I.2. Nguồn gốc của Hôn nhân:
Công đồng Vaticano II qua Hiến chế Mục vụ của Giáo hội trong thế
giới ngày nay đã xác định: “Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban
những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng
đoàn tình yêu vợ chồng. Đời sống chung thủy này được gầy dựng do
giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận cá nhân không thể rút
lại. Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó, hai vợ chồng
tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa,
phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội
nữa. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, nên sợi
dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con
người. Chính Thiên Chúa là Đấng Tác Tạo Hôn Nhân, phú bẩm những
lợi ích và mục tiêu khác nhau (GS 48); Thông điệp Humanae Vitae
của Đức Giáo Hoàng Phaolo VI xác nhận: “Hôn nhân không phải do
ngẫu nhiên hay do sự biến hóa của các sức mạnh vô tri trong
thiên nhiên tạo thành. Hôn nhân là do một sự sắp đặt khôn ngoan
của Đấng Tạo Hóa để thực hiện ý định yêu thương của Ngài giữa
nhân loại”
I.3. Mục đích của Hôn nhân
Theo Humanae Vitae 8: “Trong hôn nhân, vợ chồng dâng hiến thân
xác cho nhau bằng một cử chỉ đặc biệt và giới hạn giữa hai
người, để kết hợp với nhau nên một, với mục đích giúp nhau phát
triển con người và cộng tác với Thiên Chúa để sinh sản và giáo
dục những sự sống mới” “Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến
của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ
chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất
khả phân ly” (GS 48). Từ đó, chúng ta có thể thấy Hôn nhân theo
Giáo hội gồm có hai mục đích Gl 1055 §1: a. giao ước hôn nhân tự
bản chất, hướng về thiện ích của đôi bạn; b. sinh sản và giáo
dục con cái.
Theo Hiến chế Gaudium et Spes: Bởi giao ước hôn nhân, người nam
và người nữ “không còn là hai, nhưng là một xương thịt” (Mt
19,6) phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết
trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự
hiệp nhất với nhau mỗi ngày đầy đủ hơn. Hôn nhân hết sức quan
trọng đối với “sự tiếp nối nhân loại, sự phát triển cá nhân, sự
phát triển phần rỗi đời đời cho mỗi thành phần trong gia đình.
Phát triển đối với phẩm giá, sự vững trãi, an bình và thịnh
vượng của chính mình và xã hội”, hôn nhân giúp con người phát
triển bản thân, phát triển gia đình và xã hội, vươn đến hạnh
phúc toàn diện của con người.
I.4. Hôn nhân Công Giáo là Bí Tích:
Trong Giáo huấn của Giáo hội qua văn kiện của Công đồng Vaticano
II trong Hiến chế Gaudium et Spes : “Chúa Kitô ban dồi dào ơn
phúc cho tình yêu muôn hình ấy, một tình yêu phát xuất từ nguồn
mạch tình yêu Thiên Chúa và được tác thành theo gương của Chúa
Kitô và Giáo Hội. Thực vậy, như xưa kia Thiên Chúa đến gặp gỡ
dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung thành, ngày nay
Đấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Giáo Hội, cũng đến với đôi vợ
chồng qua Bí Tích Hôn Phối. Người còn ở lại với họ để hai vợ
chồng cũng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến
cho nhau như Người đã yêu thương Giáo hội và đã nộp mình vì Giáo
hội…Bởi đó, vợ chồng Kitô hữu được củng cố và như được thánh
hiến bằng một bí tích riêng để được lãnh nhận các bổn phận và
phẩm giá của bậc sống họ. Nhờ sức mạnh của bí tích này, họ được
thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô để chu toàn bổn phận hôn nhân và
gia đình họ, nhờ đó tất cả đời sống của họ được thấm nhuần đức
tin, cậy, mến và càng ngày họ càng tiến gần hơn tới sự trọn lành
riêng biệt của họ và sự thánh hóa lẫn nhau: và bởi đấy, cùng
nhau tôn vinh Thiên Chúa”(GS 48). Giáo luật điều 1055 §2 đã xác
nhận: Chúa Kitô đã nâng giao ước hôn nhân giữa hai người đã được
Rửa tội lên hàng Bí tích.
