Chúng ta thường nghe những câu phê bình châm biếm: “Anh chàng
nầy giống đàn bà. Cô kia y như đàn ông.” Những câu nói đó phản
ảnh cho thấy quan niệm của chúng ta về phái tính rất là rõ ràng.
Hầu hết mọi người đều cho rằng người đàn ông bao giờ cũng phải
hùng mạnh, tự tin, can đảm trong khi người đàn bà tiêu biểu sự
yếu ớt, sợ sệt, nhút nhát. Những quan niệm nầy chúng ta có được,
đến từ chính nền văn minh xã hội chúng ta đang sống.
NỀN TẢNG XÃ HỘI
Vai trò mà mỗi phái phải đóng, như chúng ta đã thấy, được xác
định bởi cấu trúc xã hội của cộng đồng chung quanh. Tuy nhiên,
những qui ước xã hội ngày nay không xác định một mẫu tư cách nào
cho mỗi giới. Mỗi cá nhân phải xác định tư cách riêng cho mình
như là nam hoặc nữ. Có nhiều cách để diễn tả nam tính hoặc nữ
tính. Điều nầy dành cho mỗi cá nhân để xác định loại đàn ông
hoặc đàn bà nào mình muốn trở thành.
Bao lâu chúng ta coi nam giới là có quyền và cũng cho rằng hầu
hết mọi người đều nghĩ như vậy thì quan niệm mà chúng ta có về
vai trò phái tính phù hợp với niềm tin và lối sống chúng ta.
Ngay cả những đương kim vô địch vận động hăng say nhất cho quyền
bình đẳng của phụ nữ cũng phải tuyên bố rằng đàn ông thật thì
phải hùng mạnh, tự tin, can đảm, trách nhiệm, và đáng tin tưởng,
và rằng tất cả những đàn ông không đáp ứng những đòi hỏi nầy cho
thấy nét phụ nữ trong con người họ. Từ ngữ đàn bà chỉ nét yếu
ớt, sợ sệt như một phẩm cách chung chung của người phu nữ. Thật
ra, trách nhiệm, ước muốn làm việc, muốn đóng góp, và ngay cả
muốn nâng đỡ được nhận biết như là những bổn phận của con người
không kể phái tính. Quan niệm về đàn ông là phái mạnh khiến
những quan niệm về vai trò phái tính, về bổn phận, và về giới
hạn của họ sinh ra lẫn lộn.
Con trẻ ở giai đoạn đầu phát triển rõ rệt nhưng không hẳn luôn
chính xác những quan niệm về vai trò xã hội được gắn liền với
phái tính riêng của chúng. Chúng bị gây ấn tượng và bị kích
thích bởi những ý tưởng xã hội về phái tính trước khi chúng nhận
thức được ý nghĩa về xúc cảm và về thể lý của chúng. Như một qui
luật, con trai có tự do hơn trong mọi sinh hoạt. Con gái hành
động như con trai thì được gọi là “con đực rựa”một danh từ ám
chỉ có nhiều nét nam tính, trái ngược với các cậu trai có hành
vi điệu bộ giống như con gái thì gọi là “thằng lại cái”. Giúp
việc nhà, nấu ăn, lau nhà, khâu vá vẫn được xem là công việc của
con gái. Ngày nay, đàn ông cũng rửa chén bát. Tuy nhiên, việc
thực hiện chỉ chiều hướng chung cho việc cộng tác, khó cho các
ông Âu châu và nhất là Á châu chịu làm.
Nhiều cô gái tin rằng vai trò nữ giới trong xã hội vẫn còn lệ
thuộc. Họ hoặc phục tùng số phận, tìm sự đền bù trong cách thế
các bà, hoặc tìm cách phản loạn, không chấp nhận bất cứ cái gì
thuộc về nữ giới. Cố gắng đầu, phục tùng số phận để chiếm một
chỗ đáng kính trong thế giới đàn ông bằng cách trau chuốt sự
quyến rũ, tỏ ra mình vô dụng, và tránh trách nhiệm, nói tắt,
bằng cách phấn đấu để loại bỏ cung cách tiêu biểu của một người
phụ nữ. Cung cách thứ hai, phản loạn, dành cho những cô gái có
những đặc tính kháng cự mãnh liệt, từ chối hoàn thành sự phát
triển hoàn toàn của nữ giới. Những người nầy ghét nhìn giống như
đàn bà, ghét chức năng của đàn bà như có kinh nguyệt. Nhiều cô
gái không đi đến thái cực nầy nhưng đau khổ với diện mạo của họ.
Không kể họ có nét giống đàn bà thế nào, sự phản dối của họ thì
rõ ràng trong những trường hợp khác nhau. Họ cố gắng chứng tỏ
rằng họ có thể tốt như bất cứ người đàn ông nào và ngay cả còn
tốt hơn. Rất thường, họ không muốn nhận thức sự chống đối của họ
đối với đàn ông và cũng không muốn ý thức về cái đã gây nên
những khó khăn trong hôn nhân cũng như phái tính.
