Hôm qua, tôi đưa người chị họ đến thăm người
bạn của chị ta. Vì lâu ngày không gặp, nên hai người có nhiều
chuyện muốn tâm sự với nhau lâu giờ. Đến chiều người bạn muốn
mời chị tôi và tôi ở lại dùng cơm tối với gia đình cho vui,
nhưng chị tôi vội vã trả lời: “Tôi tuyệt đối phải có mặt ở nhà
vào lúc 5 giờ chiều.” Người bạn hỏi: “Tại sao thế?” “Vì tôi đã
nói với con bé Mỹ Huyền tôi như vậy. Nó sẽ nhìn ra cữa sổ. Nếu
tôi không về nhà đúng giờ, nó sẽ sợ hãi. Nó sẽ khóc nhiều đến
nỗi nó có thể sinh bệnh.”
Mỹ Huyền có một bà mẹ được huấn luyện chu đáo.
Sự sợ thường được dùng để điều khiển bà mẹ. Sự sợ của bé Mỹ
Huyền là thật. Cuộc sống của nó thật đáng tội nghiệp bỡi sự sợ
sệt đó và bà mẹ dĩ nhiên không muốn gây thêm sự sợ hãi cho nó.
Một tình trạng như thế làm thế nào đã phát triển được trong thế
giới nầy?
Tất cả chúng ta đều có cảm xúc. Chúng là chất
xúc tác có thể đốt cháy lò lửa hành động. Không có chúng, chúng
ta không quyết định được, không có hướng đi. Một cách không ý
thức, chúng ta tạo nên những cảm xúc làm tăng cường ý hướng
chúng ta. Chúng ta chọn nhiên liệu mà chúng ta muốn dùng để cho
chúng ta một lực đẩy cần thiết. Cô bé không bị bệnh sợ hãi. Nó
làm chủ sự sợ hãi và muốn dùng nó để điều khiển mẹ nó. Vấn đề là
nó tạo điều đó cho chính nó và biến điều đó thành sự thật. Không
phải là chuyện giả đò nhưng là rất thật.
Việc dùng sự sợ hãi như một chiến thuật có thể
được khám phá ra bỡi cô bé một cách tình cờ. Một khi cô bé đã
nhận thấy rằng có một cái gì lợi ích mà cô có thể gặt hái được
trong phương cách đó, dĩ nhiên cô ta sẽ đầu tư vô đó. Bây giờ
thì cô bé bị hút cuốn vào trong mạng lưới của hành động riêng
cô. Bà mẹ cũng phải chia xẻ trách nhiệm vì chính bà, người bị ấn
tượng bỡi sự sợ hãi của cô bé, đã cho cô bé thấy sự thành công
của nó trong chiến thuật dùng sự sợ hãi.
Mọi người chúng ta đều cảm thấy sợ hãi và tất
cả chúng ta đều nhận thức rằng chúng ta không thể làm được gì
khi chúng ta sợ hãi. Vì thế, dường như sợ hãi là một sự xa xỉ mà
chúng ta có thể cung cấp một cách bệnh hoạn. Thật ra, nó cho
thấy rằng người ta không sợ vào lúc nguy hiểm của cuộc đời,
nhưng chỉ trước hoặc sau đó, khi sự nhận thức và sự tưởng tượng
của chúng ta càng đi xa hơn, như cái gì sẽ xảy ra hoặc cái gì đã
có thể xảy ra. Nếu một người bị một tai nạn giao thông, họ rất
bận rộn để đối phó với tình trạng đang xảy ra. Chỉ sau khi khủng
hoảng qua đi, sự sợ hãi mới bắt đầu. Điều đó cho thấy rằng chúng
ta không cần sợ để tránh nguy hiểm. Trái lại, sự sợ lại càng làm
tăng sự nguy hiểm. Sợ hãi ám chỉ rằng chúng ta không làm chủ
được tình thế. Và khi chúng ta sợ, chúng ta không thể làm được
gì vì nó làm tê liệt chúng ta.