Chúng ta vừa tìm hiểu sơ lược về Hôn nhân dưới ánh sáng Tin Mừng
và Giáo Huấn của Giáo Hội Công Giáo. Hội Thánh ngày nay có những
qui định Giáo luật liên quan tới hôn nhân bao gồm 2 loại:
Loại 1: Những điều không thể thay đổi vì là Luật của Thiên Chúa
(Luật Mạc Khải hay Tự nhiên);
Loại 2: Những qui định có thể thay đổi vì căn cứ theo hoàn cảnh
xã hội dân sự hay văn hóa và những hướng dẫn mục vụ cần thiết
cho sinh hoạt của cộng đoàn.
Bộ Giáo Luật 1983 của Giáo Hội Latinh đã nêu ra những qui định
về loại 1 “Luật của Thiên Chúa (Tự nhiên)”, và một số hướng dẫn
cho qui định về loại 2 cho Giáo hội địa phương. Chúng ta nhận
thấy những qui định Giáo luật và Mục vụ đều qui về Ba điều kiện
chính để việc kết hôn được tiến hành tốt đẹp:
1. Xác định đôi bạn có khả năng kết hôn và không có ngăn trở
2. Đôi bạn hoàn toàn tự do và tự nguyện.
3. Cử hành kết hôn theo thể thức Phụng vụ và Giáo luật qui
định.
Những qui định về cử hành Hôn nhân của mỗi Giáo phận đều có
nguồn gốc từ Giáo luật, từ dân luật hiện hành và từ tình hình
hoàn cảnh riêng của mỗi giáo phận. Đức Giám mục Giáo phận có
trách nhiệm qui định các thủ tục cử hành hôn nhân, năng quyền
chứng hôn cho các linh mục. Ngài cũng có quyền ra luật và miễn
chuẩn nhiều qui định giáo luật trong Giáo phận của mình.
II/ MỤC VỤ HÔN NHÂN:
II.1. TRƯỚC KHI CỬ HÀNH BÍ TÍCH HÔN NHÂN :
II.1.1. Liên quan tới những người dự định kết hôn:
Quyền kết hôn và lập gia đình là một quyền căn bản của con người
được Giáo luật và Dân luật tôn trọng và bảo vệ. Do đó, những ai
không bị luật cấm đều có quyền kết hôn, tuy nhiên chúng ta cần
phải xem người đó có liên quan tới những qui định của giáo luật:
* Về tuổi tác : Điều luật 1083 §1 hạn định tuổi kết hôn là người
nam tròn 16 tuổi, người nữ tròn 14 tuổi, tuy nhiên §2 trao cho
HDGM quyền ấn định tuổi phù hợp với quốc gia, nền văn hóa nước
đó. Tại Việt-Nam, HDGM VN ấn định người nam 20 tuổi và người nữ
18 tuổi kết hôn hợp thức; nếu có trường hợp đặc biệt phải xin
phép Đấng Bản Quyền Giáo phận.
* Về sức khỏe: Người nam và người nữ phải là những người lành
mạnh và trưởng thành về tâm sinh lý. Trên nguyên tắc dù người
nam hay người nữ mắc bệnh gì cũng có quyền kết hôn, với điều
kiện là người phối ngẫu đã được thông báo trước và vẫn đồng ý
kết hôn (bệnh xã hội…). Tuy nhiên, với một người không có khả
năng sống đời vợ chồng (như điên khùng hay bất lực giao hợp vĩnh
viễn) thì tiêu hủy hôn nhân (đ.1084)
* Về sự tự do kết hôn : Các đương sự phải được tự do chọn lựa
kết hôn, có nghĩa tự do chọn lựa vợ chồng. Mọi hình thức gây áp
lực tâm, thể lý ảnh hưởng đến sự tự do kết hôn đều vi phạm nhân
phẩm con người, và làm cho hôn nhân vô hiệu. Việc đính hôn hay
lễ ăn hỏi không nhất thiết buộc phải kết hôn, mà chỉ có quyền
đòi đền bù thiệt hại nếu việc kết hôn không thành.
