Người Việt Nam chúng ta có câu: “Thương con
cho roi cho vọt. Ghét con cho ngọt cho ngào.” Thường bố mẹ nào
cũng thương con, nhưng không phải thương con là chìu theo ý con,
để rồi con muốn gì được nấy. Thương như thế, con cái rất dễ hư
hỏng. Rất ít cha mẹ biết cách thương con, chỉ ban cho con những
gì cần thiết. Đôi khi bố mẹ cũng cần phải tỏ ra cứng rắn, phải
biết khước từ những yêu sách không được chính đáng của con cái.
Nếu chúng cứng đầu bướng bỉnh, trong một số trường hợp cần
thiết, bố mẹ có khi cũng phải dùng đến những biện pháp cứng rắn
sửa trị để giúp nó nên người. Phương pháp giáo dục như thế mới
thật sự là thương con cái đúng nghĩa.
Đừng bao giờ tỏ ra thương hại. Thương hại là
làm hại con trẻ ngay khi xem ra đúng và có thể hiểu được.
Quốc Phong 7 tuổi rất hồi hộp về chương trình
cho ngày sinh nhật của nó được đi chơi ở nông trại. Những chuyến
đi về miền quê như thế thì rất hiếm. Bà mẹ nói với nó về tất cả
dự tính. Khách của nó có 18 người, gồm cả 2 bà bạn của mẹ nó
giúp vào việc giao thông. Khi ngày đó đến gần, sự raọ rực của
cậu bé và bạn bè nó càng lên cao. Vào ngày sinh nhật của nó, mới
tờ mờ sáng nó đã thức giậy. Bầu trời dày đặc mây mù. Nó hồi hộp
chạy tới hỏi mẹ: “Trời không mưa phải không mẹ ? Chúng ta vẫn đi
có phải không?” Bà mẹ sợ những khó khăn có thể và rất lo âu về
những kết quả của một sự thất hẹn. Thật vậy, bà ta đã xếp đặt
với nông trại, nhưng nếu để ngày khác thì không phải là ngày
sinh nhật của cậu bé và những chuyện như thế thì rất quan trọng
đối với con trẻ. Bà cố gắng trấn an cậu bé: “Ô, má nghĩ trời sẽ
chóng trong sáng. Chúng ta hãy chờ một chút và xem coi.” Quốc
Phong ăn sáng và suốt buổi sáng đứng ở cữa sổ để nhìn trời. Theo
chương trình thì họ phải rời thành phố lúc 2 giờ chiều. 12 giờ
thì mưa nhỏ và 12giờ rưỡi thì trời đổ mưa to. Rõ ràng là những
sắp đặt cho ngày hôm đó sẽ phải bị đình chỉ. Cậu bé rơi nước
mắt, tim nát tan. Một sự thất vọng lớn lao đối với nó. Một cách
nhẹ nhàng bà ôm nó trong vòng tay của bà. “Con ơi, mẹ biết con
buồn. Mẹ xin lỗi. Thật là một thất vọng lớn lao cho con. Mẹ chấp
nhận bất cứ cái gì để làm cho trời ngưng mưa. Nhưng mẹ không
thể. Chúng ta sẽ đi vào ngày mai. Những người ở nông trại nói
chúng ta có thể đi vào ngày mai.” “Nhưng ngày mai không là sinh
nhật của con. Hôm nay mới là. Và con muốn làm tiệc hôm nay.” Mẹ
biết, nhưng trời mưa biết làm sao?” “Không công bằng, không công
bằng! Mọi chuyện không bao giờ xảy ra tốt đẹp cho con.” “Con ơi,
đừng khóc nhiều nữa. Mẹ không thể làm được gì để làm ông trời
ngưng mưa.” Cậu bé buồn, không thể an ủi được. Bà mẹ cũng gần
như muốn khóc vì bà cảm thấy thương hại cho cậu bé đang phải
thất vọng lớn lao.
