1) Thời gian đính hôn.
Thông thường thì việc chuẩn bị cho hôn nhân được
diễn ra, sau thời gian mà hai anh chị đã quen nhau và đã trở nên
thân thiết. Sau thời gian này, nếu được tiếp tục, họ sẽ đi đến
thời kỳđính hôn. Cái động lực chính để đưa hai tâm hồn đến với
nhau, trong nhiều trường hợp, đó chính là tình yêu mà họ đã cảm
nghiệm được từ nơi nhau. Người thanh niên kia vàcô thiếu nữ nọ
tự khám phá ra những nét độc đáo nơi đối tượng của mình, mà
thiết tưởng người ngoài cuộc có thể không nhìn thấy, và điều đó
khiến cho cả hai người cảm thấy họ thực sự thuộc về nhau. Có thể
trong một vài trường hợp khác, cái động lực chính trong việc
chọn lựa cho mình một người bạn đời, lại là những yếu tố có tính
thực tiễn và do bởi lý luận tự nhiên, tỷ dụ như cùng một nghề
nghiệp hay cùng chung một sở thích. Nhưng cũng có trường hợp,
tuy chỉ mới gặp nhau đôi ba lần mà cả hia anh chị đã yêu nhau
ngay lập tức. Đó là một sự kiện mà ta hay đề cập đến gôi là
"tiếng sét của ái tình" như trong một bài ca, thường được trình
diễn với giọng hát của nam ca sĩ Evis Phương: "phút đầu gặp
em tinh tú quay cuồng, lòng đang giá băng, bỗng tràn ngập muôn
tia nắng …". Nhưng dầu sao đi chăng nữa, thì chúng ta cũng
không nên loại trừ vai trò của lý trí và tiếng nói của lương tâm
trong việc chonï lựa người bạn đời cho chính mình. Vì đôi khi
yêu quá cũng có thể hóa dại.
Người bạn đường tương lai phải có trách nhiệm xem
xét và tìm hiểu coi đối tượng và mình có thể hoà hợp với nhau
hay không? Và có sẵn sàng chia sẻ vơí nhau những khó khăn để
cùng nhau xây dựng hạnh phúc lứa đôi cho bền lâu. Đây thiết nghĩ
là công việc của thời gian đính hôn.
2) Ý nghĩa của giai đoạn đính hôn.
Thời gian đính hôn là một cơ hội thuận tiện, cho
phép cả hai tìm hiểu lẫn nhau để xem tình yêu của mình có được
đặt trên một nền tảng vững chắc hay không? Trong giai đoạn này,
họ có thể có những tranh luận hoặc bất đồng ý kiến với nhau
trong khi thảo luận hay nói chuyện. Họ có thể dò xét những sở
thích của nhau, tìm hiểu những ưu khuyết điểm của nhau và giúp
nhau vượt qua những tính hư nết xấu nếu có. Dần dà như thế, họ
có thể hiểu rõ hơn về đối tượng của chính mình để có một cái
nhìn trung thực và chuẩn xác hơn. Và hy vọng với những chiều
hướng như thế, sau này họ sẽ khắc phục được những khó khăn khi
về chung sống với nhau với tư cách là vợ chồng.
Có thể nói cái điểm then chốt hay cơ bản, trong
thời kỳ đính hôn là thời gian để cả hai bên xem xét lẫn nhau. Và
để tránh tình trạng ngộ nhận về đối tượng của mình, thì chúng ta
cần có một thời gian tương đối kha khá, có thể là 6 tháng trở
lên. Kẻo sau này, khi lấy nhau về, lại có người than rằng: "Phải
hồi đó, con biết "ảnh" như dzậy thì con đâu có lấy"… Tính hấp
tấp, vội vàng thường hay dẫn đến sự ngộ nhận – "dục tốc bất đạt"
– người xưa vẫn nói thế. Nhưng ngược lại, cũng không nên kéo dài
quá, tỉ dụ như đã đính hôn cả hơn hai năm mà vẫn chưa thấy cưới,
như vậy nó cũng đâm ra thất lợi. Người con gái họ cũng chỉ có
một thời mà thôi!
Người trẻ hôm nay, có rất nhiều tự do trong việc
chọn lựa cho mình một người bạn đời, so với bậc cha mẹ thuở xưa.
Nhưng điều ấy cũng kèm theo sự gia tăng về trách nhiệm cá nhân.
