KHÁI NIỆM VỀ SỰ TRƯỞNG THÀNH
“ Sống đạo thiếu trưởng thành”.
“Người Công Giáo Việt Nam mình thiếu trưởng
thành”.
“Nhiều người Công Giáo Việt Nam sống đạo không
trưởng thành”.
Đó là những câu nói mà thỉnh thoảng chúng ta
vẫn được nghe một số linh mục, và giáo dân than phiền với nhau.
Về phía linh mục thì những lời than phiền như thế mục đích nhắm
vào thành phần giáo dân. Ngược lại, đối với giáo dân thì những
lời than phiền ấy không chỉ nhắm vào anh chị em tín hữu, mà còn
nhắm vào cả thành phần tu hành trong đó có các linh mục và tu sỹ
nam nữ nữa. Nhưng thế nào là một Kitô hữu trưởng thành? Và làm
cách nào để có thể xác định sự trưởng thành ấy?
Trong đời sống thường ngày, có những lãnh vực
hết sức nhậy cảm và phức tạp mà khi đề cập đến rất khó tránh
khỏi những ngộ nhận, và tranh cãi. Thí dụ, những đề tài liên
quan đến chính trị, văn hóa, nghệ thuật, tình yêu, và tôn giáo.
Do đó, khi nêu lên đề tài trưởng thành tâm linh, người viết nhớ
lại nhận xét của một linh mục: “Đời sống tâm linh mình đã trưởng
thành chưa mà đề cập đến việc trưởng thành của người khác?”. Và
cả hai đều đồng ý rằng, việc đề cập đến vấn đề trưởng thành ở
đây đúng ra là mong tìm kiếm những suy tư, những kinh nghiệm, và
những cách thức nhằm giúp cho mình cũng như cho nhau hướng về
mục đích cuối cùng là sự trưởng- thành- hóa đời sống tâm linh
của mỗi người. Vì trong việc trưởng thành đời sống tâm linh,
không chỉ ngồi chờ đó cho đến khi thấy mình trưởng thành rồi mới
nói, mới nghĩ tới mà là vừa sống, vừa thực hành, và vừa học
hỏi.
CON NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH
Nếu nói trưởng thành về mặt
pháp luật, thì một em bé khi đạt tới tuổi 18, tại nhiều quốc gia
trên thế giới đã chấp nhận và coi như trưởng thành. Từ đây, mọi
việc người trẻ đó làm, nếu liên quan đến pháp luật thì phải chịu
trách nhiệm, vì luật pháp đã công nhận sự trưởng thành của em
đó.
Nhưng nếu xét về mặt tâm lý thì con người ở
vào tuổi 30 mới được coi như đã trưởng thành. Việt Nam cũng có
câu: “Tam thập nhi lập”, có nghĩa là 30 tuổi được coi như trưởng
thành. Với mức độ trưởng thành này, mỗi người có thể tự quyết và
làm chủ được những tư tưởng, ước muốn, và hành động mình. Vì
trưởng thành về tâm lý đồng nghĩa với khả năng giải quyết những
khủng hoảng, những khó khăn, lấn cấn về mặt tình cảm.
Người trưởng thành có khả năng làm chủ được
tình cảm và những xúc động của mình. Nhận thức được lúc nào
buồn, lúc nào vui, và khi buồn thì phải làm gì, khi vui thì phải
vui như thế nào. Con người trưởng thành không để những xô lấn
của tình cảm, của những xung đột bên trong và bên ngoài cuộc
sống ảnh hưởng đến lề lối suy nghĩ, cung cách và thái độ sống
của mình. Ngoài ra, trưởng thành tâm lý cũng giúp phát triển và
trưởng thành tâm linh, vì trong tâm lý cũng có sự phát triển về
đạo đức và luân lý.
Chúng ta có thể tìm thấy hình ảnh trưởng thành
ấy bằng một so sánh mà ít nhiều chúng ta vẫn thường gặp thấy
trong cuộc sống. Thí dụ, một em bé sinh ra với hội chứng Down
Syndrome hay với hội chứng tâm lý phát triển bất bình thường,
hoặc còn được gọi là khuyết tật về tâm lý (Mental Retardation);
đồng thời so sánh với một em bé sinh ra bình thường và phát
triển tâm lý bình thường.
