Bàn về những khía cạnh dẫn đến trình trạng
thiếu trưởng thành tâm linh mà không nêu lên hiện tượng thần
thánh hóa giới tu hành là một thiếu sót. Chúng ta không biết
nguyên nhân của hiện tượng này từ đâu và do ai, phía tu hành hay
phía giáo dân, nhưng hiện tượng ấy là một điều mà tất cả những
ai có một tầm nhìn trưởng thành về Giáo Hội, và về đời sống tâm
linh đều nhận thấy. Tuy nhiên, đây lại là một đề tài hết sức
nhậy cảm, và đã từng gây ra nhiều tranh cãi, đôi khi gay gắt
giữa hai phái hủng hộ và cải cách. Một bên muốn giữ lại tất cả
những gì là nề nếp, là tập tục, và cảm tình qúy mến sẵn có dành
cho giới tu hành, một bên muốn đặt lại cái nhìn và lề thói cư xử
để đem lại sự quân bình trong nếp sống tâm linh của chính mình
cũng như của Giáo Hội.
Trường hợp 1: Tôi quen biết một người rất có
lòng sùng mộ các vị chân tu. Bà rất mực đạo hạnh và kính trọng
các linh mục, tu sỹ nam nữ. Sự kính trọng được coi là hơi quá
mức và lắm lúc mù quáng. Một lần bà nhờ tôi dàn xếp để được gặp
và xưng tội với một giám mục. Bà đã được toại nguyện, và bà đã
tỏ ra hết sức sung sướng, đến độ bà cho rằng nếu bà có chết đêm
hôm đó, bà cũng sẵn sàng, vì theo bà được xưng tội với một giám
mục là một ước mơ quá lớn lao và hầu như không thể trở thành
hiện thực đối với bà.
Trong đời sống bình thường, bà dành dụm, nhịn
ăn, nhịn tiêu để rồi hầu như tất cả số tiền già của bà mỗi tháng
đều được chia đều cho các hội bảo trợ ơn thiên triệu, hoặc xin
lễ các dòng này, dòng khác. Bà không để bất cứ một ai động chạm
đến các vị tu hành mà bà vẫn thường gọi là “các đấng”.
Trường hợp 2: Một vị linh mục trước khi qua
đời đã cho hội họp tất cả các con, cháu thiêng liêng, những
người mà vị linh mục đó đã giúp đỡ cách này, cách khác trong đời
sống tâm linh để trăn trối. Một trong những điều được vị linh
mục này nhắn nhủ các nghĩa tử của mình là không được bao giờ
đụng chạm đến bất cứ một linh mục nào, bất cứ cách nào, nhưng
phải tôn trọng tuyệt đối. Không được tố cáo, và đưa các vị ra
trước tòa án với bất cứ hình thức nào. Tóm lại, linh mục là
người bất khả xâm phạm.
Trường hợp 3: Một hôm, trong một cuộc họp mặt
gia đình, người em dâu tôi hỏi:
- Anh có biết ông cha Đ.... ở tiểu bang
Mississippi không?
- Nhiều linh mục Việt Nam ở Hoa Kỳ làm sao
anh biết hết nổi. Nói rồi tôi hỏi lại cô em:
- Có gì đặc biệt nơi vị linh mục ấy khiến em
muốn hỏi anh không?
- Có chứ! Rồi cô tiếp tục kể: Hồi năm ngoái
tụi em về thăm bố mẹ em ở Mississippi, vợ chồng em cãi nhau
thiếu điều muốn đánh lộn vì một ông cha. Anh ấy bảo là anh ấy
thấy ông cha chửi thề và đánh bạc, còn em thì em nói là không
bao giờ có chuyện ấy, hoặc anh ấy nhìn nhầm người. Nhưng anh ấy
thì nói rõ là buổi tối hôm thứ Bẩy anh và mấy người bạn ghé
sòng bài, gặp ông cha ấy đang ngồi đánh bài. Ông ta đánh rất
hăng và khi được cũng như khi thua thì ông ta chửi thề và văng
tục hơn cả những người chung quanh. Sáng Chúa Nhật hôm sau, lúc
làm lễ và anh ấy nhìn kỹ mới rõ là ông là người mà anh gặp trong
sòng bài tối thứ Bẩy.
