An
tâm trong việc dạy con là điều cha mẹ nào cũng mong ước. Là
người làm công tác xã hội, tôi gặp nhiều phụ huynh có cảm giác
bất an vì họ không biết đã làm đúng vai trò của mình chưa? Là
một người cha, đôi khi tôi cũng có cùng tâm trạng như họ, vì
trong việc dạy con, phụ huynh gặp nhiều âu lo, nhất là chúng ta
đang sống trong một xã hội có qúa nhiều biến động.
“Nếu có thể làm lại từ đầu, qúy vị mong muốn có con không?” Đây
là câu hỏi mà bà Ann Landers, một người chuyên viết mục tâm
tình trên báo, qua đời năm 2002, đã hỏi các độc gỉa của bà. Thú
thực tôi rất ngạc nhiên khi đọc kết quả, vì có đến 70% các cha
mẹ đã trả lời là “không”. Nhiều người đưa ra các kinh nghiệm
đau buồn trong việc nuôi dạy con.
Là
người Việt, tôi lạc quan tin rằng đa số cha mẹ đồng hương của
mình đều mong muốn có con vì chúng ta vẫn còn quan niệm “Có con
là có phước”, “Giàu con hơn giàu của”. Tuy nhiên, việc dạy con
của chúng ta không dễ dàng gì hơn so với người bản xứ.
Là
gia đình Việt Nam, ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hoá Khổng
Mạnh, chúng ta rất trọng chữ HIẾU, vì đó là nét đầu của các gía
trị truyền thống, ’Hiếu vi bách hạnh chi tiên’. Nhiều phụ
huynh, vì vậy, kỳ vọng sự phục tùng triệt để nơi con cái, muốn
chúng đặt quyền lợi cá nhân sau quyền lợi của gia đình.
Một
người mẹ nói với cậu con trai tuổi vị thành niên mang bộ đồ cụt
cỡn khó coi, “Con thay bộ đồ đi. Con mang như vậy người ta nói
con nhà không đàng hoàng, họ nói mẹ không biết dạy con.” Không
nói gì, nhưng cậu bé nhún vai phản kháng. Có lẽ nó nghĩ rằng,
“À, bả có quan tâm gì mình đâu, mình mang bộ đồ nầy là cho gia
đình, cho bả chứ đâu phải cho mình!”
Lời
phát biểu của phụ huynh nói trên là điều chúng ta thường thấy
trong các gia đình Việt và nó bộc lộ sự cách biệt văn hóa giữa
hai thế hệ.
Làm
phụ huynh ai mà không muốn con ngoan, biết vâng lời cha mẹ!
Trong qúa khứ, người Mỹ cũng thế. Tuy nhiên, với người Mỹ, quan
niệm nầy thay đổi theo thời gian. Trường Đại Học Michigan
(University of Michigan) có một cuộc nghiên cứu với các phụ
huynh kéo dài trong bốn thập niên để tìm hiểu các giá trị họ
mong muốn nơi con em của họï. Kết qủa được công bố trong năm
1995 như sau:
Vào
thập niên 1950, đa số các phụ huynh Mỹ mong muốn con em: 1.
Vâng lời cha mẹ; 2. Làm việc chăm chỉ; 3. Giúp đỡ người khác;
4. Có tinh thần tự lập. Tuy nhiên, vào thập niên 1960, vâng
lời tụt xuống hạng hai; vào thập niên 1970, vâng lời tụt xuống
hạng ba; và vào thập niên 1980, vâng lời tụt xuống hạng bốn.
Quan niệm của đa số phụ huynh Mỹ ngày nay cho rằng, con em có
tinh thần tự lập quan trọng hơn cả việc vâng lời bố mẹ. Là bố
mẹ Việt Nam, chúng ta đã sẵn sàng với quan niệm nầy chưa?
Được hấp thụ tinh thần dân chủ Tây Phương, con em đòi hỏi sự
bình quyền, muốn được đối xử bình đẳng, được tôn trọng như một
người lớn. Trong khi chúng ta coi tôn ti trật tự là căn bản của
việc xử thế, người ở vai vế cao, tuổi tác cao phải được nể trọng
hơn; còn các em thì nói rằng “mọi người đều được bình đẳng trước
pháp luật”. Nếu phụ huynh vi phạm luật, các em có thể là người
đầu tiên gọi 911. Một khi thấy vậy, chúng ta dễ cho rằng các em
đã bị Mỹ hóa, mất cội nguồn.
Một
người mẹ nói với tôi rằng, bà khuyên cậu con trai đừng đeo bông
tai, nó trả lời, “Đây không phải là lỗ tai của mẹ, mẹ biết
không?” Bà buồn vì câu nói của con mặc dầu cậu rất hiền lành,
chăm chỉ học hành. Nếu người con vẫn chăm ngoan học hành, thì
đôi bông tai mà cậu đeo kia có nên là vấn đề để cha mẹ đau khổ
không? Tôi nghĩ cậu con khi nổi sùng như vậy, có lẽ là vì đã bị
bà mẹ than phiền mỗi ngày.