Phần lớn của nỗi đau khổ cay đắng của cậu bé
thì không cần thiết. Con trẻ rất nhạy cảm với thái độ của người
lớn ngay dầu những thái độ đó không được diễn tả. Vì thế, nếu
chúng ta thương hại một đứa trẻ, nó sẽ nghĩ rằng nó có quyền
thương hại chính nó. Sự đáng thương hại của nó trở thành ngày
càng tăng nếu nó cảm thấy mình thật sự đáng thương. Để rồi, thay
vì đối diện với tình trạng không được may mắn đó và làm cái gì
có thể làm được, nó lại dựa trên sự thương hại của những người
khác, chờ họ an ủi, và dần dần nó mất hết can đảm và muốn chấp
nhận cái hiện tại, không còn muốn vươn lên. Một thái độ như thế
có thể trải dài suốt cuộc đời. Nó có thể bị thuyết phục cho rằng
cuộc đời nợ nó một cái gì trong việc bù đắp cho cái mà nó mất.
Thay vì làm điều nó có thể làm, nó chỉ nghĩ tới điều những người
khác sẽ làm cho nó.
Cậu bé cảm thấy mình bị xúc phạm khi thấy
những sự việc không làm như nó ước muốn. Nó có thể trở thành một
kẻ góp nhặt những đau thương như thế. Chính sự ngẫm nghĩ của bà
mẹ cho rằng sự thất vọng thì quá lớn đối với đứa bé còn quá nhỏ,
đã khiến cho đứa trẻ có cảm giác như thế. Khác xa với ý tưởng
chấp nhận sự việc: nó có thể có bữa tiệc hoặc đi về miền quê
ngày hôm sau, nó trái lại cảm thấy cuộc đời nó hoàn toàn bị tiêu
tan bỡi cơn mưa đó.
Khi người mẹ cho rằng sự thất vọng là quá sức
cho cậu bé, bà tỏ sự thiếu kính trọng đối với con bà. Bà xem nó
quá yếu và không có sức để đáp ứng cuộc đời. Cách của bà làm cho
con bà có một quan niệm sai lầm.
Con cái chúng ta nên học để chấp nhận những
trục trặc ngoài ý muốn nếu chúng ta tránh đi những thương hại.
Bà mẹ có thể đã ngừa được sự cay đắng trục trặc ngoài ý muốn đó
ngay từ đầu. Bằng cách thảo luận với cậu bé chương trình, bà có
thể đề cập đến việc có thể mưa. Trong trường hợp đó, họ có thể
dời đến ngày hôm sau. Một sự chấp nhận không chính thức trong
đầu óc về nhu cầu của tình thế để thích ứng với điều kiện thời
tiết, có thể được chuyển tới cho cậu bé và điều đó giúp nó đối
phó được với sự thất vọng sâu xa của nó. Dĩ nhiên, nó buồn khi
trời mưa vào ngày sinh nhật của nó. Bà mẹ nên giúp con bà ứng
phó với vấn đề bằng cách giữ không để bị sự thương hại ảnh
hưởng. Bà không thể giúp nó được nếu bà tỏ ra thương hại cho
nó.
Cô bé Thùy Trang 9 tuổi, về nhà sau những
tháng ở nhà thương vì bệnh sốt cấp tính. Nó mang nhiều dụng cụ
nhà thương trên người nó. Nhiều lần và nhiều cố gắng được dùng
trong việc vật lý trị liệu để giúp cô bé cách đi đứng và cử động
với những dụng cụ trợ giúp. Nhân viên ở nhà thương đã chỉ dẫn
cho bà mẹ cách chăm sóc cho cô bé. Tuy nhiên, tâm của bà mẹ thì
quá đau buồn cho biến cố đó đến nỗi bà cảm thấy bà đã không lo
lắng đủ cho cô bé. Cô bé mau chóng đáp lại sự quan tâm của bà
mẹ. Khi cô bé khóc nhẹ: “Khó quá, con không thể làm được.” Bà mẹ
vội chạy đến giúp nó. Vì tập đi thì thật sự khó khăn, bà mẹ giúp
cô bé nhiều và càng ngày càng nhiều hơn. Cô bé ngồi trong xe lăn
và càng ngày càng ít tập đi bộ hơn. Hai tay nó yếu ớt. Bà mẹ
muốn làm một cái gì thoải mái hơn cho nó, vì thế bà cho nó ăn.
Bà mẹ tận hiến hết mọi thời gian cho nó, làm mọi chuyện cho nó.