Câu chuyện sau đây sẽ cho chúng ta thấy việc khước từ bản tính
phụ nữ của một số các cô có thể đi đến những thái cực mà chúng
ta không thể tưởng tượng được. Ông bạn bác sĩ của tôi đã kể cho
tôi nghe câu chuyện như sau:
“Một ngày kia, một người đàn ông trẻ đến gặp tôi. Khi được hỏi
anh đang gặp phải những khó khăn gì, anh mặc khải cho biết rằng
anh ta là một cô gái. Bệnh nhân ở vào tuổi giữa 20. Vẻ đàn ông
lộ nét không chỉ bởi cách ăn mặc nhưng bởi cách nói và phong
cách đàn ông. Ngay cả giọng nói cũng có đặc tính của một người
đàn ông hơn là đàn bà. Cô ta đến vì cô cần sự giúp đỡ trong tình
cảnh khó khăn bất thường. Để tìm được một công việc, cần phải
trình chứng minh thư. Giấy tờ của cô cho thấy tên cô là con gái,
điều đó làm rắc rối. Cô bây giờ tìm cách để có thể đổi thành tên
con trai. Tôi bị lúng túng. Làm thế nào cô mang đồ đàn ông trong
khi điều nầy bị cấm đối với các bà. Cô cho tôi thấy giấy phép
được viết tay bởi cảnh sát và cắt nghĩa làm cách nào cô có giấy
đó. Khi cô mang đồ đàn bà, cô lôi kéo sự chú ý của những người
đi đường vì mọi người tin cô là một người đàn ông hóa trang
thành đàn bà. Cô đi như một đứa con trai. Bộ tịch của cô như con
trai. Vì thế, cảnh sát bị bó buộc cấp cho cô giấy phép bất
thường nầy.
Một sự khám nghiệm thể lý cho thấy mọi sự bình thường: bộ ngực
phát triển đầy đủ, tóc đằn bà, kinh nguyệt đều đặn. Không có một
chút gì gọi là bất bình thường. Sự phát triển bất thường chứng
tỏ bị gây nên bởi những yếu tố khác.
Cô ta được sinh ở một vùng quê, đứa con đầu của một nông gia.
Trong thế giới đó, những đứa con gái không được quí mến lắm.
Nông dân cần ít là một đứa con trai để thừa hưởng đất đai và
thay thế người cha khi ông muốn về hưu. Vì thế, bố mẹ cô mong
đợi đứa con trai. Không may cho cô gái đó, hai năm sau thì đứa
em trai được sinh ra. Thật không khó để tưởng tượng phản ứng của
cô đối với tình thế. Nhận thấy vị thế của mình nguy hiểm, cô từ
chối chấp nhận đóng vai trò phụ. Cô bé xử dụng một ít năm trong
cố gắng tử tế để giữ ưu thế hơn đứa em nó cả về tinh thần lẫn
thể chất. Tuy nhiên vẫn không đủ sức để thằng bé khuất phục sự
thống trị của nàng. Nó vẫn là đứa con trai và nàng cũng chỉ là
đứa con gái. Để chiến thắng trận chiến nầy, cô phải chế ngự cho
được tình thế. Vì thế, cô hành động như một đứa con trai. Cô bé
chơi với con trai và còn dã man hơn bất cứ một đứa con trai nào
khác. Cô lấy làm khoái chí mặc đồ con gái cho đứa em trai trong
khi chính cô lại mang đồ con trai.
Bố mẹ cô lấy làm thích thú và khuyến khích điều đó. Mọi người
cho đó là kháu khỉnh. Cô bé nghe nhiều lời phê bình thuận lợi về
việc cô xem ra giống con trai. Mọi người đều nhận thấy cô xem ra
là con trai hơn cậu trai em, một đứa trở thành hoàn toàn bị
khuất phục, dễ sai, và thích lệ thuộc vào người chị mạnh mẽ hơn.
Sự thành công nầy dĩ nhiên khích lệ cô bé tiếp tục và tăng cường
cố gắng. Khi cô lớn lên, cô bé ngày càng thích ứng với vai trò
nam giới. Trong mỗi cử động, mỗi bước đi, mỗi phong cách cô là
một đứa con trai đúng tiêu chuẩn. Cô bắt đầu thích các cô gái
nhưng chỉ trong cách bảo vệ và tán tỉnh. Khi cô bé bắt đầu phát
triển về phương diện thể lý, cô chống lại bất cứ dấu hiệu nào
của nữ giới. Cô ghét bộ ngực cô. Cô dùng vải buộc chặt để đè nó
dẹp xuống và không ai chú ý. Cô coi thường sự kinh nguyệt và
không để nó xen vào những hoạt động thể thao. Cô không để phát
triển những nét nữ giới và đầu tóc hớt ngắn kiểu con trai. Giờ
phút huy hoàng của cô đến khi cô có được giấy phép của cảnh sát
để cho mặc đồ con trai. Nhưng luận lý mà cô cố gắng để chống cự
lại mang cô vào xung khắc mới. Bây giờ cô cần một tên con trai.
Điều nầy không dễ đối với lề luật.Nhưng dường như chính quyền đã
bị cưỡng ép để nhượng bộ lần đầu, thật là cần thiết và hợp lý
lấy bước kế tiếp để cho phép cô dùng một tên có thể áp dụng cho
bất cứ phái nào. Nhưng cần có sự giới thiệu của bác sĩ tâm lý,
điều đó được đòi hỏi bởi cảnh sát. Cô ta thì rất là nhiệt tình.
