Cô bé Thanh Nga 6 tuổi ngồi bên
cạnh anh nó Thanh Quang 9 tuổi, đang xây công trình trò chơi của
nó. Thanh Mỹ 7 tuổi rưỡi giúp anh nó làm. Mọi người đang im lặng
và hăng hái, bỗng Thanh Nga giang gót chân đụng vào anh nó Thanh
Quang.
“Nga lấy chân đi,” Thanh Quang la lớn khi em
nó giũi chân đụng lần thứ hai.
“Cái gì?” Cô bé Thanh Nga hỏi lại giả vờ như
không biết gì.
Sau cùng, cô bé lấy chân đi. Rồi cô bé lại
giãn chân ra. Anh nó đánh vào chân nó. Cô bé nhảy nhỏm, khóc, và
chạy vào trong nhìn ra cữa sổ. Từ cữa sổ nhìn quanh, cô bé nhìn
thấy bà mẹ đang làm việc trong vườn hồng. Lúc nầy, cô bé mới
thét lên và khóc:
“Mẹ, anh Quang đánh con.”
Bà mẹ ngưng việc và đi vào nhà. Bà nhìn thấy
vết đỏ trên chân của Thanh Nga, yên ủi nó, và lập tức đi gặp anh
nó.
“Quang, tại sao con đánh em con?”
“Nó chọc con trước” cậu bé bảo vệ mình.
“Em không đánh. Anh đánh em, cô bé hét lên, em
không làm gì cả.”
”Mầy cũng đánh tao, cậu bé la lên, mầy đá tao
nhiều lần.”
“Mẹ, con không đá ảnh. Con chỉ giang chân mà
thôi và chân đụng phải ảnh. Con không đá ảnh.”
“Đừng có già mồm” cậu bé nạt lại.
Bà mẹ can thiệp: “Con phải biết xấu hổ. Bé Nga
là đứa nhỏ nhất trong nhà và con là đứa lớn nhất. Con nên là một
mẫu gương tốt. Con thật là ác khi con đánh một đứa nhỏ hơn con.
Bây giờ con xin lỗi em đi và đừng bao giờ đánh em nữa.”
Trong khi bà mẹ quở trách cu Quang, cô bé
Thanh Mỹ ngồi quan sát tất cả.
“Mẹ, con không đánh em” Thanh Quang nói.
“Mẹ biết con là đứa con trai tốt. Nhưng tại
sao con thử mẹ như thế. Tại sao con không cư xử tử tế với chính
con. Hãy xin lỗi em con đi.”
Cô bé Nga ngưng khóc và đứng nhìn anh nó với
sự thích thú. Mặt cuối xuống, liếc mắt nhìn, và nở nụ cười mỉa
mai trên môi. Cậu bé Quang lầm bầm: “Xin lỗi” mắt nhìn xuống sàn
nhà.
Bà mẹ lưu ý: “Bây giờ hãy chơi lịch sự với
nhau. Tụi con nên yêu nhau vì là anh em với nhau. Không được
đánh nhau nữa nghe chưa!”
Bà mẹ rời chúng nó. Cu Quang đi vào phòng
nghiến răng giận dữ. Cô bé Nga hỉnh mũi nói với anh:
“Mẹ nói anh nên lịch sự với em vì em là đứa
nhỏ nhất.”
“Cóc kìa! Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Đó là
chuyện của tao và tao không muốn mầy lẩn quẩn ở đây nữa.”
Cô bé quay một vòng và rời khỏi anh nó.
“Đi mách đi cô bé” cu Quang chọc tức cô bé.
Cô bé đi vào bếp tìm mẹ:
“Mẹ, anh Quang không cho con chơi với ảnh. Ảnh
chọc tức con” cô bé càm ràm.
Bà mẹ đi vào phòng của cu Quang:
“Con ơi, sao vậy? Tại sao con không cho em
chơi với con?’
“Nó làm lộn xộn tất cả đồ của con.”
“Quang, con hư lắm. Con đi ngồi vào ghế ở
trong bếp kia cho tới khi nào con cảm thấy thích chơi với em
con.”
