Kính thưa quý vị và các bạn,
Năm 1994, cùng với Liên Hợp Quốc, Giáo hội đã dành nguyên một
năm để cổ võ đời sống gia đình. Qua những tiết mục khác nhau,
đài phát thanh Vatican đã thông tin cho quý vị về những kế hoạch
của Giáo hội toàn cầu đã thực hiện nhằm đề cao những giá trị của
gia đình, trong đó phải kể đến lá thư gửi cho các gia đình của
Đức Gioan Phaolô II. Quả là xứng đáng để dành một vài buổi nói
riêng về thần học hôn nhân và một vài vấn đề của gia đình.
Thực ra, vấn đề gia đình bao gồm rất nhiều bộ môn khác nhau, thí
dụ : tín lý (xét về hôn nhân như là một bí tích), luân lý và tu
đức (bàn về ơn gọi của vợ chồng và cha mẹ trong việc thánh hóa
tổ ấm gia đình), mục vụ (chuẩn bị các đôi bạn vào đời hôn nhân
cũng như giúp cho các đôi bạn đương đầu với những khó khăn của
đời sống gia đình; đó là chưa kể tới việc giáo dục bạn trẻ về
quan niệm hôn nhân, đương đầu với những trào lưu chủ trương tự
do luyến ái), và những hướng dẫn quy định của giáo luật. Chúng
tôi xin giới hạn vào một vài vấn đề căn bản của thần học về bí
tích hôn nhân, nhằm nêu bật những tiến triển của học lý trong
những năm tiếp theo công đồng Vaticano II, cũng như những cuộc
tranh luận còn tiếp diễn, đặc biệt chung quanh vấn đề trợ giúp
những đôi hôn nhân tan vỡ. Trước tiên, chúng ta hãy lược qua
lịch sử của thần học và giáo luật về hôn nhân.
I. Hôn nhân trải qua lịch
sử
A.
Các Kitô hữu tiên khởi đã đương đầu với hai quan
điểm khác nhau về hôn nhân : quan điểm của Do thái và quan điểm
của Rôma.
1)
Quan điểm của Do thái (tức là Kinh thánh Cựu ước) đặt nặng chiều
hướng thánh thiêng của mối tương giao vợ chồng dựa theo luật
Chúa.
2)
Quan điểm của Rôma vào thời ấy thì nói được là tục hóa hôn nhân:
giá trị của hôn nhân ở chỗ tình nghĩa vợ chồng (affectio
maritalis), nghĩa là ý muốn kết hôn, và ngày nào rút lại ý muốn
đó thì giá thú cũng chấm dứt. Đó là nói trên nguyên tắc, chứ
trên thực tế, thì đây không phải là một khế ước song phương theo
nghĩa chặt, bởi lẽ đôi vợ chồng không được đối xử bình quyền với
nhau.
Vào thời ấy, các Kitô hữu cũng kết hôn theo phong tục đương
thời: họ chẳng có bộ giáo luật riêng cũng chẳng có nghi thức
riêng. Tuy nhiên, Tân ước và các giáo phụ đã làm một cuộc cách
mạng tư tưởng không nhỏ về hôn nhân ở 3 điểm sau.
1)
Thánh Phaolô, trong thư 1 Côrintô và thư Ephêsô chương 5, đã
khẳng định về sự bình đẳng giữa vợ chồng: người chồng không được
đối xử với vợ như là một món đồ sở hữu theo quan điểm Rôma.
Người vợ phải chung thủy với chồng; nhưng mà chồng cũng buộc
phải chung thủy với vợ nữa. Hậu nhiên, thánh Phaolô cũng cấm ly
dị.
2)
Mặt khác, tư tưởng của Phaolô cũng làm thay đổi tục môn đăng hộ
đối, theo nghĩa là các Kitô hữu có thể kết hôn với nhau bất kể
điều kiện xã hội về công dân tự do hoặc thành phần nô lệ.
3)
Dựa theo một tác phẩm vô danh vào thế kỷ thứ 2 (Thư gửi cho
Diognêtô), ta thấy mối bận tâm của các Kitô hữu thời ấy là cố
gắng cải tổ những hủ tục trái ngược với luân lý, thí dụ tục bỏ
rơi con trẻ, tục ăn nằm chung chạ.
