TRÁCH NHIỆM LUÂN LÝ
TRONG ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH


 E) NHỮNG LÝ DO CƠ BẢN
NHẰM PHẢN ĐỐI VIỆC LY DỊ
Linh Mục: Trần Mạnh Hùng C.SsR., S.T.D

Bản văn của Công Đồng Va-ti-ca-nô II liệt kê ba lý do chính nhằm phản đối việc ly dị gồm có: 1) Lợi ích của lứa đôi, 2) của con cái và 3) của xã hội (x. Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium et Spes, số 48). Lý do thứ tư có tính cách thần học được rút ra từ vai trò của bí tích trong hôn nhân Công Giáo.

1) Ly dị bị phản đối vì lợi ích của đôi vợ chồng.

Việc ly dị sẽ đánh mất đi cái ý nghĩa và mục đích của sự tự hiến của hai người cho nhau và lòng trung tín trong tình yêu. Người chồng và người vợ không thể tận hiến cho nhau một cách trọn vẹn, khi mà trong đầu óc của họ vẫn lấp ló một ý nghĩ, là mối dây liên hệ mật thiết ràng buộc trong tình nghĩa vợ chồng vẫn có thể bị tan vỡ. Xét về phương diện tâm lý thì tự bản chất tình yêu của con người đã qui hướng về bạn đường trăm năm. Mục đích của việc bảo vệ và giúp đỡ chăm sóc lẫn nhau là một điều tối cần thiết nhất là trong khi gặp hoàn cảnh khó khăn, điều này chỉ có thể đảm bảo trong bậc sống hôn nhân khi quan hệ vợ chồng là một quan hệ vĩnh viễn. Quả vậy, tình yêu chân thật trong đời sống hôn nhân không thể giới hạn trong một khoảng khắc nào đó. Nghĩa là hôm nay thì tôi yêu em, nhưng ngày mai thì không còn nữa.

Việc khẳng định rằng mối dây ràng buộc trong đời sống hôn nhân là bất khả phân ly tạo nên một thế lực rất mạnh, nhằm để bảo vệ lợi ích tình yêu vợ chồng và lòng trung thành. Nó mang lại một động lực rất mạnh, hầu giúp cho đôi vợ chồng chấp nhận, chịu đựng những khuyết điểm của nhau trong kiên nhẫn và bảo tồn sự hiệp nhất cũng như hoà thuận với nhau. "Nếu định chế hôn nhân và gia đình không có một nền tảng vững chắc, thì xã hội sẽ trở nên nghèo nàn, và điều đó đã làm mất đi cái nét yêu kiều của bộ mặt con người. Con người sẽ trở nên cô lập, tính toán so đo với nhau và những mối liên hệ giữa con người với nhau chẳng qua là để vụ lợi. Nó còn làm cho sự đoàn kết mỗi ngày một rạn nứt lớn hơn." Qủa thật chí lý khi nói rằng: "Dấu ấn của tình yêu chân thật là lòng trung thành."

2) Sự phân ly trong hôn nhân gây tác hại cho trẻ em.

Một khi mà mối dây liên hệ ràng buộc trong đời sống hôn nhân bị lỏng lẻo, thì con cái bị tước đoạt đi tình cảm của bố hoặc mẹ nó hay cả hai, và điều ấy hiển nhiên ảnh hưởng đến sự tự tin của chúng, việc học hành và gây nên sự bất ổn trong tâm hồn. Sự mất mát đối với trẻ em thì không thể bồi hoàn lại được.

"Có thể nói không ai chịu nhiều đau khổ hơn các em khi ba mẹ chúng ly dị. Các em là nạn nhân chính trong các cuộc ly dị. Thật vậy, các em là của hy sinh cho sự yếu hèn của cha mẹ. Ly dị được cảm nhận bởi các em như là một sự khước từ của cha mẹ đối với chúng ." (xem "Love Is For Life" - Lá thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Ái Nhĩ Lan (1985) .

Thông thường thì các em sẽ gặp phải nhiều vấn nạn và khó khăn khi chúng phải trải qua cuộc ly dị của ba mẹ. Một cha ghẻ hay dì ghẻ không thể nào có thể thay thế cho một người cha hay người mẹ của các em, mặc dầu có rất nhiều những cha mẹ ghẻ đã làm hết sức của họ. Một em khi phải sống với cha hay mẹ ghẻ của mình thì khả năng bị đối xử tàn tệ có thể diễn ra thường xuyên hơn khi em ấy sống với cha mẹ ruột của mình 7.

Lợi ích của con cái ít khi được sử dụng để coi đó như một sự ép buộc cha mẹ không được phép ly dị, nhưng ngược lại, nó dùng để đấu tranh cho sự bền vững của mái ấm gia đình.

3) Lợi ích của xã hội đòi hỏi gia đình phải bền vững.