Chúng ta phải phân biệt giữa phản ứng của
khủng hoảng và sự sợ hãi. Một tiếng động lớn hoặc một sự rơi của
một vật gì có thể làm sợ hãi một đứa trẻ. Nhưng đây chỉ là một
phản ứng tạm thời ngắn ngủi. Cảm giác sợ sệt như một sự tiếp tục
cái kinh nghiệm làm sợ sệt đầu tiên, chỉ phát triển khi cha mẹ
cũng trở nên sợ sệt và vì thế ảnh hưởng đến sự sợ hãi tiếp tục
của đứa trẻ.
Một đứa trẻ nhỏ thình lình đối diện với một
tình trạng mới mẻ và xa lạ, nó xem ra sợ hãi, và có nhiều chọn
lựa đối với nó. Nó có thể ngừng và chờ xem người lớn làm gì,
hoặc nó có thể rút lui và chạy trốn.
Bé Huấn 16 tháng tuổi thấy con chó lần đầu khi
mẹ nó đem nó đi thăm bạn bè. Đối diện với một vật biết di động
lạ lùng nầy, nó đeo vào cổ mẹ nó. Mọi người lớn chung quanh
khích lệ nó: “Nó không cắn đâu. Hãy xem. Nào hãy vuốt ve nó. Nó
thích con đó. Đừng sợ!”
Cậu bé thẩm định tình thế rất nhanh. Không
chắc chắn như phải làm gì và phản ứng của người ta đối với sự sợ
hãi của nó cho nó một ám chỉ, nó dùng lấy để che lấp sự lẫn lộn
của nó và để sự hồi hộp tiếp tục. Và điều đó có thể đã bắt đầu
khiến nó xử dụng sự sợ hãi của nó. Giọng điệu và hành vi của hầu
hết những người lớn ở trong những trường hợp như thế càng làm
tăng thêm sự sợ hãi. Có giọng điệu quá lo lắng, cũng như sự bận
rộn trong hành vi của họ. Nó hoàn toàn nhạy cảm để có thể tạo
nên một hành động như thế giữa những người lớn bỡi sự sợ hãi.
Đây thường chỉ là sự khởi đầu. Sự sợ càng gia tăng càng mang lại
những sự bảo đảm được phóng đại nhiều hơn và ngay cả sự chú ý
đặc biệt hơn như đứng sửng bất động. Sự miễn cưỡng tự nhiên đã
biến thành sợ hãi và sự sợ đã trở thành hữu ích như một phương
tiện kích động hành động của người lớn.
Con trẻ giống như những bức tranh tự nhiên
được phơi bày nơi phòng triển lãm. Chúng không có sự tự chế vì
chúng không biết những hậu quả của hành động chúng. Dần dần
những kinh nghiệm với những hậu quả chắc chắn của một số hành
động dẫn những đứa trẻ tới việc phát triển một “chiến tuyến” và
cuối cùng là sự khôn ngoan của tuổi trưởng thành. Chúng ta có
những ý hướng nhưng không dám làm vì về phương diện xã hội không
được chấp nhận. Những đứa trẻ không quan tâm mấy đến vấn đề xã
hội có thể chấp nhận và vì thế phản ứng tự do. Cảm giác của
chúng lộ trên khuôn mặt. Khi chúng gặp một tình trạng bất ngờ,
chúng co rút lại, lượng giá cơ hội và tìm xem dấu hiệu như người
lớn sẽ phản ứng cách nào. Những người lớn đã ám chỉ cho đứa trẻ
rằng họ nghĩ là nó sợ. Và nó đáp lại sự mong đợi của họ bằng
cách để họ phục vụ mình.