B.
Sau những thế kỷ đầu tiên chú trọng tới luân lý tác phong (cách
riêng bài trừ tục ngoại tình và tái hôn sau khi ly dị), Giáo hội
bước sang phần suy tư về hôn nhân, mà có thể coi Augustinô như
tiên phong. Thánh Augustino gọi hôn nhân là bí tích
“sacramentum”, một danh từ dùng để chỉ sự chung thủy. Augustinô
cũng nói tới ba điều thiện (bonum) của hôn nhân: sự trung tín
(fides), con cái (proles) và bền vững (sacramentum).
C.
Qua thời Trung cổ, ta thấy có bước tiến nhảy vọt
về thần học và giáo luật về hôn nhân, do nhiều nhân tố khác
nhau.
1)
Đế quốc Rôma sụp đổ, các cơ cấu xã hội bị đảo lộn. Các vị Giám
mục không những phải để ý tới khía cạnh đạo đức của hôn nhân mà
nhiều lần phải đảm đương vai trò của hộ lại dân sự nữa: nói cách
khác, dần dần luật của Giáo hội không những chi phối khía cạnh
tôn giáo của hôn nhân mà còn phải để ý tới hết mọi góc cạnh của
nó, từ vấn đề bản chất, cho tới các thủ tục kết hôn hoặc tiêu
hôn.
2)
Ngoài phong tục Rôma, Giáo hội làm quen với phong tục mới từ dân
Germanic từ phương Bắc xuống. Luật Rôma coi giá thú hoàn thành
kể từ lúc đôi bạn thỏa thuận kết ước (consensus facit nuptias);
nhưng luật Germanic chỉ coi giá thú hoàn thành kể từ khi vợ
chồng ăn ở với nhau và đã giao nạp sính lễ (mundium). Hai phong
tục ấy đã gây ra một cuộc tranh luận thần học giữa đại học Paris
với đại học Bologna, kéo dài suốt thế kỷ XII. Dĩ nhiên, quan
điểm của luật Rôma xem ra với Kinh thánh hơn, vì đề cao bình
đẳng nhân vị; và như vậy cũng có thể giải quyết vì sao thánh
Giuse với đức Maria đã kết hôn rồi thành sự rồi tuy dù không hề
ăn ở với nhau. Tuy nhiên, Giáo hội không thể nào không đếm xỉa
tới văn hóa của dân Germanic, chiếm một phần lớn các tín hữu
thời đó. Gratianô, một giáo sư thế giá của giáo luật đương thời,
đã tìm cách dung hòa hai quan điểm như thế này: hôn nhân bắt đầu
với sự thỏa thuận, nhưng chỉ hoàn hợp với sự ăn ở với nhau. Đây
là nguồn gốc của sự phân biệt giữa hôn nhân “thành nhận” (ratum)
và “hoàn hợp” (consummatum).
3)
Thực ra cuộc tranh luận này không phải chỉ có tính cách lý
thuyết nhằm dung hoà hai nền văn hóa khác nhau, nhưng còn nhằm
tới những vấn đề xã hội thực tiễn nữa. Khi nhấn mạnh tới sự thỏa
thuận của đôi vợ chồng trong hôn nhân, Giáo hội muốn bài trừ một
hủ tục đương thời trong đó hôn nhân do cha mẹ xếp đặt: hôn nhân
là cơ hội để các họ tộc kết nghĩa tăng thêm vây cánh, và do đó
chỉ chú ý tới lợi lộc vật chất của gia đình chứ chẳng màng tới
hạnh phúc của đôi vợ chồng. Cũng trong chiều hướng bảo vệ sự
thánh thiêng và bền vững của giá thú, Giáo hội đòi hỏi thể
thức pháp lý của sự cử hành. Thực vậy, có những anh
chàng đồng ý lấy vợ (nghĩa là thỏa thuận) rồi, nhưng chỉ là hứa
cuội sau đó lại đi với cô khác, với hậu quả là không biết ai là
vợ thật ai là vợ giả. Vì vậy, giáo luật thêm rằng sự thỏa thuận
cần diễn ra theo thể thức pháp định thì mới có giá trị. Sang thế
kỷ 13, thì nói được là những vấn đề thần học và pháp lý về giá
thú đã tạm ổn định, và thánh Tommaso Aquinô đã có thể trình bày
cách hệ thống trong các tác phẩm của mình
.