Tôi cố gắng cách luống công để thuyết phục cô ta rằng dẫu cho cô
có thành công, cô vẫn phải chiến đấu với nhiều vấn đề khác. Cô
vẫn là một người đàn bà, không kể khả năng của cô có như thế nào
đi nữa.Ngoại trừ cô chấp nhận vai trò của phái cô, cô càng ngày
càng đi vào những khó khăn lớn hơn. Nhưng như nhiều người với
bản năng phái tính thay đổi bất bình thường, cô không muốn nghe
một lời khuyên nhủ nào hoặc sự giúp đỡ nào, và thẳng thắn từ
chối thảo luận những vấn đề khủng hoảng tâm lý của cô.
Rất ngạc nhiên, cô lại xuất hiện khoảng một năm sau. Thoạt đầu
tôi nghĩ cô có lẽ yêu cầu chữa trị tâm lý. Tuy nhiên, cô chỉ đến
đòi hỏi một dịch vụ khác trong việc cô chống lại xã hội, là cái
đã đánh dấu cô như một hữu thể thấp kém. Cô trót yêu một cô gái
và cô mong tôi giúp để làm cho việc đó trở thành có thể và rồi
hai người có thể lấy được nhau. Dĩ nhiên, điều đó vượt quá quyền
hành con người, và cũng từ đó không bao giờ thấy cô ấy trở lại
thăm tôi nữa”.
BẮT CHƯỚC PHÁI CÓ QUYỀN
Khi sự quân bình giữa hai phái bị phá vỡ và phái bị đàn áp có cơ
hội vươn lên, họ bắt chước hành vi và phong cách của phái có
quyền ngày xưa. Chúng ta có những mẫu gương của khuynh hướng nầy
trong những cộng đoàn tiên khởi. Đó có thể là suốt thời kỳ cơ
cấu mẫu hệ đi xuống, một số hình thức đặc biệt trong cách xử sự
được quan sát mà thường được gọi là tập tục của những cộng đoàn
đầu tiên: sau khi đứa trẻ được sinh ra, người cha mang đứa trẻ
vào giường và nằm với nó nhiều ngày để chăm nom nó, trong khi
người mẹ phải làm những bổn phận trong nhà để chăm sóc người cha
và đứa bé. Dường như là đàn ông cố gắng bắt chước vai trò đàn
bà. Ở đâu các bà thống trị, những gì thuộc các bà xem ra được
các ông ước muốn. Người ta lấy làm lạ không biết các ông trong
thời kỳ đó có cố gắng nuôi con hay không?
Cũng vậy, một sự ngưỡng mộ như thế có thể cắt nghĩa hành vi của
các bà ngày hôm nay. Trong vài mẫu mực, sự hút thuốc đã trở nên
quen thuộc giữa các bà hơn các ông và các ông phải chơi ống điếu
hoặc xì gà để giữ cái gì phân biệt. Cái thói quen lâu đời của
đàn bà Mỹ hút ống điếu có thể đã mang đặc tính thay đổi của xã
hội và sự giải phóng đàn bà suốt thời gian chinh chiến, một thời
đã mang lại cho các bà những bổn phận và quyền lợi mà họ không
có trước đây. Động lực chống lại sự không thích hút thuốc đến từ
ước muốn làm nam giới của các bà, như nó được diễn tả nơi những
đứa trẻ ước muốn mình là người lớn. Những dấu hiệu khác của thời
đại chuyển tiếp của chúng ta là các bà có khuynh hướng muốn mang
dáng vẻ hoặc để tóc tai giống như con trai. Tất cả những bắt
chước nầy không có nghĩa là bình đẳng nhưng như một cố gắng để
nhấn mạnh sự thay đổi trong trạng thái của họ.
CHỨC NĂNG CỦA HAI PHÁI
Mỗi cá nhân phát triển quan niệm về vai trò của phái mình mà
việc chấp nhận hoặc từ khước sẽ làm thay đổi thái độ và sẽ ảnh
hưởng hầu hết mọi giai đoạn của cuộc sống. Chẳng hạn, thái độ
của người đàn bà đối với công việc nội trợ là một trắc nghiệm
tốt mà bà nghĩ vai trò của người đàn bà sẽ là. Những tranh luận
chống hoặc ủng hộ không đánh lừa chúng ta. Chúng ta có thể nghe
những lý do tại sao công việc nhà thì đáng ghét hoặc đáng yêu –
đều tốt như nhau. Con số các bà thích công việc nhà hơn công
việc khác dần dần giảm. Nhiều bà tỏ ra không thích những công
việc nầy vì họ cho những công việc đó là thấp hèn và sỉ nhục. Họ
liên kết những việc làm đó với quan niệm mất giá về vai trò
người phụ nữ. Sự nối kết nầy cũng khiến nhiều người đàn ông
không thích tham gia những công việc gia đình. Việc nhà là bổn
phận gia đình trong nhiều thế kỷ.
Suốt giai đoạn hoàn toàn bị đàn áp, các bà bị loại bỏ khỏi việc
sản xuất nghệ thuật. Những nữ nghệ sĩ hay những vũ nữ đều được
xếp là vô hạng như những thức ăn vô vị. Nhưng nhiều bà ngày hôm
nay tìm chỗ đứng của họ trong xã hội bằng cách nhấn mạnh sự
thích thú vào nghệ thuật, âm nhạc, kịch nghệ, ca vũ đến mức độ
nghệ thuật trở thành một đặc quyền của phụ nữ.