KÍNH TRỌNG VÀ THẦN THÁNH HÓA
Ba trường hợp vừa nêu trên chỉ là những thí dụ
điển hình mà nhiều Kitô hữu đã thường nghe và chứng kiến. Không
những chỉ người Kitô hữu, mà ngay cả nhiều vị chân tu cũng đã
xác nhận. Một vị linh mục cao niên và đã từng kinh nghiệm nhiều
với các sinh hoạt mục vụ, đã có lần tâm sự và cho biết. Vị này
nói: “Tôi là một linh mục, nhưng nếu tôi nói rõ hết những bê bối
của nhiều vị, tôi sợ rằng nhiều người sẽ bỏ đạo!”
Tuy vậy, đối với phần đông tín hữu Việt Nam
các linh mục vẫn là nhất: Thông thái nhất. Giỏi giang nhất. Đạo
đức nhất. Thánh thiện nhất. Nhất đến độ không ai có quyền nhận
xét, và phê bình. Cuồng tín hơn nữa là tư tưởng cho rằng tất cả
những gì đụng chạm đến các linh mục, dù là những nhận xét và
đóng góp tích cực, đều được coi là một sự xúc phạm. Và vì xúc
phạm đến “cha” cũng có nghĩa là xúc phạm đến “Chúa”: “Chống cha
là chống Chúa!”.
Một điều xem như nghịch lý là cũng thuộc thành
phần tu trì, nói đến “cha” thì ai cũng bênh vực, nhưng nếu có ai
phê bình mấy tu sỹ nam nữ không thuộc thành phần linh mục thì
coi như chuyện bình thường và có thể chấp nhận. Quan niệm bình
dân là vì hơn nhau cái “chức thánh”.
- Kính trọng:
Kính trọng là hành động của con người hiểu
biết trong tương quan xã hội, và đạo đức xã hội. Đặc biệt, trong
một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu đậm của Khổng Giáo. Những câu
như: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Như “Quân, sự, phụ”. Hoặc như
“Một chữ cũng là thầy. Nửa chữ cũng là thầy”. Tất cả đã nói lên
sự kính trọng được dành cho những người có chức tước, bằng cấp,
và địa vị trong xã hội. Và điều này được mặc nhiên công nhận.
Những câu xưng hô như cụ tú, cụ cử, cụ nghè luôn luôn được nói
lên với tâm tình mộ mến, và với lòng kính trọng.
Điều này dễ hiểu, vì trong hoàn cảnh xã hội
của Việt Nam trước đây, cơ hội được tiếp thu với chữ nghĩa, với
học hỏi chỉ dành cho một số ít may mắn. Nguyễn Du còn coi đây
như một cơ duyên trời định, mà theo một nghĩa nào đó, như tiền
định được dành cho một thiểu số ít ỏiù: “Bắt phong trần phải
phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Những người
có chút kiến thức, khoa bảng, vì thế, lại càng được nổi bật hơn
nữa trong xã hội Việt Nam.
Riêng đối với những Kitô hữu, khi nhìn các
linh mục, những vị chân tu thì ngoài những điều được nhắc đến về
kiến thức, hiểu biết, lại còn một điểm coi như rất mực quan
trọng, đó là “chức thánh”. Thật vậy, tuy không hiểu chức thánh
là gì, hoặc tuy không thấu đáo về chức thánh, nhưng hễ nói đến
những ai có chức thánh thì phần đông Kitô hữu Việt Nam liền đồng
hóa họ với đạo đức, với thánh thiện. Một linh mục kia đã có lần
nói rằng người giáo dân đã phong thánh cho các linh mục liền
ngay sau khi họ được phong chức.
Một con người có thể coi như thần thánh. Một
con người được nhìn với cái nhãn hiệu thông thái, hiểu biết, và
quyền uy như thế, nếu có được thần thánh hóa cũng là điều dễ
hiểu trong cái nhìn của nhiều Kitô hữu Việt Nam. Nhưng chính vì
thần thánh hóa như vậy, nên mới nẩy sinh lối sống, và sự tương
quan lệch lạc giữa các linh mục với giáo dân, và giáo dân với
thành phần có chức thánh.
