TRÁCH NHIỆM LUÂN LÝ
TRONG ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH


 C) QUAN ĐIỂM CỦA THÁNH KINH ĐỐI VỚI VIỆC LY DỊ
Linh Mục: Trần Mạnh Hùng C.SsR., S.T.D

1. Cựu Ước

Thái độ của Cựu Ước đối với việc ly dị thì đồng quan điểm với những dữ kiện mà người ta tìm thấy dựa vào khoa nhân học xã hội (Social Anthropology). Trong thời Giáo phụ, chỉ có một trường hợp ly dị được nhắc tới: đó là việc Tổ phụ Abraham đuổi nàng thiếp của mình theo yêu cầu của Sarah (St 21, 9-14). Sự việc khước từ một cô vợ nếu không có lý do chính đáng, thì tiền nộp cho phía cô dâu sẽ không được trả lại cho chú rễ, hẵn nhiên, điều này cũng nhằm để ngăn ngừa tình trạng từ chối hôn nhân hay ly dị một cách tự tiện, và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Nhưng trong thực tế, hay trên phương diện nguyên tắc, ly dị vẫn có thể xảy ra, và luật lệ của người Do-thái cho phép thực hiện điều ấy và chấp nhận điều đó là hợp pháp. Nếu người đàn ông đã lấy vợ và đã cưới hỏi rồi, mà sau đó vợ không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà (x. Đnl 24,1). Điều nổi bật và đáng chú ý của chứng thư ly dị là người phụ nữ đó được quyền tái giá với một người đàn ông khác mà không phạm tội ngoại tình (x. Đnl 24, 2).

Lý chứng để làm nền tảng cho việc ly dị được mô tả khá chi tiết trong bản văn của sách Đệ Nhị Luật, và đã là nguyên nhân cho những cuộc tranh luận sôi nổi trong giới các luật sĩ. Trong thời buổi Chúa Giê-su, có hai lối giải thích khá quan trọng đối với luật cho phép được ly dị, xuất phát từ hai trường phái.

* Trường phái thứ nhất là của Shammai, có vẻ nhặt nhiệm hơn, chỉ có việc ngoại tình của người vợ thì mới được coi là đủ lý chứng cho việc ly dị.

* Trường phái thứ hai là của Hillel, được đặt trên nền tảng của chương 24, câu1, trong sách Đệ Nhị Luật, cho rằng bất cứ lý do gì cũng được. Trong số đó, một vài lý do được nhắc tới, tỷ dụ như việc người vợ nấu thức ăn bị cháy, hoặc ngay cả nếu người chồng tìm thấy một người phụ nữ khác đẹp hơn, thì ông ta cũng có quyền ly dị vợ mình để đính hôn với người ấy. Dân chúng thời Chúa Giê-su trong các hội đường ủng hộ lập trường của phái Hillel. Dẫu vậy, việc ly dị cũng đã không xảy ra thường xuyên, chỉ có những kẻ giàu có lợi dụng chuyện này.

Các ngôn sứ, một đàng tỏ ra chấp nhận việc ly dị như một thực tại của hoàn cảnh; nhưng đàng khác, họ nhìn nhận sự bất khả phân ly trong hôn nhân là một lý tưởng. Tuy nhiên, điều rõ nét nhất trong toàn bộ các lời giảng dạy của các ngài về hôn nhân và sự trung tín giữa vợ chồng, thì việc ly dị là điều không thể xảy ra. Sự bất khả phân ly trong đời sống hôn nhân thì cũng giống như cái lý tưởng một vợ một chồng, được các ngôn sứ bao hàm trong lối so sánh của họ, nhằm nói lên mối liên hệ mật thiết của Đức Chúa Yavê và dân Do-thái, tựa như một hôn ước (marriage covenant). Tột đỉnh của lý tưởng hôn nhân được mô tả trong Cựu Ước, qua đoạn sách của ngôn sứ Malachi (2,14-16).

"Bởi Đức Chúa Trời là chứng nhân giữa ngươi và người đàn bà ngươi đã cưới trong tuổi thanh xuân. Chính ngươi đã phản bội nó, mặc dầu nó là bạn đường và là người vợ kết ước với ngươi. Người đã chẳng làm nên một hữu thể duy nhất có xác thịt và Thần Khí đó sao? Vậy hữu thể duy nhất này tìm cái gì? Một dòng dõi của Thiên Chúa. Các ngươi hãy coi chừng và chớ phản bội người đàn bà ngươi đã cưới trong tuổi thanh xuân. Quả thật, Ta ghét việc rẫy vợ, Đức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en phán."

Cái lý tưởng này cũng được phản ảnh trong đoạn Sách Sáng Thế, nói về việc Thiên Chúa tạo dựng người phụ nữ nơi vườn điạ đàng, trong cái khung cảnh mà hôn nhân đầu tiên được mô tả như là chỉ có một vợ và một chồng và hôn nhân có tính cách vĩnh viễn.