Ở những em mang hội chứng Down Syndrome hay
khuyết tật về tâm lý, các em này muốn hay không muốn cũng không
có thể sử dụng trí khôn mình để đạt tới những suy nghĩ, tính
toán và quyết định những việc quan trọng liên quan đến cuộc sống
của mình. Các em cũng không làm chủ được cảm tình và cảm xúc của
mình. Lúc vui cũng như lúc buồn, lúc cười cũng như lúc khóc, các
em hầu như phản ứng theo bản năng tự nhiên, một bản năng không
đạt được những đòi hỏi và tiêu chuẩn tối thiểu của một người
cùng tuổi ở mức độ bình thường. Các em không biết đến tương lai,
và cũng không có khả năng tự lo lắng cho tương lai của mình.
Ngược lại, một em sinh ra bình thường có khả
năng vận dụng trí khôn. Lên 7 tuổi đã có thể nói dối một cách
hết sức tài tình, khiến cha mẹ hoặc người khác tin là có thật. Ở
vào tuổi 15, cũng theo tâm lý phát triển, các em có thể suy luận
và tranh biện như một người lớn. Các em biết lúc nào vui, lúc
nào buồn. Khi vui thì phải làm gì, cũng như khi buồn thì phải
làm gì. Các em có thể làm chủ được cảm tình và thái độ sống.
Nhưng nhất là các em có khả năng hướng về tương lai và một cách
nào đó, có những phương thức tạo đạt được những ước mơ tương lai
ấy.
Tóm lại, một người mà dù thân xác phát triển,
khoẻ mạnh, nhưng tâm lý và lý trí phát triển dưới mức bình
thường so với chỉ số thông minh hoặc mức độ tình cảm chung được
gọi là những người khuyết tật tâm lý. Những người này phải được
giáo dục và hướng nghiệp dành cho những người khuyết tật tâm lý.
Họ không thể sống bình thường dưới những tiêu chuẩn một người
bình thường ở các lãnh vực:
1. Có khả năng về ngôn ngữ. Thí dụ, nhận
thức và diễn đạt tư tưởng bằng ngôn ngữ.
2. Có khả năng tự săn sóc cho chính mình.
Thí dụ, ăn, uống, tắm rửa, chải đầu, đánh răng, xúc miệng.
3. Có khả năng chuyển động. Thí dụ, chạy,
nhẩy, bơi lội, cầm, nắm.
4. Có khả năng học hỏi và thăng tiến. Thí
dụ, học nói, học đọc, học viết, học làm toán, học lý luận.
5. Có khả năng hướng dẫn cuộc sống. Thí dụ,
lo liệu cuộc sống cá nhân, gia đình, những mối liên hệ họ hàng,
bằng hữu.
6. Có khả năng sống tự lập. Thí dụ, quản lý
được tài chánh, tiền của, lo lắng sức khỏe, và dùng những tiện
ích công cộng.
7. Có khả năng ổn định được sự nghiệp. Thí
dụ, huấn nghiệp, công ăn việc làm, tài năng, kiếm tìm công ăn
việc làm, và hoà đồng vào công việc thường ngày.
Nếu một em bé, hoặc một người lớn mà thiếu 3
trong 7 những khả năng trên, em bé đó, hoặc người lớn đó được
coi như người khuyết tật về tâm lý, dù những khuyết tật ấy đến
từ bất cứ nguyên nhân nào. Thí dụ, di truyền, tai nạn, bệnh
hoạn, hoặc do những lỗi lầm của cha mẹ gây ra.
LÀM NGƯỜI TRƯỚC LÀM THÁNH
Thánh Gioan Boscô đã nói: “Muốn
làm thánh thì phải làm người trước đã”. Câu nói rất đúng để diễn
tả và bảo đảm cho con đường tu đức cũng như đời sống tâm linh
của một người.
Xét về phương diện tâm linh, ta không có thẩm
quyền phê phán sự hoàn thiện của một người mà sự phát triển tâm
lý không bình thường như vừa trình bày trên. Tuy nhiên, mức độ
nhận định nhìn dưới con mắt bình thường thì không thể cho đó là
mẫu sống lý tưởng mà tất cả những ai với trí khôn và tâm lý bình
thường phải noi theo, bắt chước. Do đó, hành động dẫn đến hoàn
thiện theo quan niệm của Thánh Gioan Boscô là sự hoàn thiện của
một người được coi như đã trưởng thành về thể lý, tâm lý, và sự
trưởng thành ấy được tâm-linh- hóa, đạo-đức-hóa. Thí dụ, tôi gặp
một người nghèo khó đang ngồi ăn xin và tôi động lòng trắc ẩn.