Chỉ có phương cách ấy thì việc giáo dục lành mạnh cho các thế hệ trẻ có thể được bảo đảm; và sự tương thân, tương trợ đoàn kết lẫn nhau trong cùng một cộng đoàn mới được bảo vệ và nâng đỡ. Chính quyền không những chỉ có trách nhiệm và bổn phận giải thể những cuộc hôn nhân bị trục trặc, nhưng họ còn phải có trách nhiệm cung cấp những dịch vụ tư vấn về phương diện gia đình hầu giúp đỡ việc hoà giải và tái lập những hôn nhân đã bị đổ vỡ.

4) Lý luận sau cùng là một lý luận mang tính chất thần học.

Điều này được xây dựng trên nền tảng của Bí tích Hôn nhân Công Giáo, bởi nó chỉ được áp dụng cho Ki-tô hữu mà thôi. Đức Giê-su Ki-tô gợi lại cho những kẻ đi theo Ngài, việc nhân nhượng cho phép người Do-thái rẫy vợ theo luật của Mô-sê; và trong thư gởi cho giáo đoàn Côrintô (1Cr 7,12-16), thánh Phaolô cũng đã nhân nhượng cho phép họ được ly dị chỉ trong trường hợp hôn nhân không Công Giáo (nghĩa là giữa hai người chưa chịu phép Thanh Tẩy). Ngược lại hôn nhân Công Giáo, một khi đã thành sự và trở nên bí tích thì không thể giải được.

Chúng ta thấy Bí tích Hôn nhân Công Giáo cũng được nhắc đến trong thư của thánh Phao-lô gửi cho giáo đoàn Ephêsô (Ep 5, 21-33). Bản văn này đã so sánh giữa hôn nhân Ki-tô giáo và sự hiệp nhất của Đức Ki-tô với Giáo Hội, như đã nhắc tới ở phần trên "Hôn nhân Ki-tô giáo là dấu chỉ hữu hiệu, là Bí tích của Giao Ước giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh" (x. GLCG, số 1617).

Thánh Phao-lô còn nói thêm: "Người làm chồng hãy yêu thương vợ như Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh, và hiến mình vì Hội Thánh … Còn những người làm vợ thì hãy tùng phục chồng mình, như Hội Thánh tùng phục Chúa Ki-tô". Nhưng chúng ta cần ghi nhớ điều này là chúng ta đang sử dụng phương pháp loại suy, để so sánh, do vậy điều ấy có thể trở thành quá khắc khe khi chúng ta đi đến một kết luận được suy ra từ một giao ước siêu việt có tính cách vĩnh cửu, tuyệt đối giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh (Hội Thánh được ví như nàng dâu, chỉ là một cách nói bóng bẩy, đầy tính chất ẩn dụ; và những phần tử cá nhân của Hội Thánh thì đã luôn luôn không trung thành với giao ước.), rồi đặt nó ngang hàng với vĩnh viễn tuyệt đối của giao ước hôn nhân, điều này xét cho kỹ thì nó rất khác biệt, một trật tự không chắc chắn. Theodore Mackin, S.J. trong tác phẩm rất nổi tiếng: Divorce and Remarriage, (Ly Dị và Tái Hôn) (1984), trang 530-537, đã đưa ra một nhận xét như sau: Điểm then chốt trong việc so sánh (bằng phương pháp loại suy của thánh Phao-lô trong Eph 5,21-33) giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh, chính là tình yêu tự hiến và niềm tin tưởng, điều ấy cùng lúc cũng có hiệu lực phát sinh và gây sống động cho sự liên hệ mật thiết giữa vợ chồng với nhau, chứ không có ý ám chỉ đến việc bất khả phân ly của hôn nhân. Để có một chứng cớ rõ rệt nhằm đi đến kết luận về việc bất khả phân ly của hôn nhân qua Bí tích Hôn Phối, chúng ta cần phải có thêm những lý chứng khác nữa. Nói vắn gọn, chúng ta không thể chỉ nại đến mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh để đưa ra một hệ luận cho việc cấm không được ly dị.

Để kết luận, vì hôn nhân tượng trưng cho một mối liên hệ hết sức mật thiết giữa người nam và người nữ và được nối kết trong việc sinh sản và giáo dục con cái, cho nên hôn nhân mang tính cách hợp nhất và vĩnh viễn. Thêm vào đó, ngay từ giây phút ban đầu, vợ chồng phải mang một trách nhiệm lớn lao và có bổn phận phải gìn giữ, bảo vệ và làm cho đời sống hôn nhân càng ngày càng thắm thiết, kết hợp chặt chẽ hơn. Họ có trọng trách không để cho hôn nhân của mình bị tan vỡ và chết đi. Đây là điều cầm buộc riêng cho những ai đã đi vào đời sống hôn nhân, vì đó là bí tích, là dấu chỉ cho trần gian, bằng cuộc sống tốt đẹp lứa đôi của họ, họ chiếu giải khuôn mặt và tình yêu của Đức Ki-tô cũng như lòng tín trung của Ngài đối với Hội Thánh.

Trang gia đình | Trang nhà