Những mong chờ sai lạc về gia
đình
Cũng cần ghi nhận rằng có nhiều người còn trẻ
mà đã có một thứ quan niệm duy tưởng và sai lầm là cho rằng đời
sống đôi lứa là một tình huống hoàn toàn hạnh phúc, thỏa no khát
vọng mà không cần phải trả một giá nào cả. Thế là phát sinh một
thứ mâu thuẫn giữa khát vọng trở nên một với người kia và ước
muốn bảo vệ tự do của mình. Ngày càng thấy có thêm sự hiểu lầm
về vẻ đẹp của đời sống lứa đôi chân thật, về các giá trị cố hữu
trong sự khác biệt và tính cách bổ túc hỗ tương trong tương quan
nam-nữ. Sự hiểu lầm này dẫn đến sự hiểu biết mập mờ lộn xộn về
căn tính của tính dục, mà chóp đỉnh của nó là ý thức hệ về nữ
quyền. Mặt khác, hiện trạng nghề nghiệp của đôi vợ chồng không
còn cho phép họ dành nhiều thời giờ cho nhau trong gia đình,
cũng như giới hạn khả năng đối thoại của hai người lại.
Gia Đình: Cái Nôi của Đời Sống và Tình Yêu
Đến khi xẩy ra khủng hoảng thì hai người
thường hay tự giải quyết lấy với nhau. Không có ai lắng nghe hay
giải thích cho họ, khiến cho họ không thể quyết định ngược trở
lại được nữa. Thiếu sự trợ giúp này, vợ chồng cứ khép kín trong
vấn đề của mình, không còn thấy đâu là giải pháp cho các khó
khăn đang ập đến để rồi chỉ còn một con đường duy nhất là ly
thân hay ly dị. Thật ra, nếu được một cộng đồng nhân loại và
mang chút ít tính cách của Hội Thánh giúp cho, thì có nhiều cuộc
khủng hoảng đã có thể tan đi và cũng có thể đã vượt qua được.
Yếu tố kinh tế và tiêu thụ của đời sống gia
đinh
Dù mang đầy những nét phức tạp, các yếu tố
kinh tế đã tạo ra các ảnh hưởng mãnh liệt trong việc hình thành
mô thức gia đình, trong việc thành lập các giá trị, trong việc
tổ chức các công việc, và trong việc xác định chính đời sống gia
đình. Thu nhập và chi tiêu để quân bình hoá cán cân chi thu
trong gia đình, gia sản và công ăn việc làm, ít nhiều ảnh hưởng
đến cha mẹ và con cái, tất cả các yếu tố này đều xác định, một
cách nào đó, các khía cạnh khác nhau của đời sống gia đình.
Hãy nghĩ đến các đôi lứa “công lệ” (tạm gọi thế), là những kẻ
thực sự không chỉ sống chung mà còn không thể kết hôn vì quá
túng thiếu. Một tình huống đáng lo ngại khác nữa là những kẻ
nhập cư, buộc phải rời bỏ gia đình và xứ sở đi kiếm việc làm để
nuôi sống gia đình, để rồi dần dà vì cứ mãi vắng xa, hoặc là vì
các lý do khác nữa, đã đi đến chỗ bỏ bê rồi buông luôn mái gia
đình đã bỏ lại sau lưng.
Các động cơ kiến tạo ra bầu khí tiêu thụ hằng
bủa vây gia đình cũng mang một nguồn gốc kinh tế. Chính từ căn
bản này mà người ta xác định ý nghĩa cho hạnh phúc, và hậu quả
là bị cụt hứng rồi bị loại ra bên lề xã hội. Chính kinh tế đã
xác định những điều quan trọng như vùng không gian sống của gia
đình, nghĩa là, kích thước nhà cửa, khả năng sở hữu nhà đất.
Cuối cùng cũng chính kinh tế đã điều kiện hóa các khả năng giáo
dục cũng như các dự phóng tương lai của con cái.
Trong ánh sáng này, ta không thể không mang
lấy một mối thương cảm sâu xa đối với cái được gọi là, và lẽ ra
phải là, cái nôi của đời sống và tình yêu, cũng là mái trường
nơi ta học được bài học làm người.