Nhiều người đàn ông đã nhường cho các bà sự thích thú nghệ
thuật. Một đứa con trai thích thú học piano thường được coi là
con gái. Các bà thường cảm thấy khó khiến chồng họ cùng nhập
cuộc đọc sách, dự những buổi thuyết trình hoặc hòa nhạc, xem
triển lãm hoặc đi xem viện bảo tàng. Thật ra, một số bà không cố
gắng cách thành thật vì họ xem ra tự hào về sự cách biệt giữa
những sở thích đáng kính trọng của họ, trong khi các ông thích
trả giá ít cho sự tiếp tục chiếm quyền hành của họ.
Quan niệm chung về vai trò nam giới xem ra là công việc làm
tiền. Quan niệm nầy rất nguy hiểm. Nó đặt vào tay của quí ông
quyền hành mà đồng tiền vẫn còn thế lực. Cùng lúc, nó ngăn cản
sự quí trọng văn hóa và kiến thức chung, là những cái có thể
thay đổi và làm giảm bớt quyền hành về kinh tế của các ông. Sự
nguy hiểm của việc lạm dụng quyền hành sẽ gia tăng nếu các ông
bỏ quên sự phát triển về văn hóa. Và nếu các bà chỉ chú trọng
đến những tiện nghi của cuộc sống, các bà sẽ kéo dài sự lệ thuộc
mà thôi. Khuynh hướng phân chia những bổn phận xã hội giữa hai
phái không có nền tảng trên những yếu tố sinh vật học. Đó chỉ là
những bổn phận của con người. Trong sự phân chia công việc, một
số việc được giao cho mỗi phái là bởi do thói quen hay phong
tục. Chúng được coi là hấp dẫn hoặc vô vị tùy theo vị thế xã hội
của mỗi phái hoàn thành chức năng đặc biệt của mình. Để giữ vững
đời sống hôn nhân, bổn phận làm việc nhà và bổn phận kiếm tiền
đều quan trọng như nhau. Nếu một người tin ở sự bình đẳng, người
ta sẵn sàng làm bất cứ cái gì vào lúc cần thiết và ít lấy làm
quan trọng đối với việc xem ra là vai trò thích hợp của phái
tính. Dẫu lời nói họ rất tử tế, ít có ông hoặc bà sẵn sàng thực
thi sự bình đẳng. Cái rắc rối hiện tại của sự thích nghi thuộc
phái nam cũng như phái nữ không thể được giải quyết bằng cách
tách biệt những hoạt động của hai phái và thiết lập cái khả năng
đáng ngưỡng phục của bất cứ phái nào trong một lãnh vực được xác
định cách rõ ràng. Sự quyết định như thế có thể làm giảm sự cạnh
tranh tạm thời nhưng nó sẽ làm đình trệ sự cộng tác giữa những
người bình đẳng.
ẤN TƯỢNG CỦA CON TRẺ VỀ PHÁI KHÁC
Thái độ cá nhân đối với phái riêng mình tương hợp với thái độ
của mình đối với phái khác. Cả hai thái độ quyết định tư cách
của người đó. Quan niệm về phái khác được phát triển suốt thời
thơ ấu. Những đáp trả tình cảm đầu tiên dành cho một người khác
phái thì có tính cách quan trọng lâu dài. Nói chung, bố và mẹ là
mẫu gương đầu tiên của người nam và nữ chung sống với nhau. Một
đứa bé với sự hiểu biết hạn hữu không thể nhận thức ra rằng gia
đình nó có những nét đặc thù của gia đình nó, không hẳn là đại
diện cho tất cả. Đối với đứa trẻ, thật đơn giản: tình cảnh gia
đình nó đại diện cho tất cả các gia đình trên thế giới. Vì thế,
tương quan giữa bố mẹ xuất hiện như là tương quan giữa nam và
nữ, trên đó đứa bé xây dựng quan niệm của nó về đời sống hôn
nhân. Nếu không nhận ra điều đó, bố mẹ rất dễ gây ảnh hưởng đến
thái độ của đứa bé đối với hôn nhân của nó về sau. Bố mẹ của
phái đối lập thường ảnh hưởng đời sống phái tính tương lai của
đứa trẻ.
Nếu đứa con trai và bà mẹ hoặc đứa con gái và ông bố rất tận tâm
cho nhau, sự liên hệ có thể trở thành một ngăn trở cho việc kết
bạn sau nầy của đứa trẻ. Một đứa trẻ trai được chiều chuộng và
làm hư hỏng bởi bà mẹ, không thể tưởng tượng ra rằng một người
đàn bà khác cũng sẽ tận hiến cho nó như vậy. Rất thường, sự nghi
ngờ nầy ngăn cản nó yêu và kết bạn với một người nào đó. Nó
không được chuẩn bị để gặp một người đàn bà trên căn bản của
việc cho và nhận như được đòi hỏi trong hạnh phúc hôn nhân. Và
cũng thường xảy ra như vậy trong tương quan giữa người bố và đứa
con gái. Một đứa con gái gắn liền với người bố có thể mong người
chồng một sự nhẫn nại, cảm thông, hướng dẫn, và che chở giống
như vậy. Cô dễ quên rằng không một người đàn ông nào của thế hệ
cô có thể có một uy thế tương đối như bố cô, đặc biệt từ khi các
cô gái bây giờ hầu hết có cơ hội để học hành và có sự nghiệp như
con trai.