Tôi ý thức rằng người ăn xin ấy là một người có phẩm giá và tư
cách của họ. Tôi thông cảm với hoàn cảnh hiện tại của họ, và tôi
quyết định giúp người ấy một phần nào đó theo khả năng và do
lòng quý mến của tôi. Hành động ấy được coi là một hành động
trưởng thành, của một người trưởng thành với tâm tình bác ái,
đạo đức.
Trưởng thành tâm linh đi liền với trưởng thành
tâm lý. Tuy nhiên, còn hơn thế nữa, trưởng thành tâm linh đối
với người Kitô hữu tùy thuộc vào sự tác động của Thánh Linh, và
vào sự chấp nhận cũng như sống đạo của mỗi Kitô hữu. Với cái
nhìn tâm linh và theo ngôn ngữ của tu đức học, thì sự trưởng
thành ấy chỉ đạt được khi người Kitô hữu đã bước đến giai đoạn
nhiệm hiệp, tức là hiệp nhất và kết hợp với Thiên Chúa một cách
khắng khít, một cách bền bỉ, và hòa tan trong Ngài. Con đường đi
đến sự trưởng thành tâm linh vẫn theo các nhà tu đức học gồm ít
nhất là ba chặng: Khởi sinh, Thanh Luyện, và Nhiệm Hiệp.
- Khởi sinh: Giai đoạn đầu tiên con người đón
nhận Thiên Chúa vào với cuộc
đời mình. Điểm khởi đầu của tiến trình
hoàn hảo hóa cuộc sống tâm linh. Tùy theo tâm lý, ảnh hưởng của
giáo dục, và môi trường. Cũng như tùy theo sự hiểu biết, mỗi
người sẽ có dịp và cơ hội nhận diện Thượng Đế có mặt trong cuộc
đời, và trong đời sống của chính mình. Giai đoạn này có thể pha
lẫn nhiều cảm tình và tình cảm thường pha lẫn với những sinh
hoạt tâm linh đạo đức tạo nên sự hấp dẫn khó lòng từ chối.
- Thanh luyện: Con đường từ tâm lý đến tâm linh
rất cần được tôi luyện,
và gạt bỏ dần yếu tố tình cảm. Và sự trưởng thành tâm linh cần
được đánh dấu bằng những phấn đấu với những đam mê bất chính,
những xúc cảm nhất thời, thường chỉ đưa con người dần vào những
hành động cảm tình và ấu trĩ. Chính vì thế, đây là thời gian khó
khăn và vất vả nhất.
Sự trưởng thành thể lý, tâm lý và tâm linh
trong giai đoạn này như phải hoà lẫn, và tan biến vào cuộc sống
mỗi ngày, khiến người Kitô hữu một mặt vẫn cần phải có những cảm
tình cần thiết để giữ được vẻ hấp dẫn và hài hòa cho đời sống
tâm linh, mặt khác cần phải từ từ cắt bỏ những đam mê và cảm
tình không cần thiết để cho suy tư và hành động tinh thần mang
trọn vẹn ý nghĩa và chủ đích cao cả của nó. Theo các nhà tu đức
học, rất nhiều người đã bỏ cuộc, hoặc chỉ dậm chân tại chỗ ở
giai đoạn này bởi vì đã không trưởng thành về mặt tâm lý, nên để
cảm tình và những đam mê làm ngăn cản bước tiến của tinh thần.
Và vì thế, đã không thắng vượt được những quan niệm, suy nghĩ,
và lối sống đạo dựa trên cảm tình, hình thức, và đôi khi mang
tính chất mê tín hoặc cuồng tín. Một số nhà tu đức còn gọi đây
chính là “đêm tối tăm”. Ngụ ý cần phải có ánh sáng lý trí soi
chiếu, và sự trưởng thành về tâm lý để thắng vượt những thử
thách.
Tóm lại, để là một người trưởng thành thì
ngoài sự nở nang, phát triển về thể xác, còn phải được phát
triển về tâm lý, và điều này được kiểm chứng bằng đời sống quân
bình thường ngày trong cách giao thiệp, nói năng, cư xử, và
trong cách thức giải quyết những khó khăn, khủng hoảng trong
cuộc sống tình cảm. Ngoài ra, theo tôn giáo, thì sự trưởng thành
thể lý và tâm lý cần thiết để giúp cho con người phát triển và
đi tới sự trưởng thành tâm linh.