Bà cảm thấy bà muốn bổ túc cho số phận không may của cô bé. Bà
năn nỉ cô bé cố gắng đi, nhưng khi cô bé khóc rên rỉ “đau quá”,
bà lại thấy thương hại. Ông bố cố gắng khích lệ cô bé nhưng lại
sợ bà mẹ, người đã quở trách ông cho rằng ông đòi hỏi cô bé quá
nhiều. Bố mẹ cãi vã nhiều lần về chuyện đó trước mặt cô bé. Cô
bé thu mình tránh bố, và dựa vào mẹ ngày càng nhiều. Chỉ trong
vòng một tháng, cô bé đã thay đổi từ một cô bé tươi cười, can
đảm, và tự tin biến thành một đứa bé không còn kiên nhẫn, đòi
hỏi, và vô dụng. Khi bà mẹ đưa nó đi vào nhà thương như chương
trình đã xếp để bác sĩ khám nghiệm, người ta khám phá ra tình
trạng sức khỏe của nó đã thụt lùi. Bác sĩ khuyên nên nhập viện.
Đau lòng và giận dữ với sự cứng rắn của bác sĩ, người đã khám
phá ra cô bé không chịu cộng tác, bà mẹ liền chối từ. Vào lúc đó
ông bố xen vào, và sau khi tham khảo ý kiến, cô bé được nhận vào
dẫu bà mẹ phản đối. Để việc chữa trị có kết quả, nó cần sự cố
gắng, sự am hiểu, sự thõa thuận, và một quyết tâm muốn khuất
phục mọi cái đang làm suy yếu do sự thương hại của bà mẹ và đưa
cô bé trở lại trên con đường tiến tới. Chỉ sau khi bà mẹ đã gặp
bác sĩ tâm lý, bà mới có thể hiểu được thái độ thương hại của bà
đã làm hại biết bao cho cô bé và khiến nó đi lùi. Cả bố mẹ đã
làm một bước tiến đáng ngưỡng mộ và đã học cách để biến thảm
kịch thành một cố gắng hữu ích.
Một đứa trẻ tàn tật về thể lý như là kết quả
của tật nguyền bẩm sinh như mù, điếc, hay tàn tật dễ trở thành
đối tượng cho sự thương hại. Tránh cảm giác thương hại đối với
những đứa trẻ như thế thì gần như vượt quá bản tính tự nhiên của
con người. Nhưng nếu thương hại chúng, chúng ta chỉ làm tăng
thêm sự tai hại cho chúng mà thôi. Y tá và bác sĩ làm việc với
những đứa trẻ tàn tật rất ngỡ ngàng với sự can đảm chúng thường
tỏ ra và sự thông minh nhờ đó chúng có thể khuất phục hoặc cộng
tác để thoát khỏi sự tật nguyền. Các nhà điều trị cũng rất ý
thức về sự nguy hiểm của việc thương hại. Họ đã nhìn thấy những
bước tiến đã được làm bỡi những đứa trẻ bị làm vỡ tan tành do
tình cảm không thích hợp và sự thương hại của nhiều bố mẹ và các
bà con không được hướng dẫn đúng đắn. Y tá, bác sĩ, và chuyên
gia trị liệu thường tùy thuộc vào những phản ứng của cha mẹ,
những người có những phán đoán sai lầm đối với sự cứng rắn của
những phương cách họ dùng như cho là độc ác, cứng nhắc, và thiếu
tình cảm. Thật ra, các nhà trị liệu tránh được sự thương hại
cách dễ dàng hơn vì họ không vướng mắc vấn đề tình cảm. Tuy
nhiên, khi họ có một đứa trẻ dưới sự chăm sóc của họ trong một
thời gian dài, họ cũng học yêu đứa trẻ nhưng không phản ứng cách
thương hại đối với tình trạng hiểm nguy của nó. Trái lại, họ
khích lệ đứa trẻ tự hào về những hoàn thành của nó dưới những
điều kiện khó khăn.