* Về huyết tộc : Hội Thánh cấm kết hôn với người có liên hệ
huyết tộc trực hệ (họ máu hàng dọc) dù pháp lý hay tự nhiên; hay
có liên hệ bàng hệ (họ máu hàng ngang) đến đời thứ bốn: sự kết
hôn vô hiệu (đ.1091). Như vậy, không ai có quyền kết hôn với con
ruột, con nuôi, con ngoại hôn của mình; không được kết hôn với
cháu nội hay cháu ngoại, với anh chị em ruột của mình.
* Về liên hệ hôn nhân: Các đương sự phải là những người chưa kết
hôn hoặc đã kết hôn mà người phối ngẫu đã chết. Không được kết
hôn với họ hàng trực hệ của người phối ngẫu đã chết. Giáo hội
cũng cấm việc kết hôn với người họ hàng trực hệ của người đã
sống chung như vợ chồng hay tư tình công khai với mình.
Người ly thân và ly dị không được tái hôn (vì dây hôn phối vẫn
còn tồn tại bao lâu người phối ngẫu chưa chết hoặc chưa được
tháo gỡ dây hôn phối vì hà tỳ trong hôn nhân). Người còn vướng
mắc nghĩa vụ liên quan đến hôn nhân (không chu cấp cho con ngoại
hôn sinh kiện cáo), có thể bị Giáo hội từ chối, chưa cho phép
kết hôn.
*Về sự hiểu biết liên quan tới hôn nhân: Các đương sự phải hiểu
rõ hôn nhân là gì, các điều kiện cần phải có, ý nghĩa của lời
ưng thuận, các nghĩa vụ và quyền lợi của đời sống vợ chồng.
Chúng ta đều biết, sau tuổi dạy thì có thể suy đoán là có sự
hiểu biết này.
*Về tôn giáo : Tôn giáo ảnh hưởng rất quan trọng tới đời sống
hôn nhân, nhất là khi quan niệm về hôn nhân giữa hai tôn giáo
khác nhau (công nhận đa thê, ly dị). Giáo hội Công giáo mong ước
những người cùng niềm tin kết hôn với nhau; đồng thời cũng cho
phép kết hôn với người khác đạo hoặc cùng Kitô giáo nhưng không
hiệp thông với Hội Thánh Roma. Hôn nhân với người chưa được Rửa
tội mà không có phép chuẩn thì không có giá trị trước mặt Giáo
hội. Những người đã thề hứa sống độc thân (phó tế, linh mục và
tu sĩ khấn trọn đời) phải xin miễn chuẩn đặc biệt để kết hôn
thành sự.
* Về thủ tục: việc kết hôn Công giáo phải được Rao công khai ở
những nơi đương sự sống thời gian lâu dài. Tại Việt-Nam, phải
rao trong Nhà thờ xứ Ba tuần, (việc rao 2 lần hay 1 lần tùy
quyết định của Giám mục Giáo phận). Trong mục vụ, cần yêu cầu
đôi bạn phải những giấy tờ sau:
- Giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức mới cấp chưa quá sáu
tháng.
- Hộ khẩu và chứng minh nhân dân (nếu linh mục không biết mặt
đương sự)
- Giấy giới thiệu của Cha xứ mỗi đương sự, nếu ở giáo xứ khác
chuyển đến xác nhận tình trạng độc thân của đương sự.
- Khi quyết định ngày chứng hôn theo Giáo luật, có giấy Đăng ký
kết hôn dân sự.
- Nếu được nhờ chứng hôn, phải có giấy Ủy quyền của Cha có trách
nhiệm và giấy chứng nhận đã học giáo lý căn bản và giáo lý hôn
nhân.