- Thần thánh hóa:
“Cha nói là Chúa nói”.
“Cha bảo vậy”.
“Cha là đại diện của Chúa. Cha bảo sao thì
phải nghe như vậy.”
Những câu nói tương tự như trên hầu như những
Kitô hữu nào trên 50 tuổi, cái tuổi phần lớn chịu ảnh hưởng bởi
nền giáo dục tôn giáo mang nhiều ảnh hưởng “thần thánh hóa” các
vị tu hành. Ở vào thời điểm này, phần đông Kitô hữu không tìm
đâu ra hình ảnh trung thực của một vị linh mục, hơn là vị đó
chính là đại diện của Đức Chúa Trời. Mà vì là đại diện Chúa, nên
quyền uy cũng ngang ngửa như Đức Chúa Trời. Không ai được nói
đụng tới. Không ai được phê bình. Và không ai được góp ý kiến.
Bởi vì cha biết tất cả. Cha luôn luôn đúng. Và hơn thế, cha thay
mặt Chúa.
Trong một dịp dùng cơm tại tư gia Đức Giám Mục
Mai Thanh Lương, họa sỹ và điêu khắc gia Văn Nhân đã kể một câu
truyện khiến mọi người cùng nghe vui vẻ nhưng nghĩ lại mang rất
nhiều ý nghĩa:
Đó là, khoảng thập niên 40, tại làng An Nghĩa
thuộc tỉnh Bùi Chu có một ông trùm có máu cờ bạc. Thời đó cha
Bảng làm chính xứ. Cha rất ghét cờ bạc, nên một hôm được báo cho
biết là ông trùm đang tổ chức xóc đĩa tại nhà. Cha xứ liền gọi
một ít thanh niên trong làng đến tận nơi. Không may cho ông trùm
bị cha bắt tại trận. Và thế là cha ra lệnh nọc ông trùm ra đánh
tới tấp khiến ông trùm phần xấu hổ với con cháu, phần đau quá
không chịu nổi đã kêu lên:
- Nếu cha cứ tiếp tục đánh như vậy, tôi sẽ bỏ
đạo.
- Gớm nhỉ! Thế thì ông trùm đành đánh mất linh
hồn à! Vậy cụ đánh để rút linh hồn ông trùm ra trước nhá.
Vừa nói, cha xứ vừa tiếp tục quất liên hồi.
Đau quá, ông trùm lại nói:
- Xin cha tha cho con. Con xin ăn năn chừa
cải.
- Được! Để cụ đánh để nhét linh hồn ông trùm
vào đã.
...
Không biết là ông trùm làng An Nghĩa có bỏ
đánh bạc, có ăn năn chừa cải, và cha xứ có nhét được linh hồn
vào cho ông trùm không, nhưng đó là một câu truyện cho thấy cái
hậu quả của sự thần thánh hóa các linh mục thời bấy giờ.
Ngày nay, ngược lại, hình ảnh của các vị tu
hành đã bị xóa nhòa nhiều, không phải vì giáo dân đã mất đi sự
kính trọng, nhưng là đã bớt dần cái nhìn thần thánh hóa được
dành cho thành phần tu hành. Giáo Hội Hoa Kỳ đã phải chi ra hơn
2 tỷ Mỹ Kim để bồi thường những thiệt hại do một số giám mục,
linh mục trong vụ án lạm dụng tình dục. Hồng Y Bernard Law đã
mất chức Tổng Giám Mục Boston vì bao che cho những vụ lạm dụng
tình dục của các linh mục thuộc quyền ngài. Gần đây Giáo Phận
San Diego là giáo phận thứ 5 trên toàn quốc Hoa Kỳ đã phải khai
phá sản hòng tránh những vụ kiện cũng liên quan đến những vụ lạm
dụng tình dục của các giáo sỹ trong địa phận. Riêng Giáo Phận
Orange nơi có đông tín hữu Việt Nam cũng đã phải chi ra 100
triệu để bồi thường những xúc phạm về tình dục của hàng giáo sỹ.