Thùy Vân 5 tuổi lên cơn sốt và có những triệu
chứng khó nhận ra được ngay tức khắc. Cô bé rất yếu và được nằm
lại trong nhà thương để họ nghiên cứu. Ngoài sự lo lắng, bà mẹ
cảm thấy sắc diện có chút biến chứng xảy ra cho cô bé. Cô bé
được chích thuốc và được chuyền máu. Mặc dầu nửa tỉnh nửa mê, cô
bé vẫn khóc mỗi khi bị chích kim. Bà mẹ phàn nàn vì bà cảm thấy
quá ác đối với một đứa bé đau ốm như vậy. Sự thương hại đối với
cô bé lên cao. Sau khi khám nghiệm và thuốc thang thích hợp, cô
bé từ từ bình phục và được phép về nhà. Sự hồi phục chậm. Bà mẹ
cố gắng phục vụ cô bé. Bà không biết làm gì hơn để bù đắp cho
cơn bệnh trầm trọng và lâu dài. Mỗi ngày cô bé càng khá hơn, nó
đòi hỏi ngày càng thêm nhiều. Bà mẹ dần dần kiệt sức bỡi sự mất
ngủ và bà bắt đầu gắt gỏng. Cuối cùng, một ngày kia, bà nổi trận
lôi đình. Khủng hoảng và ngỡ ngaøng, coâ beù khoùc: “Taïi sao
meï aùc ñoäc vôùi con nhö vaäy trong khi con quaù ñau?” Hoái
haän, baø meï coá gaéng hôn ñeå chòu ñöïng vôùi con baø.
Cô bé đã thấm được sự thương hại của người mẹ
và bây giờ nó thương hại chính nó. Bà mẹ mang mặc cảm tội lỗi về
việc gắt gỏng với con bà và trở lại phục tùng những đòi hỏi
không thích đáng. Một vòng lẩn quẩn đã được thiết lập.
Hầu hết chúng ta đều cảm thấy thương hại đốùi
với những con trẻ khi chúng đau ốm. Dĩ nhiên, một đứa trẻ đau
cần sự chú ý và sự cảm thông của chúng ta. Nó không thể tự nó lo
lắng cho chính nó. Chúng ta phải giúp nó, nhưng phải làm với cặp
mắt để ý đến thái độ chúng ta. Chúng ta phải ý thức về việc mở
lối cho cám dỗ muốn thương hại đứa trẻ đau khổ. Đây là một phần
của cuộc sống. Tốt nhất, chúng ta có thể thõa đáp những nhu cầu
khi nó đau, giúp nó chịu đựng đau khổ và chỉ nó cách ứng phó với
những khó khăn. Đứa trẻ đau cần sự giúp đỡ của chúng ta về sự
dũng cảm, cần lòng tin của chúng ta vào sự can đảm của nó, sự
cảm thông và sự thiện cảm của chúng ta nữa. Sự đau ốm rất ảnh
hưởng trong việc dễ làm mất nghị lực, nó gây cho trẻ một ấn
tượng là còn nhỏ và vô dụng. Sự thương hại làm nó càng mất đi sự
can đảm, làm mất năng lực, làm mất sự tự kỷ. Thương hại ám chỉ
một thái độ của kẻ trên. Nó không nâng đỡ sự can đảm. Bà mẹ khôn
khéo tỏ ra nhã nhặn đối với con khi bà mạnh mẽ khước từ đối xử
với con bà theo phương cách thương hại để giúp nó tiến. Thời kỳ
phục hồi là thời kỳ khó nhất cho cả bà mẹ và đứa con. Nhưng điều
đó có thể được làm dễ hơn nhiều cho cả hai nếu sự thiện cảm và
can đảm thay thế sự thương hại và phục vụ không đúng cách.
Thúy Vân 3 tuổi rất sung sướng vui hưởng chiếc
võng đu đưa mới của nó. Kim Trang 5 tuổi, một đứa trẻ láng giềng
chạy sang từ nhà nó, bắt cô bé Thúy Vân ra khỏi chiếc võng đu để
rồi chiếm ngay chiếc võng đu đó. Thúy Vân đứng dậy, phết đít cô
Kim Trang một cái, và chạy tới chiếc võng đu khác. Bà mẹ nhìn
theo từ chiếc cửa sổ nhà bếp. Thúy Vân ngồi vào chiếc đu khác
chưa được bao lâu thì Kim Trang bỏ cái kia và lại đòi cái võng
của Thúy Vân đang đu. Có tiếng vọng lên. Bà mẹ của Kim Trang
chạy qua và nói với cả hai. Bà khích lệ Kim Trang chọn cái nào
nó thích, đăït nó vào trong đó và băùt đầu đu đưa. Cô bé Kim
Trang đổi ý. Cô muốn cái kia. Mẹ nó thuyết phục Thúy Vân đổi cho
nó, đoạn đu đưa chiếc võng của Kim Trang và rồi Thúy Vân. “Cháu
có thể tự đu đưa,” cô bé Th. Vân nói. Không bao lâu sau đó, cô
bé Kim Trang một lần nữa lại đòi đổi chỗ. Mẹ nó lại phải thuyết
phục. Không chịu đựng được nữa, bà mẹ Thúy Vân nhập cuộc: “Tại
sao chị cứ phải theo ý cô bé suốt như vậy.” “Nó quá nhỏ, tôi
không bao giờ từ chối điều gì. Tôi không bao giờ có thể bổ túc
cho nó cho những khởi đầu mất mát nó có trong cuộc đời.” “Khởi
đầu mất mát có ngĩa là gì?” Mẹ Kim Trang quay sang và thì thào:
“Ô, nó là đứa con ngoại hôn.” Bà mẹ của Kim Trang xem mình như
là một anh hùng quảng đại, người đến để cứu một đứa trẻ hoàn
toàn bất hạnh và bất hợp pháp. Tuy nhiên trong đầu óc bà, tình
yêu và sự trao ban trong thế giới nầy không thể bù đắp cho sự
mất mát to lớn, là nguồn động lực bên trong đã tạo nên hành vi
của cô bé.