Để
thành công, chúng ta phải hội nhập vào lối sống mới và hành xử
như người Mỹ, từ cách ăn nói cho đến các giao tiếp ngoài xã
hội. Cha mẹ phải làm việc vất vả để mưu sinh, nhưng mà con em
thì sao? Cuộc sống của chúng ta nói chung đều rất căng, như có
người nói, “Thời buổi nầy, làm cha mẹ đã khó, nhưng làm con cái
còn khó khăn hơn”. Tôi nghĩ họ không nói ngoa, bởi vì con em
ngày nay phải đối phó với rất nhiều áp lực từ trong gia đình, ở
học đường cho đến ngoài xã hội. Các vấn nạn như xì ke ma túy,
lôi kéo tình dục chưa bao giờ lan tràn rộng rãi như bây giờ.
Tôi
được nghe các em than phiền chúng bị cha mẹ kềm chế bằng cách
kiểm duyệt sách vở, lục lọi buồng ngủ, đọc email, webpage của
chúng mà không báo trước. Chúng nói cha mẹ bảo thủ, tiết kiệm
lời khen, cứng rắn, không lắng nghe, chỉ ra lệnh, la hét và đe
dọa mà thôi. Nhiều khi tôi thấy chính mình cũng nằm trong số
phụ huynh đó.
Ngược lại, phần phụ huynh, họ cũng không ngớt than phiền về con
em của mình. Họ phàn nàn con em tự do thái qúa, thích party hội
hè, ham bạn bè hơn là sinh hoạt với người thân trong nhà, điện
thoại lâu giờ, tiêu xài kiểu Mỹ, không tôn trọng quyền cha mẹ.
Nhiều người đổ lỗi các vấn nạn xảy ra cho thanh thiếu niên là
vì xã hội dung túng trẻ em, hạn chế quyền cha mẹ.
Cũng vì xung khắc nhau nên người cha không nói chuyện với con,
đúng như câu nói của một văn hào, “Bạn hãy nhìn hai người đàn
ông đang đi ở đằng kia, họ không nói với nhau một lời nào. Bạn
đừng suy nghĩ đâu xa xôi, họ chính là hai cha con”. Và nếu
chúng ta nhìn người phụ nữ đang la hét một đứa nhỏ nơi công
cộng, tôi nghĩ chúng ta cũng có thể nói mà không sợ sai, “Đó
chính là hai mẹ con”.
Làm sao để được an tâm?
Khi
thảo luận với các phụ huynh, tôi thấy ai ai cũng muốn dung hoà
lề lối giáo huấn vì họ nhận thức rằng truyền thống giáo huấn của
xã hội Việt Nam không còn thích hợp cho hoàn cảnh mới. Ước mơ
sâu xa của họ là con cái nên người, được hạnh phúc, và đồng thời
duy trì các giá trị và truyền thống của tổ tiên như lòng hiếu
thảo, mối tương quan tình cảm con người Việt Nam.
Một
người mẹ tâm sự với tôi rằng bà rất nóng nảy và gần như không
thể nói chuyện ngọt ngào với con. Tôi chia sẻ với bà câu chuyện
một người cha tập cách lấy giờ timeouts (tạm nghỉ) mà từ một con
người nóng tính nay trở nên điềm tĩnh và mối quan hệ với con và
người vợ cũ trở nên tốt đẹp hơn. Những khi có chuyện bất bình,
trước đây anh thường phản ứng cấp thời, nhưng bây giờ anh tìm
cách tránh khỏi hiện trường và suy nghĩ vì sao người ta có hành
vi như vậy. Anh tập cách phát biểu với lòng tôn trọng, và khi
đặt mình vào vị thế của người khác, anh hiểu người hơn và cách
ứng xử của anh cũng phù hợp hơn.
Trong thực tế tôi thấy hầu như mọi người đều có khả năng đối phó
các khó khăn trong việc dạy con nếu họ biết để cho tâm trí của
mình bình tĩnh và giải quyết bằng tình lý thông thường (common
sense). Phụ huynh cũng như con em đều có các ưu điểm mà nếu
được nhận ra và trân trọng, chúng ta không những tránh được âu
lo mà lạc quan vui vẻ với con.
Lời
tâm niệm sau đây có thể giúp cho chúng ta tìm được an tâm trong
việc dạy con: “Trời ban cho tôi sự bình thản để chấp nhận những
điều tôi không thể thay đổi, sự can đảm để thay đổi những điều
tôi có thể thay đổi, và sự khôn ngoan để biết phân biệt giữa hai
điều đó”.