Vấn đề trên đây xem ra rất phổ biến trong thời đại chúng ta. Các
cô phản đối chống lại việc mình thuộc phái thấp kém, nhưng trái
lại, họ mơ ước một người chồng mà họ có thể ngưỡng phục. Họ vẫn
gắn liền với ý tưởng cho rằng đàn ông phải mạnh hơn, giỏi hơn,
và đáng tin cậy hơn họ. Nhưng có được bao nhiêu người đàn ông mà
cô có thể tìm thấy vượt xa cô như bố cô đã vượt xa khi cô còn là
một đứa bé. Cô sẽ bị thất vọng vì cô khó kiếm được một người đàn
ông như thế. Ngay cả khi cô tìm được, cô cũng sẽ không chấp nhận
anh ta, vì ghét cái thế thượng tôn của chàng, nên nàng có thể
rút lui khỏi chàng hoặc tìm lỗi lầm để rồi nàng có thể coi
thường chàng.
DẠY VỀ PHÁI TÍNH
Ấn tượng về tình ái
được củng cố bởi cách thức trong đó con trẻ được cắt nghĩa để
hiểu về những sự việc của cuộc đời. Sự cắt nghĩa về tình ái
thường đi kèm với sự lúng túng về tâm lý vì ở đây sự phát triển
tự nhiên của đứa trẻ bị ngăn trở bởi sự do dự chu toàn những bổn
phận tự nhiên của cha mẹ. Không may, cha mẹ được nuôi dưỡng lớn
lên trong sự chế ngự liên quan đến những vấn đề tình ái nên bị
lúng túng bởi những câu hỏi của đứa trẻ, và vì thế hoặc không
trả lời gì cả hoặc nếu không làm giận dữ đứa trẻ họ tránh vấn
đề. Đứa trẻ cảm thấy có một cái gì sai với đối tượng của sự tò
mò của nó nếu không nói với chính nó. Nhiều đứa trẻ vì thế, đặc
biệt là con gái không bao giờ tỏ ra ra thích thú trong vấn đề
nầy, và sự nhút nhát cũng như khuynh hướng muốn tránh sự đụng
chạm với vấn đề nguy hiểm nầy có thể ngăn cản sự chấp nhận của
bất cứ sự giải thích nào hoặc sản xuất một khủng hoảng trầm
trọng nếu chúng phải đối diện với những sự việc như thế. Dưới
những điều kiện ưu đãi hơn, những đứa trẻ mà ngay từ đầu sự tò
mò tìm hiểu của chúng bị làm thất vọng, phải trải qua một giai
đoạn mơ hồ, trong đó chúng tỏ ra không còn chút gì thích thú về
bất cứ vấn đề phái tính nào cho tới khi nhu cầu cho một kiến
thức rộng rãi hơn về vấn đề đó đòi hỏi. Nếu may mắn, chúng tìm
được những thầy giáo hoặc những người lớn được chúng yêu quí
cung cấp cho những thông tin cần thiết trong một cách thế thích
hợp và lành mạnh. Nhưng thường nguồn thông tin hoặc được cống
hiến bởi những người lớn không được chính xác lắm, hoặc bằng văn
chương không tốt, hoặc bằng những tranh cãi gợi đầy gợi cảm của
những đứa bạn ở học đường chỉ cho biết được một nửa.
Thật ra, toàn thể
vấn đề có thể được giải quyết một cách dễ dàng và thích hợp nếu
bố mẹ được huấn luyện một cách đầy đủ. Hai điều kiện tiên quyết
cần phải có cho bất cứ một người lớn nào bị hỏi bởi một đứa trẻ:
- thoát khỏi sự lúng túng – và nên trả lời cho câu hỏi của con
trẻ ngay cả ở vào tuổi còn quá sớm nhưng trong cách thế thích
hợp. Bố mẹ sẽ không giận dữ câu hỏi của đứa trẻ như: cái chớp
của sấm sét đến từ đâu? Nhưng câu hỏi nầy thì xa vời với những
vấn đề của cuộc sống. Vậy tại sao bố mẹ lại giận dữ với câu hỏi
xem ra thực tế hơn, có liên quan đến cuộc sống hơn: con trẻ đến
từ đâu? Hãy trả lời mọi câu hỏi mà con trẻ có thể hỏi một cách
chính xác nhưng không đi quá đòi hỏi được làm bởi câu hỏi. Câu
hỏi của con trẻ diễn tả sự thích thú của nó và khả năng hiểu
biết của nó. Vì thế, bố mẹ nên lắng nghe cách cẩn thận ý nghĩa
của câu hỏi. Sự bỏ quên qui luật nầy là một trong những nguồn
thông thường nhất của sự bối rối của bố mẹ. Thay vì lắng nghe
câu hỏi của con trẻ, họ tưởng tượng nó sẽ hỏi câu hỏi gì kế
tiếp. Nhưng điều đó không xảy ra hoặc ít là nó không thể cho tới
khi nó đủ khôn lớn qua nhiều năm tháng.