Bà mẹ của Kim Trang có một cái nhìn hoàn toàn
không thực tế. Sự thương hại của bà không giúp được gì cho cô bé
mà chỉ tạo ra một kết quả không mấy tốt đẹp. Quan niệm của bà,
một người mẹ nuôi, đã ảnh hưởng cách xử thế của bà cũng như ảnh
hưởng đến cô bé mà bà đã nuôi. Cô bé Kim Trang quá hư hỏng đến
nỗi không thể làm được một sự đóng góp xây dựng nào. Nếu không
có một sự ý thức, cô bé cũng vậy, bị ảnh hưởng bỡi quan niệm và
thái độ sống của bà cho rằng: tôi bất hạnh, thế giới phải đền bù
điều đó cho tôi.
Thương hại là một cái bẩy cho những cha mẹ
nuôi. Đó là một tai họa. Một đứa con nuôi không có chướng ngại
để khuất phục hơn những đứa trẻ khác, ngoại trừ bố mẹ nuôi cung
cấp những chướng ngại qua việc thương hại sai lầm nầy. Đứa trẻ
trong năm đầu tiên không thể phân biệt giữa thành phần trong gia
đình bằng việc con nuôi hay con đẻ. Sự ý thức về những người
chung quanh nó giống với ý thức của một đứa trẻ được sinh ra
trong gia đình. Vì lợi ích của sự thích nghi đối với đời sống,
nó không bao giờ có một vị thế đặc biệt. Những đứa trẻ xem mình
là đặc biệt trong một cách thế nào đó tậu lấy những giá trị sai
lầm và phát triển những mong đợi sai lầm đó. Đứa con nuôi cần có
sự kính trọng và chăm sóc giống như đứa con đẻ.
Một bà mẹ có hai đứa con nuôi, khi chúng lớn
lên, chúng được cho biết rằng chúng được nhận làm con nuôi bằng
cách lưu ý điều đó cách rất tự nhiên. Khi chúng muốn biết rõ
điều đó có nghĩa là gì, bà nói rõ rằng thỉnh thoảng có người
không có khả năng nuôi con, trái lại có người có khả năng nuôi
con nhưng lại không có con, như thế không tốt sao cho đứa bé có
thể thay đổi vị thế của nó. Và rồi, một sự thảo luận chính thức
về cách thức giải quyết một số những vấn đề khó khăn, sẽ loại bỏ
được những trục trặc còn lại. Bấy giờ những đứa con nuôi được
chấp nhận nếu bố mẹ hai bên đồng ý.
(Ông bố
choàng tay ôm các con và nói với giọng cứng rắn rằng: “Đối diện
với cái chết của mẹ, chúng ta cảm thấy một nỗi đau khổ lớn lao,
nhưng hãy nhớ: chúng ta phải thương mẹ với sự can đảm, không
phải với sự thất vọng. Đó là cách mẹ các con ước muốn, và bố tin
chắc rằng các con có thể làm được điều đó như mẹ ước muốn.”)
Anh Thư 9 tuổi, Mỹ Hoa 7 tuổi, và Anh Tuấn 6
tuổi, sống với dì Mỹ Linh và 2 đứa con gái của bà: Huyền Linh 8
tuổi và Thục Linh 5 tuổi vì bà mẹ của chúng đang nằm bệnh viện.
Ông bố ăn tối với chúng mỗi tối và rồi đi nhà thương canh mẹ.