Bà mẹ có thể tin tưởng vào khả năng của đứa
trẻ đối với một kinh nghiệm mới. Bà có thể lùi bước và để cho nó
tự đối phó vấn đề. Trước hết, bà có thể ngưng giả định cách thức
đứa trẻ sẽ đáp ứng và ngưng cố gắng xếp đặt những phản ứng cho
nó. Hãy để đứa trẻ đối diện và giải quyết vấn đề. Nếu nó tỏ ra
sợ sệt, bà mẹ nên giữ hoàn toàn không để bị một ấn tượng rối
loạn nào. Bà mẹ sợ rằng cậu bé sẽ sợ và như thế mang lại cái mà
bà không muốn nó xảy ra. Tuy nhiên, nếu đứa trẻ không thể gây ấn
tượng sợ hãi cho bà mẹ, cảm xúc mà nó muốn người mẹ dành cho nó
sẽ không xảy ra. Đó chính là những lý do sự sợ hãi có thể được
dùng cho những mục tiêu mà con người có thể nhắm đến.
---o0o---
Vào lúc 5 tuổi, Mỹ Quyên không còn sợ con cào
cào nữa. Tuy nhiên, một ngày kia một con cào cào thật to nhảy
lên người cô bé và làm cô hết sức ngạc nhiên. Cô hét lên và lấy
tay hất con cào cào nhưng nó lại nhảy vào trong áo của cô. Cô bé
cảm thấy khó chịu vì thế cô lại hét lên, và tiếng hét của cô bé
đã làm anh cô 9 tuổi cười cô bé. Sự cố gắng để hất con cào cào
càng làm cho anh cô buồn cười hơn. Cô bé vì thế càng la to hơn
vì cô giận anh cô. Bà mẹ chạy ra khỏi nhà, mặt tái mét và run
rẫy vì sợ.
Chiều hôm đó, anh nó đến với hai bàn tay chụm
lại. “Có món quà cho em đây!’ “Cái gì?” Anh nó mở tay ra và con
cào cào nhảy ra. Cô bé hét to và bố mẹ vội chạy ra. Bố mẹ khiển
trách anh nó và mắng cô bé về sự điên khùng của nó. Từ đó trở
đi, cô bé cứ thét cách sợ hãi khi nhìn thấy con cào cào. Nhưng
cô ta biết cô ta không thật sự sợ con cào cào như thế. Đó chính
vì sự sợ của cô có một giá trị nào đó mà cô cảm thấy được. Sự
việc bố mẹ đã mắng cô ta là điên khùng là một việc vô ích nhất
mà bố mẹ đã làm. Đây là sự thách thức càng làm chồng chất thêm
cao vị thế của cô về việc sợ hãi đó. Nếu bố mẹ đã không bị ám
ảnh bỡi sự la hét của cô bé, họ đã loại được mục đích của sự sợ
hãi của cô.
Quốc Huy 4 tuổi đang chơi với chiếc xe điện tử
bên cạnh cây giáng sinh. Thình lình nó thụt người lại và hét
lên. Nó bị điện giật. Bà mẹ ngồi gần đó nhìn thấy như vậy, bà bế
nó lên và an ủi nó: “Cưng ơi, con có sao không? Chiếc xe điện
trục trặc. Khi bố về, bố sẽ sửa cho.”
Chiều hôm đó, ông bố tìm ra được căn bệnh và
đã sửa được nó. Nhưng cậu bé từ chối không chịu chơi với chiếc
xe đó. Nó co người lại và hành động cách sợ hãi. Nó chui đầu vào
lòng mẹ mỗõi lần mẹ nó cố gắng kéo nó lại về phía bố nó để chỉ
cho nó cách điều khiển. Cuối cùng, bố mẹ nó liếc nhìn nhau. Mẹ
nó lắc đầu nhè nhẹ. Bố nó gật đầu đồng ý, rời chiếc xe điện và
ngồi xuống với tờ báo ban chiều. Không ai nói gì cả. Cậu bé cũng
không động đậy đến chiếc xe. Hai ngày sau đó, ông bố tháo chiếc
xe cùng với những đồ trang trí giáng sinh và sắp xếp cẩn thận
vào trong hộp. Cậu bé theo dõi tiến trình một cách chú tâm mà
không nói gì. Tuy nhiên, vào lúc lên giường ngủ, nó chồm dậy
nói: “Bố ơi, con muốn chơi với chiếc xe điện của con.” “Chúng ta
sẽ lấy nó ra sớm. Con muốn bố đọc chuyện gì tối nay?”