II.1.2. Về phía các vị chủ chăn:
Các vị chủ chăn tôn trọng quyền được kết hôn theo nghi thức tôn
giáo của các đương sự, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ kết
hôn theo đúng thủ tục của Giáo hội; đồng thời lo cho họ học hỏi
về giáo lý hôn nhân và giúp đỡ họ thêm về đời sống đức tin trong
thời kỳ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân.
Các linh mục (đặc biệt cha xứ hoặc cha phụ trách) có bổn phận
giúp đỡ đôi bạn và chuẩn bị nghi thức hôn phối như sau:
- Giúp họ xác định niềm tin Kitô giáo và chuẩn bị cho họ có một
đức tin trưởng thành. Nếu họ chưa được lãnh Bí tích Thêm sức,
phải lo liệu cho họ nhận Bí tích này trước khi kết hôn, vì họ sẽ
trở nên chứng nhân đức tin và giáo dục đức tin cho con cái. Lưu
ý vị chủ chăn KHÔNG được phép cử hành hôn phối cho người đã công
khai chối bỏ đức tin Kitô giáo.
- Giúp họ ý thức về hôn nhân và chuẩn bị đảm nhận những nghĩa vụ
vợ chồng và cha mẹ trong gia đình Kitô giáo.
- Phải điều tra hôn phối về đôi bạn, để chắc chắn đôi bạn không
có ngăn trở gì. Rất mong các Cha thuộc các Giáo phận, giáo xứ
khác nhau có bổn phận giúp đỡ lẫn nhau vì luật, vì trách nhiệm,
vì tình huynh đệ cũng như tạo nên hình ảnh vị mục tử nhân hiền,
nhẫn nại cho các đôi bạn chuẩn bị bước vào Hôn nhân.
- Chuẩn bị việc cử hành hôn nhân tốt đẹp theo quy tắc Phụng vụ.
II.1.3. Về phía gia đình và cộng đoàn dân Chúa.
Gia đình phải tôn trọng quyền kết hôn và quyền tự do chọn lựa
bạn đời của các đương sự; gia đình có trách nhiệm giáo dục và
hướng dẫn chứ không được quyết định thay con cháu mình.
Cộng đồng dân Chúa sẵn sàng giúp đỡ các đương sự, nếu có gì ngăn
trở việc kết hôn thì buộc phải trình lại với Cha xứ hoặc Cha phụ
trách hôn nhân. Cộng đoàn sẽ có mặt trong ngày cử hành Hôn nhân
để chứng giám, và cầu nguyện cho đôi tân hôn.
II.2. KHI CỬ HÀNH BÍ TÍCH HÔN NHÂN:
II.2.1.Về chính các đương sự:
Đôi bạn cần chuẩn bị tâm hồn để tham dự nghi thức Hôn phối như
một tế tự thánh dâng lên Thiên Chúa. Giáo hội khuyên họ lãnh
nhận Bí tích Hòa Giải và Thánh Thể nhân dịp Hôn lễ (Trước đây,
giáo luật buộc phải xưng tội với chính Cha xứ của mình trước
ngày cưới).
Trong nghi thức Hôn nhân, chính đôi bạn là thừa tác viên cử hành
giao ước thánh. Các đương sự phải hiện diện và tự mình trả lời
đầy đủ các câu hỏi lúc được thẩm vấn về sự tự do kết hôn, về bổn
phận yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời cũng như bổn phận
sinh và giáo dục con cái theo luật Chúa Kitô và Hội thánh. Lời
ưng thuận kết hôn cũng phải được từng người diễn tả (bằng lời
nói hay cử chỉ) một cách rõ ràng với đầy đủ nội dung là nhận
nhau làm vợ chồng, giữ lòng trung thủy với nhau trong mọi hoàn
cảnh, yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời.
Trong trường hợp các đương sự không thể tự mình nói lên đầy đủ
lời ưng thuận, vị linh mục chứng hôn – vì lý do mục vụ và thuận
tiện – có thể đặt câu hỏi để từng đương sự nói lên sự ưng thuận
của mình (người câm, không biết chữ, không nói lên thành lời…).