Nhưng rồi ngày 6 tháng 9 năm 2007, tòa án lại ra lệnh Giám Mục
Tod Brown và Giám Mục Hồi Hưu Norman McFarland ra trả lời tiếp
về những cáo buộc cũng liên quan đến những vụ xâm phạm tình dục
của các giáo sỹ trong giáo phận.
Ngoài ra, hình ảnh của những linh mục, giám
mục làm tay sai cho Cộng Sản Ba Lan trước đây cũng đã được bạch
hóa, đã cho thấy rằng quan niệm thần thánh hóa giới tu hành là
một quan niệm và lối sống đạo không trưởng thành. Và điều này
cũng nói lên rằng không phải lúc nào “cha” cũng luôn luôn đúng.
Và không phải hễ đã là “cha” thì được miễn trừ tất cả, và nhất
là không ai được phép động tới.
CHỨC THÁNH VÀ CON NGƯỜI
Không ai phủ nhận thiên chức linh mục, và cũng
không ai thắc mắc gì về sự cao cả của thiên chức này. Nhưng điều
thường gây ra những ngộ nhận và rắc rối là sự hiểu biết lẫn lộn
về sự cách biệt giữa chức thánh và con người mang chức thánh.
- Chức thánh:
Qua ánh sáng đức tin, và do lòng thành kính
đối với Chúa và Giáo Hội, phần đông các tín hữu đều tin tưởng
rằng, chức thánh là do Chúa và đến từ Chúa. Người Kitô hữu Việt
Nam có lẽ ít ai thắc mắc hoặc muốn vặn hỏi về ý nghĩa thần học
hoặc tu đức của chức thánh. Ngược lại, ai cũng đều tin tưởng một
cách chân thành rằng chức thánh là do Chúa, và sự tuyển chọn đến
từ Ngài.
Trong thời kỳ Cựu Ước, thành phần tư tế thuộc
dòng họ Aaron. Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã thiết lập hàng ngũ
tư tế mới. Ngài đã tuyển chọn 12 Tông Đồ, và qua các ngài, quyền
năng của chức thánh được trao ban cho các Giám Mục, và từ các
Giám Mục đến các giáo sỹ và phó tế. Phần đông Kitô hữu cũng tin
những gì Chúa Giêsu đã phán với các Tông Đồ về ơn gọi và thánh
chức của các vị: “Thầy không gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ
không biết việc chủ mình làm. Nhưng thầy đã gọi các con là bạn
hữu, vì thầy đã tỏ cho các con mọi việc thầy đã nghe nơi Cha
Thầy. Chẳng phải các con chọn thầy, nhưng thầy đã chọn các con,
và sai các con đi để mang lại nhiều hoa trái, và để những hoa
trái ấy được tồn tại” (Jn 15:15-16).
Chức thánh của Tân Ước mang rõ 3 nhiệm vụ:
- Rao giảng và làm chứng nhân cho Tin Mừng:
“Hãy đi khắp thế giới và rao giảng Tin Mừng cho muôn dân” (Lc
16:15).
- Cử hành các bí tích, nhất là bí tích Thánh
Thể như lệnh truyền mà Chúa Giêsu đã truyền dậy các Tông Đồ
trong bữa Tiệc Ly: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (Lc
22:19). Thánh Phaolô Tông Đồ còn viết rõ về vai trò tư tế như
sau: “Vì chưng mọi thượng tế được chọn giữa loài người để lo
việc Thiên Chúa thay cho con người, tiến dâng lễ vật và hy lễ
đền tội. Ngài có thể chạnh lòng thương những kẻ u mê lầm lạc, vì
chính ngài cũng lâm phải yếu đuối tứ bề. Và vì yếu đuối, thì
cũng phải như dân, ngài phải dâng lễ đền tội cho mình. Và không
ai được tự chọn cho mình vinh dư ấy, nhưng phải được Thiên Chúa
tuyển chọn như Ngài đã chọn Aaron” (Hb 5:1-4).