Khi đứa trẻ hỏi: Con
trẻ đế từ đâu? Câu trả lời chính xác la: Từ mẹ. Không có gì lúng
túng trong cự việc nầy ngoại trừ những ý nghĩ không được trong
sáng mà chỉ người lớn tức khắc liên kết với. Tuy nhiên, đứa trẻ
thì thỏa mãn. Sau đó một thời gian nó sẽ hỏi: Làm sao đứa trẻ
vào trong mẹ? Một lần nữa câu trả lời cũng chỉ đơn giản: Từ
người cha. Đối với đứa trẻ như vậy là đủ, nó không hề nghĩ gì
khác vì con trẻ không thích những phản ứng tự động thuộc về thể
lý. Ngay cả câu hỏi sẽ được hỏi vào những năm sau đó: Làm sao
đứa trẻ đi từ cha vào trong mẹ? Bấy giờ câu hỏi có thể được trả
lời với sự cắt nghĩa của tình yêu trong hôn nhân, là cái sẽ làm
thỏa mãn sự tò mò muốn tìm hiểu của đứa trẻ đã đến tuổi khôn lớn
đủ để hiểu. Trong cách thế đó, những cha mẹ có trình độ hiểu
biết sâu rộng có thể dẫn đứa trẻ đi vào sự trưởng thành, đồng
thời cũng có thể yêu cầu cô giáo hoặc bác sĩ cắt nghĩa thêm cho
nó một cách chính xác nếu sách vở không co những thông tin thích
hợp với lứa tuổi của nó.
Cần sự lưu ý và cố
gắng lắng nghe khi đứa trẻ hỏi những câu hỏi như thế. Bố mẹ phải
bảo đảm rằng những câu hỏi nầy là những diễn tả chân thành muốn
tìm hiểu chứ không phải là những dụng cụ để chiếm sự chú ý. Bất
cứ ai quen với kỷ thuật giáo dục có thể nhận thấy cách dễ dàng
những câu hỏi thật hay giả và hình thức thích lập đi lập lại
những câu hỏi giống như vậy.
SỰ
SỚM TÌM HIỂU VỀ PHÁI TÍNH CỦA ĐỨA TRẺ
Một yếu tố khác cũng
làm ngăn trở sự phát triển của thái độ tự nhiên đối với phái
tính trong con trẻ, đặc biệt là nơi con trai. Trẻ con nhìn thân
thể chúng như một phần của vũ trụ lạ lùng và xem xét rất kỹ.
Những cha mẹ lo lắng thái quá, khi khám phá ra chúng có những
hành động như thế, trở thành quá lo lắng và thường vụng về cố
gắng ngăn cản những hành động sờ chim. Phớt lờ những tìm tòi về
thân thể của đứa trẻ thì ít nguy hiểm hơn là làm nó sợ hãi, vì
chúng ta biết rằng chuyện thủ dâm từ khuynh hướng tự nhiên của
đứa trẻ thì ít hơn là như một kết quả của sự can thiệp bạo lực
vào những hành động vô nghĩa và vô hại. Hầu hết những thói quen
xấu của con trẻ thì được vun trồng một cách khéo léo dầu không
có ý hướng bởi cha mẹ và vú nuôi là những người không biết rằng
đứa trẻ bình thường có khuynh hướng lập đi lập lại bất cứ cử
động nào mà nó bị cấm. Vì thế, sự can thiệp của người lớn vào
việc tò mò tìm hiểu của đứa trẻ, không ngăn cản được hành động
của nó mà còn khuyến khích nó thêm thực hành và tạo nên những
xung khắc tâm thần, là cái trở nên nguy hiểm trong suốt thời kỳ
niên thiếu hơn là những kết quả về thể lý. Đặt nơi đứa trẻ niềm
tin rằng cơ quan sinh dục là dơ bẩn và là điều cấm kỵ, và như
vậy liên kết chúng với tội là một sự đầu độc đầu óc đứa trẻ.
Những kinh nghiệm
phái tính đầu tiên của một đứa trẻ ảnh hưởng thái độ của nó đối
với phái tính. Những kinh nghiệm như thế xảy ra rất sớm. Lớn lên
nó quên đi, nhưng tất cả con trẻ đều kinh nghiệm sự hồi hộp về
phái tính, đứa thì rõ ràng, đứa thì mơ hồ. Những người lớn hôn
đứa trẻ trên miệng nó mà không chút nghi ngờ phản ứng của nó.
Những kích thích nhè nhẹ về cảm xúc phái tính không giới hạn cho
một tuổi nào. Một số trò chơi, những thực tập thể dục, hoặc
những cử động được lập đi lập lại gợi lên những kích thích tương
tự. Cảm giác sợ thường gợi lên sự kích thích phái tính. Trẻ con
không thể cắt nghĩa những cảm giác nầy dầu chúng có được sự thỏa
mãn lớn lao từ đó. Cha mẹ có thể giúp làm giảm bớt sự tai hại từ
những kinh nghiệm huyền bí nầy nếu họ có sự tin tưởng tràn đầy
của con cái họ. Tuy nhiên, hầu hết bố mẹ qua sự can thiệp đầy
khiển trách trước đây, đã làm mất đi niềm tin của con cái bao
lâu vấn đề phái tính được quan tâm. Sự thảo luận tình cờ không
hồi hộp, không lúng túng có thể cất đi sự lẫn lộn của đứa trẻ.
HUẤN LUYỆN TÌNH YÊU
Kinh
nghiệm lúc còn bé về những cảm hứng, những lúc làm khơi dậy dục
tính, những ve vuốt, những đam mê thì rất quan trọng trong những
mẫu mực cá nhân về cảm giác và về chuyện tình ái. Nhân tình thì
rất phức tạp. Chúng ta học yêu như chúng ta học đi, học nói, làm
sao phát triển bước đi riêng của chúng ta cũng như ngôn ngữ
riêng của chúng ta. Ngôn ngữ của chuyện tình ái được định nghĩa
bởi những khơi động về dục tính của thời thơ ấu và được hình
thành bởi những kinh nghiệm trong cuộc sống. Cách cư xử hiện tại
của chúng ta trong tình yêu đã được huấn luyện và phát triển bởi
những kinh nghiệm trong quá khứ.