II.2.2. Về phía các vị chủ chăn:
Việc chứng hôn cho giáo dân là một bổn phận do chức vụ và bác ái
của chủ chăn. Thông thường, cha xứ nơi một trong hai người cư
trú (có thể ưu tiên cho cha xứ bên đàng gái, nhưng không bắt
buộc) chịu trách nhiệm lập hồ sơ, điều tra các ngăn trở, dạy dỗ
giúp về giáo lý căn bản, giáo lý hôn nhân và chứng hôn. Việc làm
thủ tục và chứng hôn có thể do một linh mục khác đảm nhận, với
sự đồng ý bằng văn bản của một trong hai cha xứ hoặc bên nam
hoặc bên nữ. Khi trường hợp Hôn phối xin chuẩn hôn nhân khác
đạo, hoặc một phép chuẩn khác, người muốn kết hôn (bên công
giáo) PHẢI tự đứng đơn có xác nhận của cha xứ và gửi lên Đấng có
thẩm quyền BAN PHÉP CHUẨN trong Giáo phận. Trong những trường
hợp thật phức tạp, vị chủ chăn sẽ tham khảo ý kiến Đức Giám Mục.
Sau khi chứng hôn, Cha xứ phải NHỚ ghi Sổ Hôn nhân của giáo xứ
(có thể là 2 cuốn sổ, để một cuốn gửi lên Văn khố Tòa Giám mục);
cha xứ cũng gửi chứng thư Hôn phối để ghi vào sổ Rửa tội nơi các
đương sự đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội.
Cha xứ phải cử hành nghi thức Hôn nhân theo các qui định của
Phụng vụ Thánh được Giáo hội phê chuẩn (Khi chứng hôn cho đôi
bạn được chuẩn Hôn nhân khác đạo – không được chứng hôn trong
Thánh lễ). Khi một linh mục khác được mời chứng hôn, vị này phải
hiểu là chứng hôn theo ỦY QUYỀN của cha xứ nơi cử hành hôn phối;
do đó, cha xứ nơi sở tại phải nhận mọi trách nhiệm.
II.2.3. Về phía gia đình và cộng đồng dân Chúa:
Hôn nhân không chỉ liên quan tới đôi bạn mà còn là một sinh hoạt
quan trọng của gia đình và cộng đồng dân Chúa. Do đó, nghi thức
Hôn nhân phải được cử hành tại Nhà thờ xứ, họ để gia đình và
cộng đoàn tham dự thánh lễ, và chúc mừng đôi tân hôn. Nếu có lý
do chính đáng, Đức Giám Mục có thể cho phép cử hành nơi khác;
nếu không, cử hành tự ý sẽ bị coi là lén lút và vô hiệu (chứng
hôn trên du thuyền,vườn hoa …dưới đáy biển).
Nghi thức hôn nhân phải được cử hành công khai, với sự chứng hôn
của một thừa tác viên giáo sĩ đại diện Giáo hội Công giáo và Hai
nhân chứng đại diện cộng đoàn xứ đạo. Thường các nhân chứng là
người có đạo, một nam một nữ nhưng không nhất thiết, điều quan
trọng là Hai nhân chứng này có đủ tư cách để làm chứng về mặt
pháp lý.
II.3. SAU KHI CỬ HÀNH HÔN NHÂN:
Việc kết hôn đã tạo nên một mối dây liên kết, một Giao ước
thánh, độc nhất và vĩnh viễn ràng buộc hai người. Họ đã cam kết
sẽ yêu thương nhau và tôn trọng nhau suốt đời; tình yêu đó không
được san sẻ cho một người nào khác. Họ cam kết cộng tác với nhau
để xây dựng gia đình hạnh phúc, có nghĩa vụ và quyền lợi như
nhau trong tất cả những gì liên quan đến cuộc sống chung của vợ
chồng. Họ nhận trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa và Giáo Hội để
đón nhận và bảo vệ sự sống con người, nghĩa là bổn phận sinh
sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái theo giáo huấn của Giáo hội.
