Thể theo định nghĩa thông
thường, trẻ em có « nguy cơ Tự Kỷ » không có khả năng tiếp xúc
và trao đổi qua lại hai chiều, với những người thân yêu, từ
những ngày đầu tiên, khi vừa mới sinh ra. Thế nhưng, cho dù mang
trên mình những rối loạn đến độ nào chăng nữa, các trẻ em nầy
vẫn là những « con người toàn phần và toàn diện ». Các em có
quyền đi học, được giáo dục giống như những trẻ em khác cùng lứa
tuổi. Theo nguyên ngữ, trong tiếng Latinh, giáo dục là educare,
có nghĩa là hướng dẫn một người, từ một giai đoạn hoang sơ, ban
đầu đến một giai đoạn làm người có nhiều giá trị và ý nghĩa cao
đẹp hơn…Thêm vào đó, để thực hiện tiến trình chuyển hóa từ khởi
điểm đến tận điểm, không phải mọi con đường đi đều có có giá trị
ngang bằng nhau, mọi phương tiện sử dụng đều thích hợp với ý
nghĩa làm người.
Hy vọng, trong những khóa hội
thảo về trẻ em tự kỷ được tổ chức đó đây, các giáo viên, chuyên
viên, các nhà nghiên cứu, cũng như những người làm cha mẹ…sẽ
khảo sát một cách tường tận và nghiêm chỉnh : đâu là những giá
trị và ý nghĩa LÀM NGƯỜI, trong tất cả những phương tiện và
phương pháp được chúng ta đang sử dụng đó đây, trong lòng Quê
Hương và Đất Nước.
***
Thể theo những công trình nghiên cứu của Douglas M. ARONE, Hội
chứng Tự Kỷ, dưới hình thức “Gên”, đã có mặt trong các tế bào
của Não Bộ, khi trẻ em đang còn là thai sinh, trong tử cung của
bà mẹ. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả này, cũng như của
các nhà khoa học về Hệ Thần Kinh, Gên không phải là số mệnh hay
là định mệnh, bao lâu Môi Trường giáo dục bên ngoài không cung
ứng cho Gên những điều kiện thuận lợi, để phát huy, triển nở,
củng cố và tăng cường. Nói khác đi, Gên chỉ là “hạt giống”. Để
có thể đâm chồi nảy lộc, lớn lên thành cây và kết sinh hoa trái,
phải chăng Gên cần sự hợp tác của đất màu, mưa sương, cũng như
ánh sáng và hơi ấm của mặt trời?
Hẳn thực, trong những năm đầu tiên, nhất là từ
0 đến 7 tuổi, Hệ Thần Kinh đang còn ở trong tình trạng “mềm dẻo,
dễ uốn nắn”. Trong suốt giai đoạn ấy, nếu môi trường giáo dục,
bắt đầu từ hai người cha mẹ, có khả năng học tập và tạo cho trẻ
em những quan hệ an toàn và tin tưởng, vui tươi và cởi mở, khó
khăn nào xảy đến trong cuộc đời, cũng sẽ dần dần được vượt qua.
Vấn đề nào, cho dù khốc liệt và trầm trọng đến đâu, cũng có thể
được hoá giải một cách tốt đẹp.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, bài chia sẻ
này sẽ lần lượt trình bày hai phần chính yếu sau đây:
Trong phần thứ nhất, chúng ta sẽ cùng
nhau khảo sát những thí nghiệm của tác giả Michael MEANEY, tại
Đại Học McGill ở Montreal, Canada, nhằm làm nổi bật những quan
hệ tương tác giữa Gên và Môi trường giáo dục, bắt đầu từ thể
thức nuôi và dạy con cái của các người làm cha mẹ.
Trong phần thứ hai,
chúng ta hãy đặt lại vấn đề một cách can đảm và đứng đắn: môi
trường xã hội đã và đang chuẩn bị thế nào các thanh niên nam nữ,
trong vai trò làm cha, làm mẹ sau này? Nói khác đi, “những bài
học nuôi con và dạy con” được dạy dỗ như thế nào, ở đâu và cho
những ai? Phải chăng đó cũng là những cách “xây dựng và bảo vệ
Đất Nước”, mà chúng ta có xu thế coi nhẹ, dồn nén và lãng quên,
trong những tầng sâu thăm thẳm của tâm hồn?