Quả
thật, không may là liên hệ giữa nam và nữ đã bị ngăn trở bởi
những kinh nghiệm phiền toái của thời thơ ấu. Thế hệ đang lớn có
ít cơ hội để phát triển một ấn tượng thích hợp về tình yêu. Rất
ít khi họ tìm thấy điều đó trong môi trường của họ. Ngay cả
những người mẹ có tình cảm mãnh liệt rất thường có phẩm chất ích
kỷ, đòi hỏi, chiếm hữu đến nỗi xem ra không bảo đảm để phân loại
tình mẫu tử như là một mẫu gương của tình yêu thật. Những ấn
tượng đầu tiên về phái tính và tình yêu có tính cách quyết định
và nhiều người trong chúng ta lớn lên với những kỳ vọng sai lầm.
Những câu chuyện thật và những phim ảnh lãng mạn không bù đắp
cho những cuộc hôn nhân bất hạnh. Trái lại, chúng bóp méo sự
thật và làm chúng ta lên cơn sốt với những hình ảnh, vẻ đẹp hấp
dẫn mà không hề có trong cuộc sống. Biết bao là thất vọng và
giận dữ đã được gây ra bởi những ảo ảnh đó. Chúng ta xem ra bị
lẩn quẩn trong vòng lẩn quẩn đáng sợ đó. Chúng ta được nuôi
dưỡng lớn lên với tất cả mọi loại quan niệm sai lầm, và khi
chúng ta cưới nhau và nuôi dưỡng con cái, chúng ta có những quan
niệm tốt hơn để cống hiến cho chúng.
Ít bố
mẹ ý thức về thái độ của họ đối với chuyện ái tình ảnh hưởng bao
nhiêu đến những ý tưởng của con cái họ. Đứa trẻ hoặc chấp nhận
quan điểm của bố mẹ hoặc chống lại. Từ lúc còn bé trong cuộc
đời, nó phát triển quan niệm của tình yêu như nguồn gốc của đau
khổ hoặc như một cơ hội cho sự khoái lạc hoặc sự thỏa mãn hời
hợt bên ngoài, hoặc học thấy rằng tình yêu và hôn nhân cung cấp
căn bản cho tình đồng bạn của con người. Nó có thể khám phá sự
kích thích và giúp đỡ hỗ tương có thể mang lại kết quả biết bao
từ sự cộng tác của hai phái và có thể học thấy rằng tình yêu bao
gồm không chỉ có nhận mà còn cho đi.
TUỔI THIẾU THỜI
Thái
độ của đứa trẻ đang lớn đối với hai phái và đối với cơ thể học
về sinh lý của nó xác định cách thế mà sau nầy nó sẽ tiến đến
tình yêu và hôn nhân. Điều đó ảnh hưởng đến việc chọn lựa người
bạn của nó và tạo những xung đột đặc biệt hoặc làm nguy hiểm
hoặc làm tăng sự hạnh phúc của hôn nhân. Bất cứ sự lỗi lầm và
lệch lạc nào trong thái độ sống đều trở nên rõ ràng trong suốt
tuổi thiếu thời nầy. Giai đoạn lớn lên nầy có nhiều trục trặc
trong xã hội hôm nay hơn trong những thời đại trước đây. Bố mẹ
có khuynh hướng bảo vệ con cái quá đáng. Họ muốn giữ con cái lệ
thuộc, một phần vì cảm giác thiếu khả năng của họ khiến họ không
tin tưởng khả năng của đứa con có thể tự lo cho nó, một phần vì
nhu cầu danh tiếng không cho phép họ nới lỏng sự thống trị của
họ và trở nên những người bạn bình đẳng của những đứa con họ.
Kết quả, họ không còn tin tưởng vào chính mình cũng như nơi đứa
trẻ.
Sự
xung đột giữa bố mẹ và những đứa trẻ còn niên thiếu thì không
may mắn cho đứa trẻ trong lúc nầy vì đây là giai đoạn căng thẳng
và đầy lo lắng được gây nên bởi sự phát triển thể lý của nó.
Những thanh thiếu niên nầy sẽ có những cảm giác mới khi những
tuyến hạch thuộc về sinh lý đến tuổi của nó. Dường như chúng
được đặt vào thế giới mới. Những người quen thình lình gợi lên
những cảm giác mới lạ và lúng túng trong lúc đứa trẻ thanh thiếu
niên đó lại ý thức về phẩm chất của phái tính của họ. Con trai
và con gái xuất hiện trong một ánh sáng khác. Mọi sự thay đổi
trong lúc những đứa trẻ lớn lên. Chúng trở nên vụng về trong
những cử động và cảm thấy bất an trong việc quân bình của cơ thể
cũng như những tứ chi của chúng. Không lạ gì trong thời gian nầy
chúng dễ sinh ra cáu kỉnh và giận dữ. Quan niệm cuối cùng về
phái riêng mình và thái độ của mình đối với phái khác được thiết
lập và được củng cố trong chao đảo và thử nghiệm.