- Nhiệm hiệp: Đây là giai đoạn cuối của tiến
trình thánh hóa bản thân,
của con đường tu đức, của sự trưởng thành toàn diện của người
Kitô hữu. Trong giai đoạn này, con người có thể rờ thấy, động
chạm, và nhìn thấy Thưởng Đế. Đó là những va chạm thường ngày
với anh chị em đồng loại. Con người có thể động chạm đến Thượng
Đế bằng những động chạm với anh chị em. Nhìn ra họ là hiện thân
của Thiên Chúa. Giúp đỡ và khuyến khích họ.
Ở giai đoạn này, con mắt, lỗ tai, miệng lưỡi
và suy tư của họ luôn nhìn thấy, nghe thấy, và cảm thấy Thiên
Chúa qua anh chị em mình, những người mà ta mỗi ngày có liên
quan trực tiếp hay gián tiếp trong những môi trường sống. Thánh
nhân, do đó, theo cái nhìn của Thánh Gioan Bosô phải là một
người trưởng thành và quân bình về mặt tâm lý và tình cảm.
Sự gắn bó khăng khít, và trưởng thành giữa thể
lý, tâm lý và tâm linh được tìm thấy qua Chúa Giêsu, người thật
và Thiên Chúa thật. Theo Thánh Kinh ghi nhận, sau 30 năm sống ẩn
dật trong nhà Nagiaréth, ngài đã bước vào sứ mạng cứu thế ở tuổi
30. Nghi thức phép rửa ở sông Giođan với Gioan Tiền Hô và sau đó
là 40 đêm ngày chay tịnh trong hoang địa đã chấm dứt tuổi trẻ
của một thanh niên mang tên Giêsu. Giờ đây, người thanh niên ấy,
Ông Giêsu đã trưởng thành và bước vào đời với một sứ mạng hết
sức trọng đại, đó là sứ mạng rao truyền nước Thiên Chúa và đem
lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Trong Thánh Kinh, một mặt Chúa Giêsu nói phải
vào nước Thiên Chúa bằng tinh thần thơ trẻ, nhưng rồi ngài lại
nói: “Hãy vào cửa hẹp. Cửa dẫn tới chỗ diệt vong thì rộng rãi,
và đường dẫn đến nó trơn tru có nhiều người bước vào. Nhưng cửa
hẹp là đường dẫn đến sự sống, con đường gập ghềnh khó đi, và ít
kẻ tìm gặp con đường ấy” (Mt 7:13-14). Điều này có nghĩa là
không ai vào được nước Trời, nếu như cứ sống vẩn vơ, sống lè phè
như một đứa con nít.
Khi Chúa nói tinh thần thơ trẻ, là ngài muốn
nhấn mạnh đến cái cốt lõi của đời sống tu đức, của đời sống đạo.
Người Kitô hữu phải làm sao mật thiết và sống với ngài như một
em bé đối với cha mẹ em vậy. Đó là tinh thần thơ ấu Phúc Âm,
tinh thần trẻ Phúc Âm. Ngài không bảo chúng ta sống lệ thuộc và
sống dựa dẫm như một em nhỏ. Nhất là ngài không muốn chúng ta
sống ở mức độ thiếu trưởng thành.
TỰ
TIN VÀ HÃNH DIỆN LÀ KITÔ HỮU
Ngoài đa mê, tội lỗi, và bệnh
tật tâm linh, thái độ thiếu tự tin về vai trò và ơn gọi của mình
trong Giáo Hội được coi là một điều tồi tệ và khuyết điểm lớn
nhất của người Kitô hữu.
Điểm quan trọng nhất của sự trưởng thành tâm
lý là ở chỗ con người có thể sống một cách tự tin và hạnh phúc
về mình. Ngược lại với thái độ và lối sống trưởng thành ấy là
thái độ thiếu tự tin và bất an.
Một người trưởng thành tuy có lầm lẫn, và
khuyết điểm nhưng vẫn không nản lòng, hoặc tự ty mặc cảm. Họ
biết rất rõ về giới hạn và con người của mình. Nên trong mọi
việc họ rất từ tốn và thận trọng. Không bốc đồng. Không ảo
tưởng. Không ảo giác. Không làm gì quá khả năng và điều kiện cho
phép. Đó là những đức tính căn bản của sự tự tin. Ngược lại,
người thiếu tự thường sống bằng cảm tính nhiều. Ưa mơ mộng, và
ảo tưởng, ảo giác, dị đoan và mê tín. Bởi vì những thứ ấy sẽ
trấn át và khỏa lấp những đức tính cản bản của thái độ và lối
sống tự tin.