Tóm lại, những đặc quyền đi liền với thánh
chức là: Rảo giảng và làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ. Ban
các bí tích. Và nhất là cử hành bí tích Thánh Thể, để nuôi dưỡng
và củng cố đời sống tâm linh của các tín hữu cũng như của chính
mình trên hành trình đức tin trần thế. Thiếu sót, hoặc lơ là
trong những việc làm ấy, linh mục hay giám mục đã bị coi như
không làm trọn bổn phận và sứ mạng được giao phó.
Thật vậy, khi tuyển chọn các Tông Đồ, Chúa
Giêsu không đòi hỏi các ông phải có học lực và thông thái. Nhiều
linh mục ngày nay tuy có những bằng cấp chuyên môn về thần học,
triết học, tu đức, thánh kinh, giáo luật, hay giáo hội và các
bằng cấp chuyên môn khác vẫn không thay thế được 3 chức năng
trên. Tất cả cũng chỉ để bổ khuyết và làm cho ơn gọi, sứ mạng
của mình thêm phong phú hơn mà thôi. Trên thực tế, nhất là ngày
nay, ít người hỏi và muốn biết xem các linh mục có những bằng
cấp gì. Nhưng điều mà người tín hữu muốn thấy nơi các linh mục,
các giáo sỹ là qua lời nói, việc làm, và đời sống, họ có tìm gặp
Đức Kitô không, như lời Đức Gioan Phaolô II: “Ngày nay, nhân
loại không cần những thầy dậy, mà cần những chứng nhân”.
Bằng một cái nhìn có tính cách xã hội, tổ chức
và cấu trúc của Giáo Hội với hàng tu sỹ, giáo sỹ, giám mục, hồng
y, hay giáo hoàng, tất cả những cái đó chỉ là hình thức, và nó
phù hợp cho đời sống Giáo Hội cơ chế. Bởi vì Giáo Hội, ngoài
phần thiêng liêng, vẫn phải tồn tại với thế giới hiện tại.
Trong ngày Chung Thẩm, tất cả những kẻ bị phạt
hay được thưởng đều được hỏi chỉ có một câu hỏi, và có cùng một
câu trả lời như nhau: “Ta đói các ngưoi đã cho ăn. Ta khát các
ngươi đã cho uống. Ta mình trần các ngươi đã cho áo mặc. Ta đau
ốm các ngươi đã thăm viếng. Ta tù tội các ngươi đã thăm viếng an
ủi” (x. Mt 25:31-46). Tuyệt nhiên không thấy Chúa đề cập đến vai
trò giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, tu sỹ
nam nữ, hay giáo dân. Bởi vì, dưới con mắt Chúa, tất cả mọi
người đều là anh em. Và cũng chính vì thế, Chúa dậy mọi người
khi cầu nguyện phải thưa với ngài: “Lậy Cha chúng con ở trên
trời” (Mt 6:9).
- Con người lãnh nhận thánh chức:
Nhưng có lẽ vì nghĩ rằng mình xứng đáng, hoặc
ngộ nhận về vai trò ơn gọi của mình nên đã có nhiều linh mục, kể
cả giám mục đã lạm dụng thánh chức với những mục đích riêng tư
của mình. Trong lịch sử Giáo Hội thời Trung Cổ đã cho thấy rất
nhiều những thiếu sót này kể cả một số giáo hoàng, hồng y, và
giám mục.
Điều này dễ hiểu, vì khi được tôn trọng và yêu
kính quá, thường người ta dễ sinh tự mãn và tự tôn. Thánh Tiến
Sỹ Têrêsa d’Avilla đã nói về điều mà nhiều người vẫn không muốn
nghe về thành phần chức thánh, đó là: “Nền hỏa ngục được xây
bằng sọ các linh mục”. Phải chăng đây cũng là lý do tại sao
Thánh Têrêsa đã cải tổ dòng kín Camêlô với chủ đích chuyên lo
cầu nguyện cho các linh mục.