Gia Đình: Đường Đưa Con Thiên Chúa Trở Thành
Con Người
Việc Con Thiên Chúa nhập thể, sinh bởi một
người phụ nữ và phục tùng lề luật nhằm cứu chuộc những kẻ đang ở
dưới ách lề luật ngõ hầu trở thành nghĩa tự như là Con Thiên
Chúa (x. Gal 4:4-5) không phải là một biến cố chỉ gắn liền với
thời gian Chúa giáng trần, mà còn bao gồm trọn vẹn quãng đời
nhân thế của Chúa Giêsu, cho đến khi Ngài chết trên thập giá,
như Thánh Phaolô nói (x. Phil 2:8). Thánh Công Đồng Vatican II
cũng diễn tả ý nghĩa ấy khi bảo rằng Con Thiên Chúa đã lao động
với đôi tay nhân loại và yêu thương bằng trái tim nhân thế (x.
GS 22). Vì thế, nhân tính không hề là một trở ngại cho việc Ngài
biểu tỏ thiên tính của mình, mà thực ra, đó lại là bí tích mạc
khải Thiên Chúa cũng như khiến cho Ngài trở nên hữu hình và đụng
chạm được. Thật là kỳ diệu khi chiêm ngắm một Thiên Chúa yêu
thương con người đắm đuối đến độ biến mình trở thành con đường
mà con người có thể bước đi để đến với Ngài. Bởi đó, con đường
của Hội Thánh chính là con người, là đối tượng mà Hội Thánh hằng
yêu thương, phục vụ và giúp đỡ để có thể đạt tới mức sung mãn
của cuộc đời.
Chính bởi vì muốn nhập thể, cho nên Thiên
Chúa đã phải chọn tìm một mái gia đình, một người mẹ (x. Lk
1:26-38), và một người cha (x. Mt 1:18-25). Nếu Thiên Chúa đã
trở thành con người trong cung lòng đồng trinh của Mẹ Maria, thì
chính từ trong đáy gia đình Nazaret mà Thiên Chúa nhập thể đã
học được cách làm người. Để được sinh ra, Thiên Chúa cần đến một
người mẹ; để lớn lên và thành người, Thiên Chúa cần đến một mái
gia đình. Maria đã không chỉ là một người đã cưu mang Chúa Kitô,
mà là một người mẹ chân chính, cùng với Giuse, đã làm cho mái
nhà Nazaret trở thành một tổ ấm nơi đó Con Thiên Chúa đã có thể
thành người (x. Lk 2:51-52).
Do bởi việc nhập thể của Con Thiên Chúa là
một biến cố chân chính, do đó việc phát triển của Ngài sau đó
diễn tiến tự nhiên như cho mọi con người; cần có một mái gia
đình để chấp nhận và chào đón Ngài, đồng hành với Ngài, yêu
thương và cộng tác với Ngài trong việc phát triển tất cả mọi
chiều kích nhân bản khiến cho Ngài thực sự trở thành một “ngôi
vị” con người; tất cả những điều này đều diễn tiến trong một kế
hoạch đời sống có khả năng làm khả hữu sự phát triển các tài
năng của chính mình và tìm ra ý nghĩa cũng như thành quả trong
đời sống.
Trách vụ cần thiết và mang tính chất giáo dục đầy công hiệu mà
gia đình cống hiến cho các thành viên được minh chứng qua trường
hợp gia đình Nazaret được diễn tả trong trang Phúc Âm theo thánh
Luca nói về việc tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thờ: “Sau ba
ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa
các thầy dậy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng
ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi
thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: ‘Con
ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con
và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!’ Người đáp:’Sao cha mẹ lại
tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con
sao?’ Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó, Người
đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret, và hằng vâng phục các
ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong
lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và
thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta. (Lk 2:48-52).
Trong bản văn này, ta thấy được ba điểm giá
trị mà gia đình được mời gọi thực hiện cho con cái để chúng có
thể trở thành “các công dân lương thiện và các Kitô hữu gương
mẫu.” Từ quan điểm này, thiết tưởng thật là có lý khi lấy tinh
thần Salesian để giải thích cái nguyên lý nhập thể theo chiều
hướng của một kế hoạch giáo dục.
