Kính thưa quý vị và các bạn,
Có lẽ quý vị đã nhận thấy rằng trong những bài
vừa qua, tuy là mang tiếng là thần học về gia đình nhưng thực sự
chỉ chú trọng tới hôn nhân. Để bổ túc cho sự thiếu sót đó và để
kết thúc loạt bài về tháng này, chúng tôi xin trình bày một đề
tài thần học về gia đình thường được nhắc tới trong các văn kiện
Tòa thánh, đó là: Gia đình là một “Giáo hội gia thất”, (hay cũng
có thể dịch là : Giáo hội tại gia, Giáo hội thu hẹp, nguyên ngữ
latinh là: ecclesia domestica). Từ ngữ đó có ý nghĩa gì?
Theo các học giả, danh từ này được du nhập vào
các văn kiện của Giáo hội kể từ công đồng Vaticano II. Ở số 11
của Hiến chế về Hội thánh, khi nói về ý nghĩa của bí tích hôn
phối, công đồng viết như sau: “Do sự kết hợp vợ chồng mà gia
đình được hình thành, từ đó sinh ra những công dân của xã hội
loài người; những con người ấy nhờ ơn của Thánh Thần được trở
nên con cái của Chúa qua bí tích rửa tội ngõ hầu bành trướng Dân
Chúa trải qua dòng thời gian. Ở trong gia đình, tựa như trong
một Giáo hội gia thất (velut Ecclesia domestica), cha mẹ phải là
những người tiên phong rao giảng đức tin, bằng lời nói cũng như
bằng gương lành; cha mẹ cần phải cổ võ ơn gọi riêng của mỗi
người con, đặc biệt là ơn gọi tận hiến”.
Như vậy, ta có thể nói rằng gia đình ví được như
một tế bào của Giáo hội, nơi giúp cho Giáo hội được tăng trưởng
và cũng là nơi hình thành Giáo hội qua việc rao truyền đức tin.
Sau công đồng, đức Phaolô VI đã trở lại với ý tưởng “Giáo hội
gia thất” đặc biệt vào buổi tiếp kiến phong trào “Équipes Notre
Dame” hồi tháng 5 năm 1970. Ngài chú giải tư tưởng của công đồng
Vaticano II, coi gia đình như một “tiểu Giáo hội” (petite
Église), một “tế bào của Giáo hội” (cellule d'Église), qua hai
sắc thái sau đây:
a) cũng như Giáo hội có sứ mạng bày tỏ lòng khoan
nhân của Thiên Chúa, thì gia đình Kitô giáo cũng cần bày tỏ
khuôn mặt tươi cười hiền dịu của Giáo hội qua việc tiếp đón
những tổ ấm khác đang gặp khó khăn;
b) gia đình phản ánh bộ mặt của Giáo hội lữ hành,
gồm những lúc vui buồn, những lần sa ngã cũng như những lần được
tha thứ và nên thánh. Vào năm 1975, trong tông huấn “Rao giảng
Tin mừng” (Evangelii Nuntiandi) số 70, đức Phaolô VI trình bày
gia đình như là một Giáo hội gia thất, theo nghĩa là một môi
trường ở đó Phúc âm được rao truyền, chuyển thông và tỏa rạng.
Với đức Gioan Phaolô II, tư tưởng gia đình như
Giáo hội gia thất được dùng thường xuyên hơn, đặc biệt là trong
tông huấn “Đời sống gia đình” (Familiaris consortio). Từ ngữ này
xuất hiện tới gần 10 lần (ở các số 21; 38; 48-52; 59; 65; 86).
Trước khi phân tích tư tưởng của những đoạn văn vừa kể, thiết
tưởng nên đi ngược giòng lịch sử để tìm hiểu lai lịch của nó.
I. Lai lịch "giáo hội gia thất"
Tuy rằng từ ngữ “Hội thánh gia thất” mới được sử
dụng trong các văn kiện gần đây của Tòa thánh, nhưng nó đã ra
đời từ lâu rồi. Trong bài huấn từ dành cho “Equipes Notre Dame”
năm 1970, đức Phaolô VI trích dẫn thánh Gioan Kim khẩu (Hom. 20
in epist. ad Ephesios 5, 22-24: PG 62, 135-140) người đã dùng từ
ngữ “tiểu Giáo hội” trong khi chú giải đoạn văn của thánh Phaolô
gửi giáo đoàn Ephêsô chương 5.