***
1.- THÍ NGHIỆM CỦA TÁC GIẢ MICHAEL MEANEY
Tại phòng thí nghiệm của Đại Học McGill, giáo
sư Michael MEANEY đã quan sát hành vi của những con chuột mẹ
đang lo lắng chăm sóc đàn con vừa mới được sinh ra. Sau nhiều
năm làm việc, trải qua nhiều đợt nghiên cứu khác nhau, tác giả
đã ghi lại những loại nhận xét sau đây:
Nhận xét thứ nhất: Xét
về mặt hành vi khách quan bên ngoài, chúng ta có thể phân biệt
hai loại chuột mẹ hoàn toàn khác nhau. Loại số một gồm có những
con chuột mẹ sử dụng nhiều thì giờ trong ngày để “liếm và vuốt
lông” cho các con của mình, một cách rất chu đáo và cẩn thận.
Loại số hai, trái lại, thi hành công việc chăm sóc con, một cách
vội vã, lơ là và không đều đặn.
Nhận xét thứ hai: những
chú chuột con, sau khi được mẹ liếm và vuốt lông, thường chạy ra
xa khỏi vòng ôm ấp của mẹ, để chơi với nhau một cách rất thân
tình và náo nhiệt. Khi bị điện giật, chẳng hạn, các chú chuột
thuộc loại này, tìm cách lánh ra xa và không tỏ ra lo sợ và hốt
hoảng. Trái lại, các chú chuột con không được mẹ liếm và vuốt
lông một cách chu đáo, thường tỏ ra kinh hoàng và tê liệt, khi
gặp khó khăn. Ngoài ra, những chú chuột thuộc loại sau này,
không biết chơi với nhau hay là không chạy loanh quanh, khám
phá, tìm tòi từ chỗ này qua chỗ khác. Suốt ngày, chúng nó chỉ
quanh quẩn và bám sát bên lưng mẹ, hay là tấn công nhau, cắn xé
nhau...
Nhận xét thứ ba: sau
khi trưởng thành chung quanh lứa tuổi 2 năm và đến lúc sinh con,
những con chuột con ngày trước, bây giờ trong hành vi làm mẹ và
nuôi con, lặp lại tập tục giống y hệt những gì mẹ của mình đã
làm cho mình. Những con đã được mẹ liếm và vuốt chải lông một
cách cẩn thận, bây giờ cũng siêng năng trong công việc liếm và
vuốt lông cho con. Những con có mẹ lơ là, bây giờ cũng lơ là với
những đứa con của mình.
Nhận xét thứ bốn: Sau
bao nhiêu ngày tháng quan sát những hiện tượng thường xuyên “lặp
đi lặp lại” như vậy, giáo sư Michael MEANEY có sáng kiến chuyển
đổi những cặp mẹ con với nhau. Trong những chiếc lồng riêng
biệt, M. MEANEY nhốt những con chuột con sinh ra từ những con
chuột mẹ có hành vi “liếm và chải lông” cho con, với những con
chuột mẹ có hành vi lơ là. Cũng vậy, những con chuột con sinh ra
từ những con chuột mẹ lơ là, được nhốt lại với những con chuột
mẹ siêng năng cần mẫn, có hành vi liếm và chải lông thường xuyên
cho con. Và những con chuột con này, đến lúc trở thành chuột mẹ,
thay vì bắt chước con chuột “mẹ tự nhiên” đã thực sự sinh ra
mình, lại có hành vi nuôi con, giống y hệt con chuột “mẹ nuôi”
của mình.
CÁCH THUYÊN GIẢI CỦA TÁC GIẢ
MICHAEL MEANEY:
Sau khi tổng hợp bốn loại nhận xét trên đây
lại với nhau, giáo sư Michael MEANEY đã rút ra những kết luận
sau đây:
- Chính cách “Nuôi con” của các con chuột mẹ
là nguyên nhân chính yếu đã tạo ra những nét khác biệt cơ bản và
bền vững, trong thể thức sinh hoạt và giải quyết vấn đề, nơi các
con chuột con, thậm chí sau khi đã trưởng thành và có khả năng
làm mẹ, sinh ra những đoàn con.
