mẹ, những đứa cháu lớn lên hắt hủi ông bà.

 

Trang gia đình | Trang nhà


Gửi Bài - Góp Ý  - Chia Sẻ - Comments