Nhưng các tác giả còn đi ngược lên cao hơn nữa,
nghĩa là ngay từ trong chính Kinh thánh Tân ước, từ khi Giáo hội
vừa mới ra đời. Thực vậy, ở sách Tông đồ công vụ (2,46), Luca
cho ta biết rằng các Kitô hữu hằng ngày lên đền thờ cầu nguyện
rồi sau đó họ cử hành lễ nghi bẻ bánh ở nhà. Trong những tháng
năm đầu tiên, các Kitô hữu còn tham dự các buổi cầu nguyện cổ
truyền với người Do thái ở đền thờ; nhưng sau đó, nghĩa là khi
sang phần phụng vụ riêng của mình (gồm việc nghe lời giảng của
các tông đồ và việc bẻ bánh), thì họ cử hành ở nhà (kat'oikon).
Nên biết rằng không phải là ai về nhà nấy, nhưng tất cả tụ họp
nhau trong một nhà (thánh Luca dùng tiếng “nhà” ở số ít, chứ
không phải ở số nhiều): chính khi các tín hữu tụ họp cầu nguyện
trong một nhà mà Giáo hội được thành hình. - Trong Tân ước, ta
còn thấy từ- ngữ “ecclesia domestica” (mà bản dịch Vulgata dùng
để chuyển ngữ “kat'oikon ekklesia” tiếng Hy lạp) ở bốn đoạn của
các thư thánh Phaolô: Rm 16,5; 1 Cr 16,19; Cl 4,15; Plm 2.
Thánh Tông đồ dùng từ ngữ ấy để gọi cộng đồng
giáo hội tụ họp tại một căn nhà nào đó (Gaio ở Roma, Prisca và
Aquila ở Corintô, Nympas ở Laođixêa, Philêmôn). Giáo hội hồi đó
chưa có nhà thờ: các tín hữu họp nhau tại các căn nhà tư, và căn
nhà đó không những là nơi chứa nạp các tín hữu nhưng còn là nơi
biểu hiện của Giáo hội, bởi vì là nơi gặp gỡ tiếp đón, nơi rao
giảng Lời Chúa, nơi cầu nguyện. Thiết tưởng khi nói tới “cái
nhà” thì chúng ta đừng giới hạn tới cái kiến trúc vật chất
(vách, mái, cột); phải hiểu “nhà” như là gia đình, tổ ấm (thí dụ
Cv 10,1 và 18,8 nói tới việc “cả nhà” trở lại đạo; 1Tm 1,5-9 đòi
hỏi rằng vị lãnh đạo cộng đoàn tín hữu phải là người biết quản
trị nhà mình trước đã).
Với giòng thời gian, các tín hữu đã có nơi chốn
dành cho việc thờ tự, và nơi ấy được gọi là “giáo hội” (trong
các tiếng Âu mỹ, chỉ có một từ để ám chỉ Giáo hội và thánh
đường: ecclesia, église, church); tuy nhiên các giáo phụ không
ngừng khuyên nhủ các đôi bạn hãy tiếp tục cố gắng duy trì nhà
mình, nghĩa là gia đình thành một “Giáo hội” (hoặc hội thánh,
nhà thờ), bởi vì gia đình là một tế bào của Giáo hội: nơi thể
hiện tình yêu của đức Kitô đối với Hội thánh, nơi biểu hiện tình
yêu thông hiệp giữa ba ngôi Thiên Chúa, nơi mà đức Kitô hiện
diện khi có hai ba người ý hợp tâm đồng. Trong các giáo phụ,
thánh Gioan Kim khẩu là tác giả đã năng nhắc nhở các gia đình
hãy biến căn nhà của mình thành Giáo hội, thành thánh đường:
bằng lời cầu nguyện, bằng việc nghe Lời Chúa, bằng việc thực thi
bác ái không những giữa các phần tử trong nhà mà còn mở rộng tới
đối với người ngoài nữa (Sermones in Genesim 6,2; 7,1: PG
54,607; 608; Homiliae in Matthaeum 48,7: PG 58,495; Homiliae in
epist. ad Ephesios 20,6: PG 62, 143)
II. Nội dung tư tưởng qua tông huấn “Đời sống
gia đình”
Như đã nói trên đây, Đức Gioan Phaolô II đã nhiều
lần nói tới gia đình như “Giáo hội gia thất” (hay tế bào của
Giáo hội, tiểu Giáo hội). Từ ngữ đó có ý nghĩa gì? Chúng ta hãy
cố gắng khám phá nội dung tư tưởng của nó bằng cách rảo qua
những đoạn văn của tông huấn “Đời sống gia đình”.