- Nét khác biệt không phải chỉ có mặt trong
những hành vi cụ thể và khách quan bên ngoài mà thôi. Những biến
đổi sâu xa đã thực sự xảy ra, trong Hệ Thần Kinh Trung Ương, tại
cơ quan Hải Mã (Hippocampus), còn mang tên là Trung Tâm Học Tập
và Lưu Giữ Hoài Niệm.
- Hẳn thực, xuyên qua hành vi “liếm lông và
chải lông”, con chuột mẹ đã kích thích và phát huy cấu trúc Hải
Mã của các con chuột con. Càng được kích thích, Trung Tâm Học
Tập này càng có khả năng sản xuất thêm nhiều những “bộ phận tiếp
nhận” hoá chất glucocorticoid hay là cortisol. Nhờ được khoanh
vùng và lưu giữ một cách ổn định, trong các “bộ phận tiếp nhận”
(receptor), loại hoá chất hay là hóc-môn này không lan tràn, di
chuyển khắp nơi và hủy diệt các tế bào khác. Cũng vì lý do này,
những con chuột con sống thảnh thơi, thoải mái, hồn nhiên, không
phải lo sợ và bị tê liệt, giống như những con chuột con “không
được mẹ liếm và chải chuốt thường xuyên”. Thêm vào đó, khi những
“bộ phận tiếp nhận” càng nhân ra nhiều, thì các chú chuột con
càng tỏ ra thảnh thơi, sung sướng và càng ngày càng gia tăng khả
năng vui đùa và khám phá môi trường sinh sống chung quanh.
- Trong cuộc sống của loài người, không có
người mẹ nào nuôi con và giáo dục con, bằng phương pháp liếm con
như các loài chuột hay là các loài có vú khác… Thay vào đó, cách
làm tương đương là tạo quan hệ an toàn và vui thích cho con,
chơi với con và sẵn sàng phản ánh cho con, nghĩa là kêu tên hay
là gọi ra ngoài những xúc động lo sợ, giận hờn và buồn phiền của
con. Khi các bà mẹ học tập “nuôi con và dạy con” như vậy, thể
theo nhận xét của các nhà khoa học về não bộ, cấu trúc Hải Mã
ngày ngày tiết ra hai loại hoá chất Oxytoxin và Endorphin, khả
dĩ tăng cường mức độ tự tin, vui thích và hiếu kỳ của đứa con.
- Ngoài ra, nhờ được mẹ dạy dỗ và giáo dục,
trẻ em từ từ phát huy và mở rộng khả năng hoạt động của Vỏ Não,
nhất là của Thùy Trán. Lúc bấy giờ, Cấu Trúc Hạnh Nhân không còn
phản ứng một cách tự động, máy móc và bốc đồng, hay là tạo nên
những tình huống khủng hoảng và lo sợ… Thay vào đó, trung tâm
đặc trách đời sống xúc động này, được Thùy Trán điều hướng, điều
hợp và giáo hoá, để dần dần có thể trở nên một động cơ thúc đẩy
và giúp đỡ con người thực hiện những lý tưởng, mộng mơ và hoài
bão chính đáng của mình.
Trong tinh thần và lăng kính ấy, khi một trẻ
em sinh ra khỏi lòng mẹ, “Chương trình hay là Gên Tự Kỷ” có thể
đã được cài đặt và ghi khắc, trong các tế bào của Hệ Thần Kinh
Não bộ. Thế nhưng, trong tình huống ấy, chưa có chi là “sự đã
rồi”, một cách vĩnh viễn. Nói cách khác, Gên Tự Kỷ, trong những
năm đầu tiên của cuộc đời, chưa phải là Số mệnh hay là Định
mệnh. Trái lại, Môi Trường giáo dục – hay là cách dạy dỗ trong
gia đình và xã hội – còn có khả năng chuyển biến, hoá giải mức
độ ảnh hưởng và tác động của Gên.
2.- NHỮNG BÀI HỌC “NUÔI CON VÀ
DẠY CON”, NHẰM CHUYỂN HÓA GÊN CỦA TRẺ EM CÓ NGUY CƠ TỰ KỶ.