Cậu bé miễn cưỡng chơi với chiếc xe lửa là
chuyện tự nhiên sau một kinh nghiệm không được vui lắm. Bố mẹ
hiểu điều đó. Nhưng khi cậu bé tiếp tục kháng cự, từ chối chấp
nhận cách tin tưởng rằng ông bố đã sửa xong, và khi nó bắt đầu
kéo họ dấy mình vào những lo lắng sợ sệt của nó, bố mẹ bỏ lửng
chuyện đó và xuôi thuyền về hướng khác. Họ nhận thấy rằng cậu bé
còn quá trẻ để hiểu những nguyên tắc của giòng điện. Họ không
muốn cố gắng thuyết phục cậu bé để hiểu về chuyện đó. Chiếc xe
được xếp qua bên. Và bây giờ nó lại khám phá ra nó thích chơi
chiếc xe đó. Sự sợ của nó không có cơ hội để trở thành một dụng
cụ hữu ích nữa. Ông bố tránh giảng giải về sự điên rồ, cũng
không cần khiển trách. Ông chấp nhận phản ứng của đứa con và xếp
chiếc xe cho vào hộp. Khi cậu bé muốn chơi trở lại. Ông hứa lấy
nó ra sớm và đổi đề tài.
Bà mẹ cố gắng giúp bé Yến Vy 3 tuổi không sợ
bóng tối. Bà đặt cô bé vào giường, bật bóng đèn ở ngoài phòng
lên, và tắt bóng đèn ở phòng ngủ của nó. “Mẹ, mẹ!” Cô bé hét lên
cách sợ hãi. Bà mẹ yên ủi: “Cưng ơi, mẹ đây. Mẹ không rời con.
Không có gì đáng sợ. Nầy xem, mẹ ở với con.” Nhưng con muốn bật
đèn lên. Con sợ bóng tối” “Con ơi, có đèn ngoài kia rồi và mẹ ở
đây nè!” “Mẹ không rời đây nhé!” “Không, mẹ không rời đây cho
tới khi con ngủ.” Phải mất một thời gian khá lâu cô bé mới ngủ.
Cô bé thường chồm dậy để xem bà mẹ có ở đó với nó không?
Bà mẹ nghĩ rằng bà có thể lần lần tập cho cô
bé quen dần với bóng tối bằng cách di chuyển ánh sáng xa dần đi.
Bà thất bại không nhìn thấy cách thế cô bé dùng sự sợ để giữ mẹ
gần nó và bắt bà phục vụ cho nó. Trẻ con diễn tả sợ hãi là muốn
thuyết phục. Chúng xem ra đối với chúng ta là quá nhỏ và vô
dụng, và cuộc đời xuất hiện đáng sợ đối với chúng. Tuy nhiên,
nếu chúng ta hiểu được cái gì nằm đằng sau hành động của nó,
chúng ta có thể trở nên ý thức rằng với sự đáp ứng của chúng ta,
chúng ta không giúp được đứa trẻ, nhưng càng làm cho nó xử dụng
sự sợ hãi như một cách thế để điều khiển chúng ta.
Bà mẹ có thể mở đèn bên ngoài và tắt đèn phòng
ngủ, đặt cô bé lên giường, và không để ý gì đến sự sợ hãi của
nó, và để nó ở đó với lời khích lệ: “Con sẽ học không có gì phải
sợ nữa.” Nếu cô bé có khóc, bà mẹ nên hành động như cô bé đang
ngủ. Nhưng điều nầy không thể làm được ngoại trừ bà mẹ loại bỏ
giả thuyết thông thường là: bà ác độc nếu bà phớt lờ sự đau khổ
của con cái. Chúng ta cảm thấy bị ép buộc phải an ủi đứa trẻ
đang đau khổ. Tuy nhiên, khi chúng ta thấy rằng bằng cách làm
như thế, chúng ta chỉ làm tăng sự đau khổ vì đứa trẻ chỉ muốn
chúng ta chú ý đến nó hoàn toàn.