Nói rồi, bà mẹ chộp lấy cánh tay của bé Quang
trong lúc cô em nhìn với sự giận dữ. Bà mẹ đưa cậu bé vào bếp và
đặt vào trong ghế. Cô bé Nga hài lòng và trở lại với Thanh Mỹ:
“Chúng ta đi ra ngoài chơi chị Mỹ.”
“Vâng, chúng ta chạy ra chơi trong lều.”
Cả hai đều phóng nhanh ra ngoài và rời khỏi
đó.
Nhiều lần chúng ta cảm thấy rằng chúng ta cần
có mắt đằng sau đầu. Nếu đuợc như vậy, trong trường hợp nầy, bà
mẹ có thể đã có lợi là nhìn thấy được điều trẻ con nói với bộ
mặt của chúng. Cu Quang, hai vai nặng gánh với trách nhiệm là
đứa lớn nhất, có đủ thời gian thích nghi với hai đứa em của nó.
Tương quan giữa con trẻ với nhau là tranh chấp. Bà mẹ trong cố
gắng giải quyết những trận chiến bằøng cách tách rời chúng ra và
thuyết phục chúng hãy yêu thương nhau, nhưng với cách đó bà chỉ
làm cho vấn đề thêm trầm trọng. Bà đứng về phía đứa nhỏ hơn bằng
cách bảo vệ nó chống lại đứa lớn. Sự bảo vệ thái quá của bà củng
cố quan niệm của cô bé về nó như một đứa sơ sinh, là đứa có thể
đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt. Ở tuổi 6, cô bé có thể tự lo cho
chính mình và không cần phải bảo vệ cho nó nữa. Ngay dầu những
đứa lớn hơn thật sự nên trông chừng nó, nó hoàn toàn có thể tự
bảo vệ được chính mình. Trong việc làm cho bé Quang trở thành
người bị cáo, bà mẹ đã rơi vào bẩy của cô bé Nga để đè anh nó
xuống và để nó nổi lên. Cái trò lên lên xuống xuống nầy tùy
thuộc vào cha mẹ đứng về phía nào trong trận chiến giữa các con
trẻ. Đứa trẻ thất bại kết thân với đứa thành công hơn. Như vậy,
không lâu sau khi trận chiến được giải quyết, trận chiến khác
đang được chuẩn bị. Bất cứ khi nào cha mẹ còn đứng về một phía,
đứa nầy là kẻ chiến thắng, và đứa kia là kẻ chiến bại. Người ta
có thể chắc chắùn rằng người chiến thắng là người xếp đặt để
thuyết phục được cha mẹ về sự vô tội của nó, và thường là đứa
khơi nguồn trận chiến. Cố gắng chiếm được ưu thế và có cha mẹ
đứng về phía mình làm cho vấn đề càng dễ mang lại một trận chiến
từ phía đối thủ. Sự nổi loạn nằm đằng sau trận chiến. Với sự nổi
loạn trong đầu, làm sao những lời giáo huấn của chúng ta về sự
yêu thương nhau có được kết quả? Việc giáo huấn chỉ làm tăng sự
khó khăn vì nó đòi hỏi một điều nên làm mà người ta không thể
đáp ứng nên chỉ làm tăng thêm căng thẳng.
Nếu bà mẹ nhìn cô bé Nga chỉ cần một giây, bà
có thể nhìn thấy được tương quan giữa những đứa con. Luôn có vẻ
thỏa mãn trên nét mặt của đứa con không bị quở trách. Đứa bị
khiển trách không được ưu đãi. Một lần nữa, cô bé cố ý tạo nên
cuộc chiến để đẩy anh nó đến chỗ rắc rối. Điều đó mang lại sự
hồi hộp và càng củng cố vai trò của cô bé. Sự kiện là cô bé chạy
đi tìm cho ra mẹ nó đang ở đâu trước khi khóc là một mấu chốt.