Thỉnh thoảng dì Mỹ Linh cũng đi và bấy giờ ông dượng Anh Minh cố
gắng làm cho chúng vui với những câu chuyện hoặc trò chơi. Dì Mỹ
Linh cảm thấy mình kiệt sức và xuống tinh thần, một phần vì bỗng
nhiên phải chăm sóc thêm ba đứa trẻ, và một phần vì sự quan tâm
đối với người em rất thân thiện với bà. Những người lớn đều biết
rằng bà mẹ của Anh Thư đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm
vì bệnh ung thư. Họ không muốn cho con trẻ biết về bệnh tình của
người mẹ. Cách đây một năm rưỡi, bà mẹ cũng ở nhà thương và trở
về với chúng. Bất cứ lúc nào chúng nó hỏi “khi nào mẹ về”, chúng
đều được nói rằng”sắp về”. Chúng cảm được có một sự ẩn dấu đằng
sau những cái nhìn lo lắng và những cuộc nói chuyện nho nhỏ giữa
bà dì và ông bố của chúng. Không thể hiểu được, nhưng chúng cũng
cảm thấy khó chịu nên trở thành biến chứng, sinh ra càu nhàu,
bực bội, và cứng đầu. Anh Thư mất sự lo lắng của bà mẹ hơn những
đứa khác và nhận ra được tình trạng đó hơn. Vì Anh Thư là cô bé
lớn nhất nên dì Mỹ Linh yêu cầu nó chăm sóc cho những đứa nhỏ
hơn và cho nó ấn tượng có bổn phận của một người lớn nhất. Cô bé
Anh Thư sẵn sàng gánh vác nhiều trách nhiệm nhưng lại phát triển
một thái độ của kẻ trên nên bọn trẻ không thích. Điều đó thêm
vào sự phức tạp mà chúng đang sống.
Rồi bà mẹ chết, và nỗi đau khổ của người lớn
không thể dấu được nữa. Các trẻ phải được thông báo. Ông bố yêu
cầu để cho ông yên với ba đứa trẻ trong một thời gian, và dì Mỹ
Linh sẽ nói với hai trẻ của bà. Dì Mỹ Linh đau khổ đến tột độ.
Ông bố gọi ba đứa trẻ lại và nói: “Các con cưng của bố, bố có
điều rất nghiêm chỉnh muốn nói với các con.” Cả ba trẻ đã cảm
được cái gì không may, đã ý thức được về bầu không khí đã thay
đổi trong nhà; “Có phải có gì không tốt đẹp xảy ra cho mẹ phải
không?” cô bé lớn Anh Thư hỏi. “Mẹ các con đã về trời hôm nay để
ở với Thiên Chúa. Mẹ các con rất hạnh phúc ở đó. Chúng ta cần
phải can đảm bây giờ và phải lo cho nhau.” Phải mất mấy giây để
điều ông bố nói được cảm nghiệm. Bị khủng hoảng, cô bé lớn khóc:
“Tại sao mẹ bỏ chúng ta, bố? Tại sao mẹ phải về trời bây giờ?
Chúng ta cần có mẹ!” “Chúng ta không thể làm gì được về điều đó
con ơi! Thiên Chúa gọi mẹ của chúng con về với Ngài và chúng ta
không thể hỏi điều Ngài làm.” Bé Mỹ Hoa hỏi: “Ba muốn nói là mẹ
không còn về nhà nữa?” Ông bố nhè nhẹ trả lời: “Đúng đó con!”
“Nhưng con muốn mẹ!” cô bé út vừa nói vừa khóc. Ông bố an ủi
chúng và biết rằng sự đau khổ của chúng cũng cần được bày tỏ.
Khi các trẻ yên tĩnh, ông bố nói: “Không có mẹ rất khó khăn.
Chúng ta cần có một thời gian để làm quen. Chúng ta cần phải
cùng nhau làm việc và giúp nhau. Chúng ta sẽ làm một chương
trình sớm hết sức như cái gì cần phải làm kế tiếp. Vào lúc đó,
Dì Mỹ Linh và hai đứa trẻ của bà vào phòng. Hai đứa trẻ của bà
khóc vì những người chung quanh hơn là vì chúng trực tiếp liên
quan đến thảm kịch. Dì Mỹ Linh ôm tất cả các bé vào vòng tay, ấp
úng giữa những giọt nước mắt: “Những con cừu non tội nghiệp.