Thể theo những công trình nghiên cứu của
Douglas M. ARONE, kéo dài trong vòng 10 năm, thai nhi, từ tháng
thứ ba trở đi, khi đang còn sống trong tử cung của bà mẹ, đã
mang Gên Tự Kỷ trong các tế bào thuộc Thần Kinh Não Bộ của mình.
Tuy nhiên, từ ngày đứa con đi ra khỏi tử cung,
nếu bà mẹ có khả năng sáng tạo cho con những quan hệ hài hòa, an
toàn, vui thích và đồng cảm… trong suốt thời gian 7 năm đầu tiên
của cuộc đời. Gên Tự Kỷ không có môi trường và điều kiện phát
triển, do đó sẽ bị vô hiệu hoá và tàn lụi.
Nói một cách rõ ràng và chính xác hơn, nhiều
lý do giải thích hiện tượng tàn lụi này:
- Lý do thứ nhất:
Gên không được môi trường giáo dục và xã hội bên ngoài kích
hoạt, cho nên không thiết lập được những đường dây Thần Kinh
trong Não Bộ, với nhiều khớp Xi-Nắp giao thoa chằng chịt, để tác
động và tạo ảnh hưởng trên toàn cơ thể và các bộ phận khác nhau.
- Lý do thứ
hai: Vì không được kích hoạt, Gên không có khả năng tiết
ra những loại hoá chất hay là những hốc-môn, để tác động lâu dài
trên toàn diện hệ Thần Kinh, cũng như trên hai Hệ Giao Cảm và
Đối Giao Cảm. Nói rõ hơn, Gên nào không có môi trường sinh hoá
(Biochemical) để hoạt động, Gên ấy sẽ bị các loại hốc-môn khác
tấn công và hủy diệt.
- Lý do thứ ba:
Vì không nhận lãnh được sự tiếp tay của ba loại môi trường khác
nhau – giáo dục, thần kinh và sinh hoá – Gên bị khoanh vùng
nghĩa là bị nhốt lại, giam tù tại chính nơi được sinh ra. Và khi
một tế bào thần kinh không có điều kiện và môi trường hoạt động,
tế bào ấy sẽ bị loại thải hay là tàn lụi.
Trong thực tế của cuộc sống làm người, không
bao giờ có hai đối lực hoàn toàn mâu thuẫn và đấu tranh với
nhau, để rồi “một mất một còn”, như tôi vừa phác hoạ trên đây.
Vì lý do sư phạm, tôi đã cố tình đơn giản hoá vấn đề, đến mức độ
tối đa. Chẳng hạn, trước đây khi nói đến những mâu thuẫn gay go,
giữa Hạnh Nhân và Thùy Trán, tôi đã kết luận: Vì hạnh phúc và ý
nghĩa làm người, chúng ta không thể giải phẫu và loại thải Hạnh
Nhân, khi cấu trúc này gây ra những tình huống khó khăn và khổ
đau, trong cuộc đời.
Cũng vậy, vì lý do hạnh phúc và ý nghĩa làm
người, Thùy Trán không thể quyết định một mình, tất cả mọi vấn
đề. Trái lại, để thành công trong vai trò sáng soi và hướng dẫn
toàn diện cơ thể, Thùy Trán cần lắng nghe và tham khảo từng mỗi
bộ phận lớn bé của con người. Con mắt, bàn tay hay bàn chân cũng
có giá trị ngang bằng tim, phổi, lá gan và bao tử… Không một
thành phần bị quên sót và khinh miệt.
Cũng trong tình thần và lăng kính ấy, bà mẹ
không phải là nhân vật duy nhất có nhiệm vụ nuôi dạy con cái
thành người. Hẳn thực, bà là người gần gũi với đứa con, hơn mọi
người khác. Tuy nhiên, không có những người khác tiếp tay nâng
đỡ, bà sẽ ngã quị, trầm cảm, kiệt quệ và bị thiêu rụi
(Burn-out), nhất là khi đứa con của bà đang có những nguy cơ Tự
Kỷ, với những triệu chứng “Bùng Nổ”, hay là “Sống Bít Kín”, gần
như suốt ngày và mỗi ngày.