Thanh Mỹ lợi dụng tình thế để nhắc nhủ mọi người về việc nó tốt
là dường nào để củng cố địa vị của nó. Một lần nữa, bé Quang cảm
thấy mình trong vai trò của đứa con xấu. Vì nó đã bị kết án như
vậy nên nó không thèm cố gắng để có liên quan tốt đẹp với em nó.
Khi bà mẹ can thiệp vào sự tranh cãi của chúng, bà củng cố quan
niệm về chính mình của mỗi đứa trẻ, củng cố quan niệm sai lầm về
giá trị của mỗi đứa, và thay vì dạy cho chúng ngưng chiến, bà
lại cho chúng thấy chiến tranh thì có lợi biết bao.
Nếu bà mẹ phớt lờ tình trạng đó đi và cho thấy
sự tin tưởng vào khả năng của cô bé có thể tự lo cho chính nó,
và để điều đó cho chúng nó tự giải quyết những khó khăn của
chúng, cuộc chiến sẽ mất đi sự hấp dẫn của nó. Cái khóc thét lên
của cô bé là một chiến thuật, không phải là kết quả của cuộc
chiến. Nếu bà mẹ không bị ám ảnh mỗi lần cô bé khóc, cô bé sẽ bỏ
đi chiến thuật khóc la vô ích đó.
Dĩ nhiên, nếu bố và mẹ giao chiến, con cái sẽ
bắt chước. Chúng thấy kỷ thuật nầy được dùng bỡi người lớn như
một phương tiện để giải quyết những khó khăn và như vậy chúng
cũng có thể dùng. Trong trường hợp nầy, đánh nhau là phương tiện
để giải quyết vấn đề, có thể trở thành một giá trị của gia đình,
cho dẫu một đứa nổi loạn có thể di chuyển trong chiều hướng
ngược lại và phát triển những giá trị ngược lại với những giá
trị của bố mẹ nó.
Luôn luôn có sự tranh chấp quyền lực trong một
cuộc đánh đấu nhau. Những người bằng nhau không cần dùng những
xung khắc như một phương tiện để chiếm ưu thế. Họ có thể giải
quyết sự khác biệt mà không cần thắng bại. Nhưng khi cảm giác về
vị thế của một người bị đe dọa bỡi sự biến động của người kia,
sự xung đột biến thành một sự đọ sức. Sự thù nghịch được khơi
dậy để tỏ cho thấy sự thiếu chú trọng đến lịch sự và quan tâm,
và người ta tìm cách phục hồi tình trạng đã mất với giá phải trả
của đối phương. Khi chúng ta đứng về phía đứa bé sơ sinh, bảo vệ
đứa trẻ nhất chống lại đứa lớn nhất, chúng ta đứng lên bảo vệ
cho đứa trẻ bị lạm dụng, chúng ta củng cố cảm giác mặc cảm bé
nhỏ vô dụng của nó và dạy nó cách dùng sự bất lực và yếu kém của
nó để chiếm sự quan tâm đặc biệt, càng làm tăng thêm tình trạng
không tốt đẹp mà chúng ta muốn loại bỏ. Khi chúng ta để mặc cho
chúng, chúng sẽ thiết lập một tương quan bình đẳng và công bằng
hơn chúng ta cung cấp cho chúng. Chúng học bằng ảnh hưởng của
thực tại để phát triển sự ngoại giao, bình đẳng, công bằng, công
chính, quan tâm, và sự kính trọng lẫn nhau. Đây là những điều mà
chúng ta muốn con cái chúng ta học. Chúng ta cố gắng giúp chúng
bằng cách đứng ngoài cuộc để cho chúng có khoảng trống để phát
triển.
Người ta có thể có một cuộc thảo luận thân
tình về sự tranh chấp mà không phải dùng đến tay chân để đấm đá,
và vạch ra với con trẻ những cách thế giải quyết những khó khăn.
Tuy nhiên, điều nầy không thể làm được trong lúc trận chiến đang
diễn ra, vì lúc đó lời nói không làm được gì, mà chỉ trở thành
khí giới cho trận chiến đang tiến hành. |