Bổn
phận chúng ta là giúp những người trẻ nầy trong những cơn buồn
chán của họ. Họ có quyền đòi hỏi sự giúp đỡ của chúng ta trong
suốt giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời họ. Ở vào lúc những
thay đổi lung tung trong những liên hệ con người, tình bạn là sự
hướng dẫn quan trọng nhất trong suốt thời gian chao đảo nầy. Sự
cộng tác giáo dục giúp lật ngược hoặc làm giảm bớt khủng hoảng.
Có được sự hiểu biết sâu xa hơn nhờ sinh hoạt chung với nhau,
đứa trẻ có thể dễ dàng đến để nhìn những phần tử của phái khác
như là những bạn đồng hành và sự khác biệt về phái tính trở
thành ít quan trọng, và sau cùng sự hiện diện cùng chung với
nhau cách hài hòa trong tương lai được thục hiện một cách dễ
dàng.
BA CHỨC NĂNG CỦA TÍNH DỤC
Chúng
ta biết rằng tính dục con người có thể được dùng cho nhiều mục
đích. Trước nhất nó được dùng như nền tảng cho sự đồng sáng tạo.
Thú đam mê là nguyên nhân lôi cuốn mọi hữu thể vào trong sự phục
vụ để bảo tồn nòi giống. Qui luật tôn giáo và nhiều quốc gia xem
đây là mục đích được phép của vấn đề tính dục, và bất cứ mọi
sinh hoạt tình dục ngoài mục đích nầy cũng như mọi ngăn ngừa thụ
thai nhân tạo đều có thể bị cấm.
Thứ
hai, tính dục có thể được dùng như dụng cụ cho sự thỏa mãn cá
nhân như một phương tiện mang đến sự khoái lạc. Trong lúc người
đàn ông học giải thoát khỏi sự cưỡng bách của bản tính tự nhiên,
họ cũng thích làm chuyện tình ái độc lập với ước muốn sinh con.
Ngày nay, hai chức năng sinh sản và tìm khoái lạc trong chuyện
tình ái đối với hầu hết mọi giới hoàn toàn không liên hệ, nếu
tính phần trăm những hoạt động về tình dục để dẫn đến vấn đề
sinh con thì xem ra rất nhỏ. Nhưng khoái lạc ám chỉ nhiều cảm
giác mà một số trong đó có những ý nghĩa không giống nhau mà có
khi còn trái nghịch hẳn nhau. Khoái lạc có thể ám chỉ sự thỏa
mãn nông cạn bên ngoài hoặc những cảm xúc sâu xa kiên hệ tới
toàn thể cá tính. Loại thỏa mãn được đi tìm, xác định vai trò mà
phái tính đóng trong cuộc đời của những con người khác nhau. Có
những người xem khoái lạc của bất cứ loại nào như là lý do để
sống. Đối với những con người như thế, tính dục là một nguồn
không thể cạn, có thể là nguồn thụ hưởng. Chủ thuyết khoái lạc
của họ khiến họ chụp lấy bất cứ cơ hội nào để được hưởng mà
không cần nghĩ đến hậu quả hay giá phải trả. Những người theo
phái nầy thường là những người hoài nghi và thất vọng và vì thế
có cái nhìn thiển cận. Họ không tin vào tương lai và hạnh phúc
họ. Và vì thế, họ bất kể cái gì sẽ xảy ra sau nầy. Đối với họ sự
khoái lạc phải bù trừ cho cảm giác thất bại trên đây của họ.
Cũng vậy, cùng một phạm trù đối với những người dùng tính dục
cho mục đích để chiếm quyền lực, danh tiếng, tình trạng xã hội,
hay ưu thế cá nhân.
Tuy
nhiên, tính dục còn có chức năng thứ ba, chức năng hợp nhất hóa.
Đó là một dụng cụ có thể kết hợp hai người thân mật hơn bất cứ
gì khác. Qua liên hệ tình dục hai người trở nên một cả thể xác
lẫn tâm hồn. Chức năng phối hợp nên một nầy của tính dục cũng cung
cấp khoái lạc, nhưng đó là một khoái lạc trên căn bản khác với
khoái lạc được diễn tả trước đây. Sự thỏa mãn của nó thì sâu xa
hơn và kéo dài hơn. Nó ám chỉ việc trao ban chính mình trong khi
chủ nghĩa khoái lạc kia ám chỉ lợi dụng người khác. Trong khi sự
kích động của chủ nghĩa khoái lạc tìm kiếm sự thay đổi và tùy
thuộc vào kích thích của lúc đó, sự ước muốn phối hợp tìm sự
kiên vững và hạnh phúc tương lai.
Cảm
giác chủ quan của tình yêu có thể dùng cả ba loại chức năng của
tính dục nầy. Cái thứ nhất và thứ ba liên quan đến chương trình
lâu dài trong khi cái thứ hai có khuynh hướng tìm sự thỏa mãn,
muốn quên đi giá trị xã hội và con người.
Xem
ra trong thời đại chúng ta, tính dục mất đi chức năng đầu nhưng
người ta chưa tìm ra được chức năng thứ ba phối hợp nên một.
Quan niệm về tính dục như được dùng cho khoái lạc là phổ thông,
nhưng lại khiến con người không còn cảm thấy một sự thỏa mãn sâu
xa, tình yêu bền vững, lòng trung thành và sự tận hiến cho nhau
nữa. |