2. Tân Ước

Những tranh luận về việc ly dị giữa những người Do-thái với nhau, tạo cơ hội cho Chúa Giê-su trả lời cho vấn đề, và đưa ra cái quan điểm của Ngài một cách công khai, và thẳng thừng lên án cách mạnh mẽ những sự ươn hèn của các luật sĩ Do-thái và lập trường của chính họ về vấn đề ly dị.

Lời lẽ phát biểu của Ngài được ghi lại trong Tin Mừng của Mát-thê-ô (5,31tt); Lu-ca (16,18) và thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô (1Cô-rin-tô 7,10tt). Cũng như trong các cuộc thảo luận được ghi lại do Mác-cô (10,2-12) và Mát-thê-ô (13, 3-9). Trong khi tranh luận với các biệt phái, Chúa Giê-su đã hủy bỏ việc cho phép ly dị theo luật của Mô-sê, điều ấy đã được ban cho dân Do Thái, vì tấm lòng chai đá của họ. Chúa Giê-su đã trưng dẫn hai đoạn Sách Thánh nhằm chống lại và phản đối sự việc Mô-sê đã chuẩn cho dân Do-thái được phép viết chứng thư ly dị. Theo Sách Sáng Thế Ký, phụ nữ được coi như ngang hàng và bình đẳng về nhân-phẩm với nam giới. "Cả nam lẫn nữ Thiên Chúa đã dựng nên họ." (St 1,27) " và cả hai thành một xương một thịt" (St 2,21). Sự hiệp nhất bền vững giữa người nam và người nữ được Đức Ki-tô nói rõ khi nhắc lại ý định "từ nguyên thủy" của Đấng Sáng Tạo. "Họ không còn là hai; nhưng chỉ là một xương một thịt" (Mt 19,6). Lẽ đó, họ không thể phân ly.

Lời Chúa Giê-su phán cho biết Ngài khẳng định từ chối bất cứ trường hợp ly dị nào. Nhưng chẳng phải trong Tin Mừng đã chả cho phép rẫy vợ (ly dị) trong trường hợp ngoại trừ đó sao? sự kiện này đã được hợp thức hoá trong điều khoản phạm tội gian dâm với người khác.

"Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ tới chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình" (xem Tin Mừng Mát-thê-ô 5,32).

Và Mát-thê-ô 19,9 " Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác thì phạm tội ngoại tình".

Phải công tâm mà nói việc chú giải đoạn văn trên với "mệnh đề đặt điều kiện" là một việc khá phức tạp và nhiều khó khăn. Tuy nhiên, điều ấy vẫn không có hiệu lực làm mất đi cái giá trị căn bản mà Chúa Giê-su đã tuyên bố về việc ly dị. Mác-cô, Lu-ca và Phao-lô không hề hay biết về trường hợp ngoại trừ này. Không thể hình dung được là họ đã bỏ sót một tuyên ngôn khá quan trọng như vậy.

Vậy thì chúng ta phải giải thích như thế nào cái điều khoản gian dâm? Nhiều hoc giả Thánh Kinh đã cố gắng chú giải điều ấy với những lý lẽ khác nhau. Tuy nhiên, có hai giả thuyết đã được đại đa số chấp nhận. Giả thuyết thứ nhất cho rằng từ "Porneia" (nguyên ngữ Hy lạp), trong mệnh đề nhắm tới việc cưới hỏi lẫn nhau giữa những người trong họ hàng thân tộc, điều này đã được cấm đoán trong Cựu Ước (x. Lv 18, 6 tt) và vì thế được coi như là bất hợp pháp, bởi người Do-thái cũng như bởi Giáo Hội thời sơ khai, trong khi điều ấy được coi như là hợp pháp đối với dân ngoại (tỉ dụ đám cưới giữa chú và cháu hoặc giữa anh em họ với nhau). Những cuộc hôn nhân như vậy, sau này có thể bị khám phá ra khi họ nộp đơn xin rửa tội để trở lại đạo, và hôn nhân của họ phải được kết thúc hoặc giải thể. Điều này, tạo nên cái ấn tượng là cho phép ly dị đối với người lương dân, sau này các nhà soạn thảo lại Tin Mừng theo thánh Mát-thê-ô đã nỗ lực cố gắng để đưa ra một giải thích thỏa đáng cho vấn đề nan giải này.

Giả thuyết thứ hai thì cho rằng cái mệnh đề (đặt điều kiện) ấy, mô tả một trường hợp ngoại trừ thật sự đối với việc cấm đoán ly dị. Từ "Porneia" được chuyển ngữ là thông dâm/gian dâm (Fornication) hoặc ngoại tình (Adultery). Lối giải thích này được các nhà chú giải Kinh Thánh của giáo phái Tin Lành và Chính Thống Giáo chấp nhận cách rộng rãi, và cho đến nay thì một số đông các học giả Công Giáo cũng đã chấp nhận. Hầu hết các nhà chú giải Kinh Thánh (trong số đó có cả Công Giáo) hiện nay, có xu hướng chấp nhận trường hợp ngoại lệ cho vấn đề ly dị trong trường hợp người vợ phạm tội ngoại tình.