Họ được mời gọi nên thánh trong chính bậc sống vợ chồng và xây
dựng Dân Chúa qua hôn nhân và gia đình, đó là:
- Chu toàn các bổn phận trong Giáo hội và xã hội với tư cách là
Kitô hữu và là công dân.
- Chu toàn bổn phận đối với cha mẹ và gia đình hai bên.
- Chu toàn bổn phận đối với nhau và đối với con cái.
Các vị chủ chăn có bổn phận tiếp tục nâng đỡ họ, nhất là trong
đời sống Giáo xứ, giáo họ do ngài quản trị. Cha xứ là người được
Giáo hội chỉ định làm người cố vấn cho họ trong đời sống đức tin
và luân lý. Khi các gia đình gặp khó khăn, ngài có bổn phận cầu
nguyện cho họ, và có thể hướng dẫn họ để hòa giải, tha thứ và
chấp nhận nhau khi gặp phải những khủng hoảng; và hướng dẫn họ
gặp Tòa án Hôn phối Giáo hội khi cần thiết.
Đối với cộng đoàn Dân Chúa, một khi hôn nhân đã cử hành và hoàn
tất các nghi thức hôn nhân, mọi người phải công nhận là hôn nhân
đã thành sự, và sẵn sàng giúp đỡ đôi bạn khi họ gặp những khủng
hoảng của đời hôn nhân.
III. HƯỚNG DẪN CẦN THIẾT:
III.1. Đặc ân miễn chuẩn Hôn nhân khác đạo.
* Đặc ân miễn chuẩn hôn nhân khác đạo (disparatus cultis) là đặc
ân của vị Thường Quyền Sở tại như Giám mục Giáo Phận, Lm. Tổng
Đại Diện hay Vị linh mục đã được Đức Giám Mục ủy quyền, cho phép
tiến hành Hôn nhân theo Giáo luật giữa một người Công giáo và
một người chưa Rửa tội.
* Đặc ân miễn chuẩn hôn nhân hỗn hợp (matrimoniis mixtis) là đặc
ân của Đức Giám mục Giáo phận cho phép tiến hành hôn nhân theo
Giáo luật giữa hai người đã Rửa tội, nhưng một người thuộc Giáo
hội Kitô không hiệp thông với Roma.
* Theo giáo luật hiện hành của Giáo hội Latinh, hôn phối hỗn hợp
chỉ hợp pháp khi có phép minh thị (expressa licentia) của giáo
quyền; còn hôn phối khác đạo chỉ thành sự khi có miễn chuẩn bằng
giấy tờ (expressa dispensatio; GL 1086).
III.1.1. Đối với đôi bạn:
Họ phải tự mình đến gặp cha xứ để tiến hành thủ tục kết hôn theo
luật Giáo hội. Nhằm mục đích tìm hiểu và xác định khả năng kết
hôn hợp lễ và khả năng sống đời vợ chồng theo luật Công giáo. Hồ
sơ cũng giống như hồ sơ cần có giữa đôi bạn công giáo. Tuy
nhiên, các Cha xứ, hoặc Cha phụ trách không nhận XIN HỘ MIỄN
CHUẨN HÔN NHÂN KHÁC ĐẠO nếu bên Công giáo không thuộc Giáo xứ
hoặc Giáo phận của mình.
Các Cha cũng không được nhận đơn xin miễn chuẩn Hôn nhân khác
đạo nếu một trong hai người đã có một hôn nhân tự nhiên, dù đã
ly dị phần đời. Trong trường hợp này, chỉ có thể xin Đặc ân
Phaolô (theo đạo) hay đặc ân Phêrô (đặc ân Giáo Hoàng để tháo gỡ
Hôn phối cũ) để kết hôn.