Tommaso nói rằng thiên nhiên đã hướng con người kết hôn vì hai
mục tiêu sau đây: sự sinh sản con cái, và sự giáo dục con cái
cùng là việc vợ chồng nâng đỡ lẫn nhau để chu toàn việc dưỡng
dục con cái. Sự thỏa thuận là nguyên nhân tác thành của giá thú
nhưng không phải là bản chất của nó. Đối tượng của sự thỏa thuận
chính là sự tương giao vợ chồng mang theo những nghĩa vụ và
quyền lợi căn bản của hôn nhân.
D.
Có thể nói được là những thế kỷ 17-19 đã đem thần học hôn nhân
đi thụt lùi. Các nhà luân lý và giáo luật bỏ qua
những suy tư thần học để bắt đầu tranh luận về những chi tiết
giải nố, và càng ngày càng chú trọng tới khía cạnh sinh lý, hơn
là khía cạnh tinh thần của hôn nhân. Ảnh hưởng của tâm trạng đó
còn ghi lại trong bộ giáo luật 1917 khi định nghĩa đối tượng của
sự thỏa thuận hôn nhân là “quyền trên thân thể” (jus ad corpus).
Mục tiêu của chính của hôn nhân là sinh đẻ và giáo dục con cái;
mục tiêu phụ là vợ chồng nâng đỡ nhau và chữa trị nhục dục.
E.
Sự chuyển hướng về thần học hôn nhân bắt đầu vào
thập niên thứ ba của thế kỷ 20. Dietrich von Hildebrand (Le
mariage, nguyên tác tiếng Đức Die Ehe xuất bản năm
1929) viết rằng: vợ chồng lấy nhau là vì họ yêu nhau, muốn
trở thành một; dây kết hợp vợ chồng được tạo nên qua việc trao
thân cho nhau, và con cái là kết quả của tình yêu ấy. Sáu năm
sau, linh mục Herbert Doms (Du sens et de la fin du mariage,
1935) cũng chuyển hướng mục tiêu của hôn nhân sang tình yêu:
tình yêu vợ chồng bao gồm một mối tương quan, và được diễn tả
qua việc ái ân cũng như việc sinh sản; chính tình yêu làm cho sự
giao hợp của đôi bạn khác với sự giao hợp của loài động vật. Khi
vừa mới xướng lên, những tư tưởng vừa nói đã gặp nhiều phản đối
không những giữa các nhà thần học luân lý và giáo luật mà thậm
chí cả về phía Tòa thánh nữa. Phải chờ tới công đồng Vaticano II
thì thế cờ mới lật ngược.
II.
Thần học Hôn nhân từ công đồng Vaticano II.
Giáo huấn căn bản về hôn nhân của công đồng được trình bày ở
Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” 47-52. Các nghị phụ đã bỏ kiểu
nói khô khan của luật lệ với những điều truyền cấm, và dùng tới
ngôn ngữ dựa theo Kinh thánh cũng như đề cao tương quan nhân vị
trong hôn nhân, thí dụ như: giao ước (foedus), trao ban cho nhau
(sese tradere et accipere, mutua duarum personarum donatio),
sự kết hợp thân tình (intima unio), tình yêu hôn nhân
(amor coniugalis), chung sống với nhau (consortium vitae).
Sau công đồng, một văn kiện của Giáo hội về hôn nhân và gia đình
là thông điệp “Sự sống con người” (Humanae vitae)
của đức Phaolô VI (1968) và tông huấn “Đời sống gia đình”
(Familiaris consortio) của đức Gioan Phaolô II (1981). Dĩ nhiên
những giáo huấn đã ảnh hưởng rất lớn vào cuộc cải tổ bộ giáo
luật 1983.
Trong bài sau, chúng tôi sẽ trình bày những khía cạnh thần học
và pháp lý của hôn nhân dựa theo bộ giáo luật hiện hành
Summa theologiae, Summa contra Gentiles, Commentarium in
Sententiae |