Thật ra, không phải Thiên Chúa ngặt nghèo với
thành phần giáo sỹ, những người mang chức thánh, vì chẳng có ai
tự cho mình xứng đáng với chức thánh. Hơn nữa, sẽ chẳng ai dám
chấp nhận làm chứng nhân cho Ngài. Nhưng vì sự thánh thiện và sự
cao trọng của thánh chức đòi hỏi những ai được mời gọi phải hết
sức thận trọng, và không được lơ là, buông túng. Bởi lẽ mọi hành
vi, ngôn ngữ, cử chỉ của họ đều mang sắc thái đặc biệt, là làm
chứng nhân và đại diện cho Thiên Chúa. Vì vậy, nếu có ai trong
họ coi thường, thì không phải chỉ coi thường chính họ, coi
thường niềm tin mà cộng đoàn dân Chúa có đối với họ, mà là coi
thường chính Thiên Chúa. Do đó, hình phạt của họ cũng trở nên
rất nặng nề. Câu truyện về Thánh Phanxicô d’Assi đã cho thấy cái
mỏng dòn, và cái thánh thiện rất dễ lẫn lộn và khó lòng phân
biệt.
Thánh Phanxicô suốt đời chỉ dám nhận chức Phó
Tế. Bởi vì đã có lần trong lúc chuẩn bị lãnh chức linh mục, một
thiên thần Chúa đã hiện ra với thánh nhân đưa ra trước mặt thánh
nhân một ly nước trong vắt, và tinh sạch. Thiên thần bảo ngài
nếu thấy mình trong sạch, tinh tấn như vậy thì hãy bước lên. Vì
ý thức được điều Chúa muốn, nên Phanxicô đã không bao giờ dám
lãnh chức linh mục.
Tóm lại, chức thánh không bảo đảm cho người
lãnh nhận nó. Nó càng không phải là cái bùa hộ mệnh cho những
giới chức nào lạm dụng để được người đời sùng mộ và trọng kính.
Dân Chúa có thể tôn trọng và dành sự kính trọng đặc biệt đối với
những ai mang chức thánh, nhưng thần thánh hóa họ, và lẫn lộn họ
với Chúa là điều không phù hợp với đức tin và đời sống trưởng
thành của một Kitô hữu. Người lãnh nhận chức thánh chưa hẳn là
người thánh. Và sự tôn trọng người có thánh chức không có nghĩa
là thần thánh họ, và đồng hóa họ với thánh thiện.
NGỘ NHẬN GIỮA CHA VÀ CHÚA
Vì sự tôn kính với sắc thái đặc biệt như vừa
trình bày ở trên, nên hậu quả đưa đến là, nhiều Kitô hữu vẫn lận
lộn, hoặc không dám thẳng thắn phân biệt giữa những vị có chức
thánh và Thiên Chúa. Sự ngộ nhận này đồng hóa không những người
có chức thánh với sự thánh thiện, mà hơn thế nữa, với chính
Thiên Chúa. Câu nói: “Chống cha, chống Chúa” được hiểu theo cái
nhìn và tư tưởng đồng hóa này.
- Cha nói là Chúa nói:
Trở lại những dẫn chứng điển hình vừa được nêu
lên ở trên, tư tưởng đồng hóa người lãnh nhận chức thánh với
chính sự thánh thiện, và hơn nữa, với chính Thiên Chúa đã đem
lại những hậu quả tai hại, là hễ những gì các giáo sỹ, tu sỹ nói
đều là đúng và là do Chúa nói. Nhưng thực tế lại không phải
vậy.
Trường hợp 1: Trong một buổi hồi tâm, cấm
phòng, một linh mục đã khẳng định và nhắc đi nhắc lại rằng, ngày
Thứ Năm Tuần Thánh, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã lập 3 Bí
Tích: Bí Tích Thánh Hôn, Bí Tích Thánh Chức và Bí Tích Thánh
Thể. Mọi người đều hết sức bỡ ngỡ, vì từ bé đã được học hỏi
rằng, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể,
Bí Tích Truyền Chức . Chưa hề bao giờ truyền thống Giáo Hội có
thêm một Bí Tích trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh, mà Bí Tích ấy
lại liên quan trực tiếp đến đời sống hôn nhân gia đình, đó là Bí
Tích Thánh Hôn.