Nhưng nếu chúng ta đối chiếu với phần chú giải - nằm ở cuối trang - của bản dịch Tân Ước do Ban PhụngVụ Các Giờ Kinh thực hiện, thì chúng ta thấy văn bản được dịch là "ngoại trừ trường hợp HÔN NHÂN BẤT HỢP PHÁP" (Mt 5,32) và cụm từ hôn nhân bất hợp pháp được giải thích như sau: diễn dịch từ Hy lạp "porneia". Theo văn mạch ở đây cũng như ở Mt 19,9 và so với Mc 10,11-12; Lc 16,18; 1Cr 7,10-11, thì Chúa Giê-su thắt chặt lại khoản luật lỏng lẽo của Cựu Ước về ly dị (x. Đnl 24,1-2). Trường hợp ngoại trừ ở đây không phải là ly dị vì ngoại tình (Hy Lạp: moikheia). Porneia cũng không hiểu là gian dâm theo nghĩa thông thường, mà theo luật Do-thái thời xưa. Những cuộc sống chung giữa những người họ hàng với nhau mà Lê-vi 18 kê khai được coi là gian dâm, nghĩa là bất hợp pháp. Có lẽ Mát-thêu muốn đưa về Công Vụ Tông Đồ 15, 29 (cũng từ porneia): các tín hữu gốc ngoại phải tránh kết hôn với người có họ hàng, vì đó trái luật Do-thái, dù rằng theo luật đời, các hôn nhân giữa họ hàng như vậy có thể hợp pháp.

Chúa Giê-su từ chối việc ly dị, đối với giả thuyết thứ hai, nghĩa là được phép ly dị, nếu người vợ phạm tôi ngoại tình. Sự kiện Chúa Giêsu phản đối việc ly dị, điều đó được xem như là một biểu lộ của lý tưởng, chứ không phải là luật hoàn toàn có tính cách tuyệt đối. Quan điểm này được ủng hộ dựa vào những chứng cớ tìm thấy nơi đoạn Tin Mừng của Mát-thê-ô 5, 3tt, qua Bài Giảng Trên Núi. Tại đây, chính Chúa Giê-su, trong một diễn đạt khoáng đại đã mời gọi con người đạt tới mức thiện hảo vô song. Nhưng điều ấy không có nghĩa là đặt ra những luật lệ buộc con người phải tuân giữ theo sát bản văn.

Trong Bài Giảng Trên Núi, có rất nhiều lời tuyên bố với tính cách xác quyết. Tuy nhiên, Giáo Hội chỉ coi đó là những lý tưởng chứ không phải là giới luật (ví dụ như những huấn dụ về lời thề hứa, việc bất bạo động, yêu thương kẻ thù và nên hoàn thiện như Thiên Chúa - xem Mt 5, 21-48)5. Vì thế, việc Chúa Giê-su khăng khăng phản đối việc bất khả phân ly trong đời sống hôn nhân có thể mang một tính chất giống như vậy, nó chỉ là một lý tưởng mà người ta phải nỗ lực ra sức theo đuổi chứ không hẳn là một lề luật áp chế tất cả mọi người tuân theo theo nghĩa ngữ của nó.

Nói tóm lại, quan điểm của Chúa Giê-su thì đơn giản: lý tưởng cho các cặp vợ chồng Ki-tô giáo là họ nên trung tín với nhau, cho nên việc ly dị xét ra không cần thiết. Nhưng một mặt khác, Giáo Hội thời tiên khởi, dường như cũng đã xem xét đến những điều kiện thực tiễn của một thế giới bị giới hạn bởi những khiếm khuyết và tội lỗi, nên không thể tránh khỏi những bất trắc xảy ra, cho nên các ngài cũng đã tìm kiếm một giải pháp thích hợp nhằm điều chỉnh sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực tại. Nơi đây, ta cũng nên nhắc lại trường hợp ngoại trừ được thánh Phao-lô cho phép, trong trường hợp, một người ngoại giáo mà họ muốn ly dị với người phối ngẫu của họ đã trở thành Ki-tô hữu. Trong trường hợp này, thánh Phao-lô phán quyết như sau: Người tín hữu không bị bó buộc phải duy trì bậc sống độc thân. "Còn với những người khác, thì tôi nói chính tôi chứ không phải Chúa: nếu anh em nào có vợ ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng rẫy vợ. Người vợ nào có chồng ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng bỏ chồng. Thật vậy, chồng ngoại đạo được thánh hoá nhờ vợ, và vợ ngoại đạo được thánh hoá nhờ người chồng có đạo. Chẳng vậy, con cái anh em sẽ làm ô uế, trong khi thật ra chúng là thánh. Nếu người ngoại đạo muốn bỏ người kia thì cứ bỏ; trong trường hợp đó, chồng hay vợ có đạo không bị luật hôn nhân ràng buộc: Thiên Chúa đã kêu gọi anh em sống bình an với nhau! Chị là vợ, biết đâu chị chẳng cứu được chồng? Hay anh là chồng, biết đâu anh chẳng cứu được vợ?" (1Cr 7,12-16) . 

Trang gia đình | Trang nhà