1) Số 21 gọi gia đình là Giáo hội gia thất bởi vì
nó là nhiệm tích (dấu chỉ hữu hiệu) của sự thông hiệp của Giáo
hội: nó bao gồm bởi các phần tử được liên kết với nhau trong bí
tích rửa tội và nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.
2) Số 38 gọi gia đình là Giáo hội, bởi vì thi
hành một sứ mạng mẫu tử như Giáo hội qua việc giáo dục con cái
theo tinh thần Kitô giáo.
3) Số 48 so sánh gia đình với Giáo hội bởi vì
cùng mang một thiên chức ở giữa trần thế, tức là dấu hiệu của sự
hợp nhất và hòa bình.
4) Những đoạn văn súc tích hơn cả là từ số 49 trở
đi, khi đức Gioan Phaolô II bàn tới sự tham gia của gia đình vào
đời sống và sứ mạng của Giáo hội. Gia đình là một Giáo hội thu
gọn, bởi vì cùng thi hành những chức phận làm mẹ của Giáo hội Mẹ
: sinh sản, dưỡng dục con cái (số 49); gia đình một môi trường
cần được Phúc âm hóa (số 50) ngõ hầu trở thành môi trường truyền
bá Phúc âm (số 51). Gia đình đôi khi là nơi duy nhất mà các
thiếu nhi có thể lãnh nhận Tin mừng và được huấn giáo (số 52).
Qua số 54, ĐTC không ngần ngại thúc đẩy các gia đình hãy ra khỏi
bốn bức tường nhà để mang Tin mừng đi xa hơn, tới những người
không biết Chúa hoặc tới những gia đình sống xa Chúa do đời sống
không phù hợp với luân lý.
5) Từ số 55 trở đi, gia đình được gọi là Giáo hội
gia thất dưới khía cạnh là cung điện cầu nguyện, nơi gặp gỡ đối
thoại với Thiên Chúa: qua việc cầu nguyện, những hy sinh, những
nhân đức (số 59). Gia đình là nơi sống bí tích hôn nhân, nơi
chuẩn bị cho con em vào đời sống phụng vụ bí tích (số 61). Dĩ
nhiên, dưới khía cạnh này, gia đình góp phần đắc lực vào việc
kiến tạo Giáo hội thánh thiện (số 65).
6) Sau cùng, trong phần kết luận, Đức Maria Mẹ
của Giáo hội được khẩn nài như là Mẹ của các Giáo hội gia thất,
ngõ hầu họ phản ánh trung thực bản chất của Giáo hội nơi họ.
Kết luận
Tóm lại, gia đình được gọi là “Giáo hội gia thất”
(hay là: “Giáo hội thu hẹp”, “Giáo hội tại gia đình” - “gia đình
là Giáo hội”, “nhà Hội thánh") bởi vì gia đình thể hiện bản chất
và sứ mạng của Giáo hội: gia đình phản ánh sự thông hiệp của
tình yêu; gia đình được quy tụ do ơn thánh và đức tin; gia đình
thi hành chức vụ rao giảng Tin mừng, thực hiện chức phận làm mẹ;
gia đình là nơi thánh hóa, nơi cầu nguyện kết hợp với Chúa. Sách
Giáo Lý Hội thánh công giáo đã dành các số 1655-1658 (bí tích
hôn phối) cho tựa đề “Giáo hội gia thất”.
Nội dung được tóm lại ở số 1666 như sau : Tổ ấm
gia đình kitô giáo là nơi mà con cái lãnh nhận sự loan báo đức
tin đầu tiên. Chính vì vậy mà thực là đúng nghĩa khi gọi gia
đình là “Giáo hội gia thất”, cộng đồng ơn sủng và cầu nguyện,
trường dạy các nhân đức nhân bản và đức ái Kitô giáo.
Dù sao, thần học về “Giáo hội gia thất” cho thấy
rằng thần học về gia đình không thể nào chỉ giới hạn vào những
bổn phận luân lý hay quy tắc giáo luật, nhưng còn bao gồm nhiều
khía cạnh tu đức, thần bí và truyền giáo nữa. Hơn thế nữa, thần
học về “Giáo hội gia thất” cũng giúp chúng ta có một quan niệm
trung thực hơn về bản chất của Giáo hội: Giáo hội không phải chỉ
là một cơ chế, nhưng tiên vàn là một thực thể sống động, gồm
những phần tử liên kết với nhau trong tình thông hiệp của đức
tin cậy mến, dưới tác động của ơn thánh, để biểu lộ tình yêu của
Thiên Chúa ở giữa trần thế qua nếp sống, lời nói và việc làm. |