Nhưng linh mục ấy vẫn duy trì sự hiểu biết của
mình bằng cách dẫn chứng vụng về là trong Bí Tích Hôn Phối tình
yêu của đôi trai gái, của đôi vợ chồng trao nhau làm nên giá trị
và nền tảng đời sống hôn nhân. Và theo ông, tình yêu hôn nhân
chính là phản ảnh của tình yêu Thánh Thể, và Bí Tích Truyền
Chức.
Người viết đã có lần hỏi một Giám Mục về quan
điểm thần học mới mẻ ấy, thì vị Giám Mục chỉ cười mà không nói
thêm gì.
Trường hợp 2: Trong một ngày tĩnh tâm khác,
cũng chính vị linh mục giảng thuyết trên đã khẳng định rằng ông
sẽ không cho bất cứ một người nào được phép ngừa thai. Bởi vì,
theo ông, cho phép ngừa thai như vậy là làm giảm giá trị đời
sống tu hành. Mọi người trong hội trường nín thở, và không hiểu
vị giảng thuyết muốn nói gì. Nhưng ông đã giải thích như sau:
Khi được một bà 60 tuổi hỏi mình có được phép
ngừa thai không, ông đã trả lời là không. Theo ông, nếu cho một
người ngừa thai, thì phải cho tất cả mọi người ngừa thai. Vì đã
cho một người thì phải cho tất cả. Và ông tiếp tục lý luận,
trong cái tất cả ấy có cả tôi, và những người khác trong thành
phần tu hành. Như vậy, cho phép ngừa thai là làm nhục và làm
giảm giá trị đời sống tu trì.
Trường hợp 3: Một linh mục trẻ rất thích nói,
viết, và trình bày về sinh lý, về hành động vợ chồng. Những bài
nói truyện, những trưng dẫn của linh mục trẻ này đã đi đến sống
sượng, và nôm na hơn cả những câu truyện phòng the được các tác
giả khác trình bày ở những sách báo khỏa thân hoặc khiêu dâm.
Một vài giáo dân có uy tín và hiểu biết đã kín đáo viết thư góp
ý, và đã nhận được những lời lẽ đáp trả, đại khái:
Các anh là những người có con mắt phàm tục,
tội lỗi nên nhìn gì cũng phàm tục và tội lỗi. Tôi là người không
có con mắt ấy, nên sinh lý, và những hành động trai gái, vợ
chồng tôi nhìn thấy toàn sự thánh thiện.
Trường hợp 4: Một linh mục dòng Tên, nổi tiếng
về chương trình hướng dẫn và thăng tiến đời sống gia đình, ông
đã trình bày về sinh lý trong một tác phẩm mà ông cho là đắc ý.
Trong một đoạn viết về sinh lý, ông đã ví người thiếu nữ khi
khỏa thân trước mặt chồng, nàng đẹp như “Đức Trinh Nữ”. Sự xúc
phạm này đã được nhiều giáo sỹ, và anh chị em giáo dân góp ý,
nhưng độc giả vẫn thấy các tác phẩm này được bày bán cùng với
tác phẩm sau khi được hiệu đính sau đó. .
Không biết các nhà luân lý, thần học, giáo
luật, và tu đức nghĩ gì về những thí dụ trên. Nhưng nếu nói linh
mục nói là Chúa nói, thì phải hiểu là cả bốn trường hợp trên,
Chúa đều nói và viết tầm bậy.
Hoặc như truờng hợp của linh mục Bảng nói đánh
mà rút được linh hồn người khác, và đánh mà nhét linh hồn người
khác vào được cũng phải hiểu là Chúa nói dóc. Chúa “nổ”. Hay
như trường hợp linh mục đến sòng bài, đánh bài và chửi thề rồi
đổ thừa cho Chúa cũng bài bạc, chửi thề là một xúc phạm quá lớn
lao đến Thiên Chúa và sự thánh thiện của Ngài.