Đối với hôn nhân hỗn hợp hay khác đạo, bên không công giáo, nếu
hội đủ các điều kiện khác, có thể xin cha xứ nơi mình cư trú
tiến hành lo hồ sơ cho mình. Điều cần lưu ý, khi điều tra hôn
phối, linh mục bên đương sự Công giáo lo xin miễn chuẩn cho
người bạn Công giáo, phải liên hệ với linh mục chính xứ nơi
người không công giáo sinh sống để điều tra và Rao Hôn phối, khi
có kết quả điều tra về tình trạng thong dong của đương sự không
công giáo, mới làm thủ tục xin miễn chuẩn và chứng hôn theo Giáo
luật.
III.1.2.Điều kiện để xin miễn chuẩn:
Theo điều khoản giáo luật 1125, Đấng Bản Quyền giáo phận có thể
ban phép miễn chuẩn Hôn nhân khác đạo, nêu có lý do chính đáng
và hợp lý, nhưng không được ban phép ấy, nếu không hội đủ điều
kiện sau đâ:
a. Bên Công giáo PHẢI tuyên bố mình sẵn sàng tránh mọi nguy cơ
mất đức tin và thành thật cam kết sẽ làm hết sức để tất cả con
cái được Rửa tội và được giáo dục trong Giáo hội Công giáo;
b. Bên không Công giáo PHẢI được kịp thời thông báo cho biết
những điều bên Công giáo PHẢI cam kết như trên, để họ ý thức
thật sự về lời cam kết và nghĩa vụ của bên Công giáo;
c. Cả hai bên PHẢI được giáo huấn về những mục đích và đặc tính
chính yếu của hôn nhân mà không bên nào được phép loại bỏ.
Hội Đồng Giám Mục Việt-Nam đã ấn định mẫu tờ tuyên bố và cam kết
mà luật đòi hỏi, cũng như quy định thể thức thực hiện ở tòa
ngoài, thể thức thông báo cho bên không Công giáo và mẫu đơn xin
chuẩn Hôn nhân khác đạo (1126)
Các Đấng Bản Quyền địa phương và những vị chủ chăn các linh hồn
phải liệu sao để người phối ngẫu Công giáo và con cái sinh ra do
hôn nhân hỗn hợp không thiếu sự trợ giúp về phương diện thiêng
liêng, để họ chu toàn nghĩa vụ của mình, và các ngài phải giúp
đôi bạn hiệp nhất với nhau trong đời sống vợ chồng và gia đình.
III.1.3. Cử hành nghi thức Hôn Phối:
* Cử hành nghi thức hôn phối “thành sự” phải giữ như Bí tích Hôn
Phối về Thừa tác viên và hai nhân chứng: phải là một nghi thức
công khai; cấm cử hành lén lút, không có nhân chứng. Nếu có
những khó khăn nghiêm trọng ngăn cản việc tuân giữ thể thức giáo
luật, Đấng Bản Quyền địa phương bên Công giáo có quyền miễn
chuẩn khỏi giữ thể thức ấy trong từng trường hợp, nhưng phải
tham khảo Đấng Bản quyền địa phương tại nơi cử hành hôn nhân và
phải giữ một thể thức cử hành công khai nào đó, để hôn nhân được
thành sự; việc ấn định những nguyên tắc này thuộc Hội Đồng Giám
Mục (1127§2).
* Cấm cử hành một nghi thức kết hôn hay lặp lại lời cam kết theo
một tôn giáo khác (cùng địa điểm), trước sau hay đồng thời với
nghi thức hôn phối công giáo.
* Nghi thức hôn nhân hỗn hợp không được cử hành trong thánh lễ,
vì điều này đi ngược lại thần học Bí tích Thánh thể và Hôn phối.
Thánh lễ là Mầu nhiệm Hiệp thông ân sủng, mầu nhiệm đức tin hiệp
nhất các Kitô hữu. Hôn phối là Giao ước hiệp nhất giữa nam và
nữ. Cử hành hôn nhân khác đạo trong Thánh lễ là đề cao tối đa sự
bất hiệp nhất căn bản của hai người trong chính ngày cưới.