Tóm lại, một người tự tin, hay trưởng thành về
tâm lý thường không quyết đoán hàm hồ. Không sợ hãi và ủy mỵ,
nhưng vững vàng và tin tưởng. Khuyết điểm đến với họ không để họ
gục ngã hay bỏ cuộc, nhưng chỉ là một dịp cho họ nhìn lại con
người của chính mình, và tìm cách sửa sai, và tiến tới.
Với ơn gọi và cuộc đời Kitô hữu, họ rất tự tin
và hãnh diện. Không sợ hãi. Không mặc cảm về niềm tin, và cả
những gì người khác phê bình, chỉ trích về đạo của mình. Họ
biết, đạo là con đường dẫn đến hoàn thiện, nhưng việc thực hành
đạo lại do con người, và vì đó có sơ hở và khuyết điểm. Con
người theo đạo sơ hở và khuyết điểm chứ không phải đạo. Câu nói:
“Đi đạo thì tin đạo chứ không tin người có đạo” được hiểu theo
hai nghĩa tiêu cực và tích cực, và nó giải thích rõ ràng về thái
độ tự tin của người trưởng thành trong niềm tin khi đối đầu với
những khuyết điểm về tôn giáo của mình. Hoặc khi phải trực diện
với khuyết điểm của chính mình trong khi thực hành niềm tin. Thí
dụ, trong cơn khủng hoảng về tình dục của Giáo Hội Hoa Kỳ, người
Kitô hữu trưởng thành vẫn luôn có lý do để sống và tin tưởng
hơn. Họ biết con người là yếu đuối, dù con người đó là ai? Linh
mục, tu sỹ nam nữ, hay giám mục.Và từ đó, họ càng thôi thúc mình
sống đạo một cách tích cực hơn để sửa sai lại những khuyết điểm
ấy, đồng thời cầu nguyện chăm chỉ hơn cho chính mình và cho các
tu sỹ, linh mục, và giám mục.
Ngoài ra, kẻ thù của tự tin còn là tự tôn, tự
cao, và tự đại. Nếu tự tin là thái độ sống của người trưởng
thành, thì tự ty, tự tôn, tự cao và tự đại là thái độ sống của
những người thiếu trưởng thành. Không chỉ ở trong lãnh vực tâm
lý mà còn trong phạm vi tâm linh nữa.
Đi đạo, tin đạo mà còn sợ hãi, nghi ngờ là
thiếu tự tin. Sống đạo và hành đạo với tâm thức độc quyền biết
và hiểu về đạo là một quan niệm và lối sống ấu trĩ và thiếu
trưởng thành. Cái mà chúng ta gọi là tự tôn, tự cao, và tự đại
kia chính là sự thiếu hiểu biết về con người, khả năng và thực
chất của mình. Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu đã nói về ảnh
hưởng của sự chân thật, khiêm tốn và tự tin: “Sự thật sẽ giải
thoát chúng con” (Gio 8:32).
Cho đạo mình là nhất rồi khinh thường và coi
rẻ niềm tin và tôn giáo của người khác là thiếu trưởng thành về
tâm linh. Hiện tượng quá khích, và cuồng tín thường xẩy ra trong
đời sống tâm linh mà chỉ có đạo mình là nhất. Ngay hôm nay,
trong thế giới hiện tại, ở một vài quốc gia Hồi Giáo, những ai
chuyển đổi niềm tin đi tìm một chân lý mới đều bị khép tội bỏ
đạo và phải chết. Đây là một hình thức thiếu trưởng thành tâm
linh. Những chính quyền mà sợ hãi tôn giáo. Sợ tôn giáo ảnh
hưởng và chi phối đường lối sinh hoạt của chế độ, là những chính
quyền ấu trĩ, thiếu trưởng thành và hiểu biết. Bởi vì, sẽ không
có một sức mạnh quyền lực nào có thể lấn át và khống chế được
niềm tin. Theo cái nhìn tâm lý, niềm tin là một sức mạnh vô
địch, vì nó được phát xuất và lớn lên cùng với sự phát triển của
con người. Niềm tin tự nó đã được ghi khắc trong tâm khảm con
người, dù chế độ nào, dù chính quyền nào, hay dù bạo lực nào
cũng không thể xóa nhòa đưọc.
(Kỳ sau: NHỮNG DẤU HIỆU CỦA LỐI SỐNG THIẾU
TRƯỞNG THÀNH) |