Tóm lại, linh mục, hoặc người có chức thánh có
thể nói những điều tốt lành về luân lý, đạo đức, và người Kitô
hữu cần phải cung kính, lắng nghe để ứng dụng vào đời sống tâm
linh của mình. Ngoài ra, sự hiểu biết giới hạn của một người,
đòi chúng ta phải suy nghĩ và cân nhắc về những gì các vị ấy
nói, biết, và viết. Bởi vì các vị cũng chỉ là con người.
- Chống cha là chống Chúa:
Như vậy, không đồng ý với các linh mục trên,
hoặc nói một cách nôm na là bất đồng, không chấp nhận những nhận
xét và ý kiến ấy có thể gọi là chống Chúa không? Ai dám tự nhận
mình là Chúa trong những trường hợp như thế. Đến như gọi nhau là
“cha”, mà Chúa Giêsu còn không bằng lòng nữa, hống hồ đồng hóa
các linh mục với “Chúa”. Chúa Giêsu đã nói: “Các con đừng gọi ai
là cha ở dưới đất, vì các con chỉ có một cha ở trên trời. Cũng
đừng gọi ai là thầy, vì chỉ có một thầy là Đức Kitô” (Mt 23:9).
Cũng vì sợ có sự lầm lẫn ấy, Thánh Phaolô Tông
Đồ và Thánh Barnaba Tông Đồ đã phải kêu lên khi người ta tưởng
mình là thần minh. Tông Đồ Công Vụ đã nói về trường hợp này khi
hai vị đang ở Lystra như sau:
“Lúc ở Lystra, có một người què từ lúc mới
sinh; anh ta phải đi bằng nạng và suốt đời không tự mình bước đi
được. Vào một hôm anh ta ngồi nghe Phaolô giảng, và Phaolô đã
nhìn thấy lòng tin nơi anh để được chữa lành. Ngài gọi anh lớn
tiếng “Hãy đứng dậy bằng đôi chân của anh!”. Người què liền nhẩy
lên và bắt đầu đi lại chung quanh. Khi đám đông nhìn thấy những
gì Phaolô đã làm, họ kêu lớn tiếng bằng thổ âm Lycaonia, “Các
thần minh đã đến với chúng ta qua hình dạng con người!” Họ gọi
Barnaba là Zeus, và Phaolô là Hermes, vì ngài là phát ngôn viên.
Ngay cả vị tư tế của đền thờ Zeus ngoài thành cũng mang bò và
vòng hoa ra cổng thành vì ông muốn cùng với dân chúng dâng tiến
lễ vật.
Khi các tông đồ Barnaba và Phaolô nghe vậy, họ
liền xé áo mình ra và chạy đến giữa đám đông: “Anh em, tại sao
anh em làm thế?” Các ngài la lớn: “Chúng tôi cũng là những con
người như anh em. Chúng tôi đang mang đến cho anh em một tin vui
mà sẽ chuyển đổi anh em khỏi những hành động huyền hoặc đó đối
với Thiên Chúa hằng sống, Đấng tạo dựng đất trời, biển khơi và
muôn loài trong đó” (Act 14:8-15).
Tóm lại, những gì được trình bày trên chỉ nhằm
dẫn đến một kết luận là linh mục, hàng giáo sỹ, kể cả giám mục
là những người được Chúa ban cho chức thánh cao cả. Các ngài
được tuyển chọn giữa loài người. Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa là các ngài được miễn trừ khỏi những yếu đuối và khuyết
điểm của thân phận con người. Do đó, việc thần thánh hóa các
ngài là một điều không những không giúp gì cho đời sống trưởng
thành của người Kitô hữu. Hơn thế nữa, hành động này còn làm cớ
vấp ngã cho các vị tu hành, bởi vì, sẽ có một lúc nào đó, họ
tưởng họ là Thượng Đế. Họ có quyền nói năng, hành động như
Thượng Đế. Và vô tình hay hữu ý, họ đã đánh mất đi ý nghĩa, và
sự cao cả của ơn gọi của mình.
Người Kitô hữu trưởng thành khi tiếp xúc với
các giáo sỹ và linh mục:
Kính trọng nhưng không thần thánh hóa.
Yêu mến nhưng không bợ đỡ.
Hỗ trợ nhưng không chống đối.
Phê bình nhưng không chỉ trích.