Trước hết, không phải là vô lý khi thánh
Giuse và Mẹ Maria đã đem Chúa Giêsu lên Đền Thờ vào lứa tuổi một
người con trai đang học hỏi cách hoàn toàn đảm nhận vai trò của
mình trong đời sống dân Ngài, theo đúng các truyền thống vốn đã
nuôi dưỡng và nâng đỡ niềm tin của cha mẹ mình. Gia đình Chúa
Giêsu đã đem Ngài lên Đền Thờ tuân theo lề luật và các thực hành
đức tin, cho dù các ngài biết rằng con mình chính là Con Thiên
Chúa. Nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu không hề tha phép cho
Ngài không phải tuân giữ các bổn phận chung của người Do Thái,
là tuân giữ lề luật Chúa; Con Thiên Chúa đã học cách làm người
bằng việc vâng phục con người.
Cũng cần ghi nhận rằng thái độ tôn trọng cha
mẹ Ngài dành cho Ngài khi Ngài đang tìm biết ý Chúa thể hiện
trong đời mình. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy một vẻ kinh
ngạc, y như bảo rằng: “Sau khi dậy con gọi Thiên Chúa là Abba,
Cha ơi, và tìm cách làm tròn ý Người, thì giờ đây, con đang ở
trong nhà Người vào dịp lễ mà con đang hoàn toàn trở thành ‘đưá
con của lề luật’, sống hoàn toàn tuân hành ý Cha, thì cha mẹ lại
hỏi rằng con đã ở đâu và tại sao con lại làm thế?” (x. Lk 2:49).
Dù chưa hoàn toàn trưởng thành, Chúa Giêsu vẫn nhắc cha mẹ rằng
chính các ngài đã dậy cho Ngài như thế này là: Thiên Chúa và các
việc của Người thì cao trọng và ưu tiên hơn là gia đình và các
công việc của gia đình.
Sau cùng, ta có thể ghi
nhận rằng sự thiếu hiểu biết của cha mẹ đã không trở thành trở
ngại cho việc vâng phục của người con khi đi theo các ngài về
sống tại Nazaret. Chúa Giêsu vẫn tùng phục cha mẹ cho dù các
ngài không còn hiểu Ngài nữa. Và do đó, tác giả phúc âm đã kết
luận rằng, trong khi Maria ‘ghi nhớ tất cả những điều ấy trong
lòng’ (Lc 2:51), thì Chúa Giêsu ‘ngày càng thêm khôn ngoan, thêm
cao lớn, và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta’ (Lk
2:52). Chính nơi đây, ta thấy được điểm son nổi bật nhất: đó là
khả năng giáo dục của Giuse và Maria. Đó cũng là ý nghĩa thực tế
khi bảo rằng cần phải biến gia đình thành một mái nhà và một mái
trường, “một cái nôi của đời sống và tình yêu, nơi đó, ta học
được bài học vỡ long về cách làm người.”
Chính từ bên trong
một mái gia đình mà Chúa Giêsu đã học cách vâng phục lề luật và
chìm đắm trong nền văn hoá của một dân tộc. Chính từ bên trong
một mái gia đình mà Chúa Giêsu đã biểu lộ ước vọng dành chỗ cao
trọng nhất cho Thiên Chúa, và chỉ rắp tâm lo lắng đến việc của
Chúa. Dù ý thức mình là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu vẫn trở về
với đời sống gia đình như một con người ở giữa mọi người, “càng
thêm tuổi, càng thêm nhân đức và khôn ngoan.” Con Thiên Chúa đã
có thể bắt đầu cuộc sống bằng việc được sinh ra bởi một người mẹ
đồng trinh mà không cần đến một mái gia đình, nhưng nếu không có
một mái gia đình thì Ngài đã chẳng thể lớn lên và trưởng thành
như một con người. Một trinh nữ đã cưu mang Con Thiên Chúa; một
mái gia đình đã làm cho Ngài trở thành con người hoàn toàn. Ta
còn có thể nói gì về giá trị thánh thiêng của gia đình hơn nữa
đây? |