Những con cừu non không mẹ tội nghiệp!” Ông bố lắc đầu nhìn Dì
Mỹ Linh, nhưng Dì Mỹ Linh không hiểu. Các trẻ lại bộc khóc đau
khổ, không mấy chốc lên đến tột đỉnh. Ông bố ra hiệu cho ông
dượng yêu cầu đưa các con gái ông đi vào phòng một lúc. Ba đứa
trẻ cũng ra khỏi vòng tay của bà dì và trở lại bên ông bố. Ông
chồng sau cùng khuyên bà vợ Mỹ Linh nằm xuống nghỉ một chút. Bấy
giờ ông bố choàng tay ôm các con, nói với giọng cứng rắn rằng:
“Bây giờ, các con, chúng ta cảm thấy sự đau khổ nầy. Hãy nhớ:
chúng ta phải nhớ mẹ với sự can đảm, không phải với sự thất
vọng. Đó là cách mẹ các con ước muốn và bố tin chắc rằng các con
có thể làm được điều đó như mẹ ước muốn. Nào, hãy quay quần bên
nhau.” Ông im lặng chờ đợi các con thích ứng. Khi chúng đã trở
nên sẵn sàng, ông nói tiếp: “Đến giờ cơm tối rồi. Dì Mỹ Linh cần
chúng ta giúp đỡ. Tất cả chúng ta chú ý đến bữa ăn tối trên
bàn.” “Bố, con không thể ăn bây giờ” cô bé lớn ấp úng giữa những
giọt lệ. “Con ơi, con cần phải sống. Nếu con không ăn tối nay có
thể được, nhưng vì bữa cơm tối đã sẵn, con sẽ tìm thấy cái con
có thể ăn được.” Và với những lời khích lệ, ông bố đã thuyết
phục được tất cả các con và đề nghị một công việc cho mỗi đứa.
Con trẻ bị xuống tinh thần bỡi sự thương hại
mà dì Mỹ Linh đã biểu lộ. Ông bố tỏ ra can đảm và sự nhạy cảm
cần thiết trong hoàn cảnh đó, và với một chương trình hướng về
điều sẽ làm kế tiếp, ông đã đưa những đứa con mình sớm đi vào
con đường hồi phục.
Rất nhiều thảm kịch như thế xảy ra trong cuộc
sống chúng ta. Là những người lớn, chúng ta được mong đợi chấp
nhận và làm cái gì tốt nhất đối với hoàn cảnh. Khuynh hướng tự
nhiên của chúng ta là cảm thấy thương hại cho các đứa trẻ vô tội
trong tình trạng bi đát. Tuy nhiên, sự thương hại của chúng ta
chỉ mang lại những hậu quả tai hại hơn là thảm cảnh nữa. Nếu
người lớn cảm thấy thương hại cho một đứa trẻ, đứa trẻ càng cảm
thấy chính đáng trong việc thương hại chính mình. Nó có thể dễ
dàng tiêu phí suốt cuộc đời, thương hại cho chính nó, và rồi
không thể nhận lấy trách nhiệm để ứng phó với những bổn phận của
cuộc đời và tìm một cách vô ích một ai đó để bổ túc cho sự mất
mát mà đời dành cho nó. Thật khó cho nó để trở thành một thành
phần sản xuất của xã hội vì sự chú ý của nó hoàn toàn tập trung
vào chính nó và vào cái nó nên có như một quyền lợi chính đáng.
Một trong những tình trạng nguy khốn nghiêm
túc nhất cho một đứa trẻ là mất một bố mẹ. Thời gian tái lập
theo sau sự mất mát đó có thể nhuộm mầu tang thương suốt cả cuộc
đời đứa trẻ. Nếu là bà mẹ chết thì càng khó khăn hơn nữa. Những
đứa trẻ như thế cần sự nâng đỡ về tình cảm có thể từ mọi người
chung quanh chúng. Điều cuối cùng chúng cần đó là sự thương hại.