Nhằm nâng đỡ và soi sáng bà mẹ một phần nào,
trong vai trò nuôi nấng và giáo dục con cái, những cuốn sách của
tôi về Nguy Cơ Tự Kỷ đã cố gắng cung cấp những tin tức hiện đại,
thuộc môi trường khoa học nghiên cứu tại các Đại Học ở Âu Mỹ.
Một cách đặc biệt, những tác phẩm ấy đề nghị những động tác cụ
thể có liên hệ đến Trí Thông Minh Xã Hội, nhằm thiết lập những
quan hệ đồng cảm, an toàn, tôn trọng và lắng nghe… với trẻ em,
nhất là với những em đang gặp một vài khó khăn, trong những giai
đoạn tăng trưởng và phát triển.
Thay vì lặp lại ở đây toàn bộ tin tức đã được
trình bày trong các công trình nghiên cứu ấy, tôi chỉ muốn nhấn
mạnh hai loại động tác cơ bản phải có mặt, khi chúng ta giáo dục
con cái:
Thiếu hai bài học quan trọng số một ấy, trong
lãnh vực giáo dục, tại trường học cũng như tại gia đình, tất cả
những gì chúng ta làm cho con cái, chỉ là “Nước rơi đầu vịt”,
hay là “Dã tràng xe cát Biển Đông”.
Giáo dục là gì, nếu không phải là ngày ngày
sáng tạo và xây dựng cho con cái và các thế hệ tương lai, năm
KHUNG TRỜI MỞ RỘNG:
- Trong khung trời thứ nhất, chúng ta CHO PHÉP
trẻ em trở nên khác biệt, độc đáo, chọn lựa và quyết định con
đường làm người của mình.
- Trong khung trời thứ hai, chúng ta cho phép
trẻ em sai lầm và ý thức đến sai lầm của mình, để vươn lên, đổi
mới.
- Trong khung trời thứ ba, chúng ta cho phép
trẻ em diễn tả, trình bày ra ngoài những xúc động của mình, như
giận, buồn và lo sợ… Và chúng ta lắng nghe, với tất cả tấm lòng
chân thành, đón nhận và nhìn nhận.
- Trong khung trời thứ tư, chúng ta cho phép
trẻ em trình bày những nhu cầu, nguyện vọng hay là những mộng mơ
của mình, để rồi tìm cách đáp ứng hay là từ chối, tùy vào những
điều kiện thực tế của cuộc sống ngày hôm nay.
- Trong khung trời thứ năm, chúng ta cho phép
trẻ em từ chối, nói KHÔNG với chúng ta, khi chúng ta đưa ra
những yêu cầu và đề nghị có tính chủ quan.
Trong lòng Đất Nước, nếu trẻ em, con cái, giới
trẻ… mỗi người có phép LÀM NGƯỜI, trong năm khung trời vừa tự
do, vừa an toàn, vừa sung sướng và hạnh phúc, việc học không còn
là một gánh nặng. Trái lại, đó là một niềm vui và hứng khởi. Đó
cũng là một cách “GIỮ NƯỚC và DỰNG NƯỚC”, ngày ngày quyết tâm
chuyển biến Quê Hương thành “Vạn Xuân và Đại Việt”, bất diệt và
cao cả.
1. John GRAY – Children are from Heaven –
HarperPerennial, New York 1999.
2. Sharon BEGLEY – Train your Mind, change
your Brain – Ballantine Books, New York 2007.
3. Daniel GOLEMAN – Social Intelligence –
Hutchinson, London 2006.
4. NGUYỄN Văn Thành – NGUYỄN TRÃI và vấn đề giáo dục con cái –
Tình Người, Lausanne Hè 2001.
5. NGUYỄN Văn Thành – Khung Trời Mở Rộng –
Tình Người, Lausanne 2000.
6. NGUYỄN Văn Thành – Quan Hệ Mẹ Con – Tình
Người, Lausanne 2000, xem lại 2006.
7. Arone M. DOUGLAS – The Theorem – O Books,
Winchester UK 2005.
CH-ORSONNENS/Fr,
Suisse