Con trẻ chúng ta không thể giải quyết những
khó khăn của cuộc đời nếu chúng cứ luôn sợ hãi. Sự sợ không tăng
khả năng ứng phó với vấn đề. Càng sợ thì càng nguy hiểm. Nhưng
sợ hãi được dùng như phương tiện để khiến người khác chú ý và
bắt người khác phục vụ mình.
Cần dạy con trẻ chú trọng vào những tình trạng
xem ra nguy hiểm. Nhưng chú ý và sợ hãi thì khác nhau. Chú ý là
sự nhận thức hợp lý và can đảm về những nguy hiểm có thể, trong
khi sợ hãi là một sự rút lui mất can đảm và tê liệt. Dĩ nhiên,
chúng ta phải dạy con cái chúng ta chú ý khi băng qua đường,
súng đạn là vũ khí giết người không phải đồ chơi, và bơi lội ở
độ sâu chỉ được phép nếu có khả năng. Tất cả những điều đó có
thể được dạy mà không có gì sợ sệt. Cần học mức giới hạn, học
cách biết lo đến những hoàn cảnh xem ra khó khăn hoặc nguy hiểm.
Sợ hãi làm mất sự can đảm. Sợ hãi thì rất nguy hiểm. Đối với con
trẻ, nó phục vụ cho một mục đích. Nếu bố mẹ không đáp trả, con
trẻ sẽ không khai thác, bấy giờ cả bố mẹ lẫn con cái sẽ được tự
do khỏi sự cực hình và đau khổ.
Trở lại quá khứ xa xưa mà cậu bé Quốc Lân có
thể nhớ được. Cậu đã nghe mẹ nói chuyện đau khổ lúc sinh nở và
đau khổ vì phải mổ. Cách đây 3 tháng được khám phá ra cậu bé có
một xương mọc lộn xộn trong chân của nó nên cần đi mổ. Khi nó
được báo nó cần phải đi mổ, nó hét lên cách sợ hãi. Suốt 3 tháng
nó năn nỉ, van xin. Nó thà chết với bệnh đó hơn là mổ. Bà mẹ cố
gắng yên ủi nó nhưng vô ích. Ngày mổ đến và sự lượng sức cần
phải được lấy để cho đứa trẻ thuốc mê đủ lượng. Nó sợ quá đến
nỗi lượng thuốc thông thường của thuốc gây mê chỉ gây ảnh hưởng
chút ít hôn mê cho nó.
Sự đau đớn là một phần của cuộc đời. Không có
cách nào chạy trốn nó được. Câu chuyện của bà mẹ kể cho con cái
và các bạn bà có thể là để cho thấy rằng bà là một anh hùng
trong việc trải qua những đau khổ như thế. Nhưng cậu bé có cảm
nghiệm như là đau thật, và trong sự tưởng tượng nó đã tạo nên
những tư tưởng về những ca giải phẫu vượt quá xa sự thật. Và
trái với mẹ nó, nó không có uớc muốn trở thành một anh hùng. Đối
diện với đe dọa đau đớn, nó không được dạy dỗ để chấp nhận điều
đó một cách can đảm. Và bà mẹ đồng cảm với sự sợ hãi của nó vì
bà có kinh nghiệm về sự hãi hùng của sự giải phẫu. Không giúp
con mình ứng phó với tình trạng khó khăn và không thể tránh
được, một cách vô thức bà đã giúp và nuôi dưỡng sự sợ của nó
trong cố gắng yên ủi và vỗ về nó.
Không cha mẹ nào muốn thấy con cái mình đau
đớn. Tuy nhiên, có những lúc không thể tránh khỏi. Hãy biết rằng
đối với đứa trẻ can đảm, thực tế đau đớn ít. Càng sợ càng đau
đớn hơn. Càng kháng cự càng cảm thấy đau hơn. Chúng ta phải giúp
con trẻ chấp nhận sự đau đớn và buồn khổ. Chỉ vì thái độ chúng
ta quá lo lắng một cách không thích hợp mỗi khi thấy đứa trẻ sợ
hãi nên nó càng trở nên nhút nhát và sợ sệt hơn.