Sự thương hại là cảm xúc tiêu cực – nó làm cho cá nhân con người
cảm thấy mình nhỏ bé, không quan trọng, làm mất đi sự tự tin, và
tiêu diệt niềm tin vào cuộc đời. Sự chết là một phần của sự
sống. Nó phải được chấp nhận. Không có sự chết, không thể có
được cuộc đời. Dĩ nhiên, chúng ta không muốn nhìn thấy những đứa
trẻ bị tổn thương bỡi cái chết của một bố mẹ. Nhưng sự đau buồn
của chúng ta không thể khôi phục sự sống cho người chết. Trong
khi sự chết xảy ra, sự sống vẫn tiếp tục. Con trẻ cần ý thức về
bổn phận của mình để tiếp tục xây đắp cuộc đời của chúng một
cách can đảm ngay cả dưới những điều kiện cực kỳ khó khăn. Sự
thương hại trong những lúc như thế chỉ làm kiệt quệ sự can đảm
mà chúng cần có trong những lúc đó.
Chúng ta không thể bảo vệ con trẻ chúng ta xa
cách cuộc đời. Sức mạnh và sự can đảm mà nhờ đó chúng ta thõa
đáp cuộc sống trong thời kỳ trưởng thành, được xây dựng trong
thời thơ ấu. Điều đó có nghĩa là chúng ta học cách chấp nhận nó
trong bước đường dài của chúng ta và làm sao để tiếp tục đi. Nếu
chúng ta muốn hướng dẫn con trẻ chúng ta đi vào trong sự chấp
nhận cuộc đời cách can đảm đó, nếu chúng ta muốn dạy cho chúng
sự hài lòng đến từ sự khắc phục những bất trắc, và khích lệ khả
năng chúng làm điều phải được làm kế tiếp, chúng ta phải can
đảm, không nhường bước cho sự thương hại. Chúng ta phải chú
trọng đến sự thương tâm mà chúng ta thường học hỏi từ những nền
văn hóa, tránh hành động theo phản ứng tự nhiên, và hãy tỏ sự
thiện cảm và cảm thông bằng cách nâng đỡ các trẻ ứng phó với vấn
đề đau khổ cũng như trong việc tìm cho chúng một lối đi về phía
trước. Điều đó có nghĩa là chúng ta không bỏ rơi con trẻ cho cơn
khủng hoảng. Trái lại, chúng ta cùng nhau đến để nâng đỡ chúng
như chúng ta nâng đỡ một người lớn trong cơn khốn cùng của họ.
Có thể nói: hoặc lúc nầy hay lúc khác nhiều
người trong chúng ta đã chạm trán với một số người lớn tỏ ra
không thích sự thương hại, những người không muốn gặp những ai
tỏ sự thương hại như một hình thức của thiện cảm. Trong những
trường hợp như thế, chúng ta phải cẩn thận diễn tả cảm tình muốn
cảm thông với sự tin tuởng vào khả năng của họ trong việc ứng
phó những hoàn cảnh khó khăn mà họ đang gặp phải. Và chúng ta
cũng phải làm như thế đối với các con trẻ của chúng ta. Sự kính
trọng đối với con trẻ đòi hỏi chúng ta phải nâng cao ý thức về
trách nhiệm, về phẩm giá, không được làm hạ giá bằng cách kích
thích sự tự ái của chúng. Trong cơn khủng hoảng, trẻ con nhìn
đến người lớn để tìm một dấu chỉ như phải ứng phó cách nào với
tình cảnh không quen thuộc đó. Chúng cảm được thái độ chúng ta
và dùng nó như một hướng dẫn.
Thật không khó để phân biệt giữa thương hại và
thương tâm. Thương tâm ám chỉ: tôi hiểu cảm giác anh có, nó làm
anh đau nhiều, cái khó khăn anh đang phải chịu. Tôi đau lòng về
chuyện đó và tôi sẽ giúp anh thắng vượt những khó khăn đó. Còn
thương hại ám chỉ một thái độ của kẻ trên, thái độ của một chủ
nhân ông đối với người được thương hại. Anh là một cái gì đáng
thương hại, tôi cảm thấy thương hại cho anh. Tôi sẽ làm tất cả
điều tôi có thể làm để bù đắp vào cái mà anh thiệt thòi. Cảm
giác đau buồn về điều xảy ra là thương tâm. Còn cảm giác đau
buồn cho anh là người mà điều đó xảy ra là thương hại. Chúng ta
có khuynh hướng nghi ngờ khả năng của tất cả những con người mà
chúng ta xem là nhỏ và yếu, và như một kết quả, chúng ta làm suy
giảm sự đầy sinh lực mà chúng có thể phát huy nếu sự thương hại
của chúng ta không làm chúng co rút vào sự thụ động để rồi chỉ
còn biết phàn nàn và đòi hỏi.