* Nghi thức có thể cử hành Phụng vụ Lời Chúa trước nghi thức kết
hôn, nhưng không được để cho người ngoài công giáo đọc Lời Chúa.
III.2. Hôn Phối cho người ngoại kiều: Dù là người Ngoại kiều hay
Việt kiều, tùy mỗi Giáo phận qui định, tuy nhiên sự khôn ngoan
của các mục tử phục vụ Dân Chúa là hỏi ý kiến của Đức Giám Mục
hoặc Văn Phòng Hôn nhân của Tòa Giám mục Giáo phận.
III.3. Hôn nhân giữa hai người ngoài công giáo:
III.3.1 Trong Giáo hội Roma:
Công đồng Tridentino đã định tín là mọi hôn nhân, do luật tự
nhiên và thiên định, đều vĩnh viễn và bất khả phân ly (Conc.
Tridentino, sess. XXIV, in DS 1791-1798; 1805,1807)- Hôn nhân
giữa hai người “lương” thành sự “suốt đời”; ai nói ngược bị Vạ.
Bộ Giáo luật Latinh 1983 xác định lại điểm này trong điều 1134:
“Từ cuộc hôn nhân thành sự giữa những người phối ngẫu nảy sinh
một mối dây liên kết vĩnh viễn và độc hữu tự bản chất…”
III.3.2. Trong Giáo hội Việt Nam:
Theo năng quyền các xứ truyền giáo (Paolo III, Const. Altitudo
divini conssilii, 1 giu 1537, in DS 1497; Pio V, Const. Romani
Pontificis, 2 aug 1571, in DS 1983; Gregorio XIII, Const.
Populis ac nationibus, 25 gen 1585, in DS 1988); vị Thường quyền
Sở tại có quyền ban đặc ân:
* Cho phép người ngoài Công giáo đã kết hôn và ly dị, nay được
tái hôn với người Công giáo khác, theo Đặc ân Thánh Phaolô, khi
không thể hỏi ý kiến người bạn đời cũ hay khi người này không
trả lời.
* Kể cả khi hai vợ chồng ngoài Công giáo này đều trở lại và đã
Rửa tội; miễn là sau khi Rửa tội, họ không hề chung sống trở lại
(hôn nhân non-consummatum), được phép xin tháo gỡ hôn phối tự
nhiên này theo Đặc ân Giáo hoàng.
III.3.3. Áp dụng trong Mục vụ:
* Hôn nhân tự nhiên giữa hai người, theo đạo thờ Ông bà hay Phật
giáo, vẫn được Giáo Hội Việt-Nam coi là thành sự suốt đời; dù
Giáo Hội không phê phán việc họ ly dị theo lương tâm ngay lành
của họ. Do đó, không xin phép chuẩn khác đạo để kết hôn với
người “lương” đã từng có hôn phối trước, mà người “lương” này
phải xin theo đạo và xin kết hôn theo Đặc ân Thánh Phaolô
(1143-1144).
IV. KẾT LUẬN:
Trên đây chỉ là sơ lược một số qui định pháp lý Giáo luật và
Hướng dẫn mục vụ thông thường có tính tổng quát, nhằm đáp ứng
nhu cầu của những đôi hôn nhân bình thường. Tuy nhiên, ngày nay
sự rạn nứt trong tình yêu và hôn nhân Công giáo đã nảy sinh
những mâu thuẫn, ly thân hoặc đưa ra ly dị ở Tòa án đời. Rất cần
các chủ chăn phục vụ Dân Chúa cần tham khảo thêm về chuyên môn
để giúp đỡ các đôi hôn nhân bảo vệ Hạnh phúc gia đình và dây hôn
phối, cũng như giúp đỡ họ lời khuyên khi họ cần đến sự nâng đỡ
của Giáo hội về Giáo huấn, lời cầu nguyện cảm thông và những
hướng dẫn cần thiết.
Rất sẵn sàng trả lời những câu hỏi cần thiết về Giáo luật, về
Tòa án Hôn phối và cách giải quyết những nố hôn phối đặc biệt
trong Giáo hội Công Giáo.