Nói một cách chung, thì giới trẻ hôm nay bước vào ngưỡng cửa hôn
nhân muộn hơn, so với thời ông bà của chúng ta trước đây[1].
Điều ấy, nhìn với một khía cạnh tích cực thì nó có thể diễn tả
sự trưởng thành trong cái quyết định của chính họ. Tuy vậy,
người trẻ hôm nay cũng gặp rất nhiều khó khăn đang khi bước vào
đời sống hôn nhân. Họ bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tư tưởng
hiện đại, coi nhẹ cái giá trị của đời sống gia đình và định chế
hôn nhân. Có một số các bạn trẻ quan niệm như sau: Nếu thích thì
ở với nhau, còn không thích nữa thì ra toà ly dị, rồi đường ai
nấy đi, như vậy là êm xuôi, không phiền toái gì đến ai cả. Quan
niệm ấy đặt giá trị hôn nhân như là một "hợp đồng" giữa hai
người, mất đi cái ý nghĩa của hôn ước hay giao ước, và mất đi
cái giá trị của sự bất khả phân ly trong định chế hôn nhân. Điều
này xảy ra rất nhiều ở các nước Tây phương, vì lẽ đó mà con số
ly dị của họ lên rất cao. Một vài tỷ dụ để dẫn chứng.
-Tại nước Ý Đại Lợi, theo con số thống kê của Học
viện Quốc gia cho biết thì có sự gia tăng về mức độ ly dị hiện
nay. Họ cho biết cứ 100 đôi hôn phối thì tỷ lệ ly thân là 23.5%.
Trong số này có 12.3% sẽ ly dị chính thức. Theo bài viết được
đăng tải trên nhật báo La Repubblica phát hành ngày
20.10.2001, thì con số ly dị hiện nay tại Ý gia tăng gấp 3 lần
trong những năm gần đây.
-Tại Anh Quốc, theo tờ báo The Time ra
ngày 22.8.2001, thì hiện nay đang có một hiện tượng đáng chú ý,
đó là con số ly dị đang gia tăng đối với những cặp vợ chồng mà
hôn nhân được thực hiện lần thứ hai. Theo thống kê cho biết thì
có 18.000 đôi vợ chồng ly dị vào năm 1981 và đến năm 1999 thì có
28.000. Như vậy chỉ trong có 8 năm, con số đã nhảy vọt hơn lên
10.000.
-Tại nước Uùc Đại Lợi, theo nhật báo The Age
xuất bản tại thành phố Melbourne, phát hành ngày 25.10.2001, thì
cứ 3 đôi hôn phối, có 1 đôi sẽ ly dị và con số này còn gia tăng.
Từ đó chúng ta có thể suy ra ảnh hưởng của ý thức
hệ rất quan trọng. Tôi rất thích cái câu của Steven Bido, một
nhà đấu tranh cho nhân quyền ở Nam Phi trong gian đoạn kỳ thị
chủng tộc, giữa người da trắng và người da đen tại đây. Anh ta
nói như thế này: "nếu bạn muốn cải tổ xã hội, bạn trước tiên,
phải thay đổi cái não trạng của họ." Đời sống hôn nhân sẽ bị
ảnh hưởng rất lớn – điều này có thể xấu hoặc tốt – tuỳ theo cái
nhìn của mỗi người chúng ta và những giá trị mà chúng ta gán đặt
cho nó.
Lẽ đó, mà tôi thiết nghĩ, anh chị em chúng ta,
những nhà lãnh đạo tinh thần, chúng ta có một trọng trách rất
lớn trong việc bảo tồn, duy trì và phát triển những giá trị đặc
biệt trong đời sống hôn nhân Công Giáo. Chúng ta và những người
tín hữu trong cộng đoàn của chúng ta phải ra sức tìm cách, hầu
đề ra những phương thế hữu hiệu nhằm giúp đỡ và hướng dẫn người
trẻ hôm nay, để họ có cơ hội tìm hiểu và khám phá ra cho chính
mình những giá trị hay ho và độc đáo trong đời sống gia đình;
nhờ đó, họ được am hiểu một cách tường tận thế nào là đời sống
hôn nhân. Điều này có thể thực hiện cách hữu hiệu qua các khoá
dự bị hôn nhân, nếu chúng ta tổ chức cho đến nơi, đến chốn. Đặc
biệt là tại những nơi mà từ xưa đến nay, chúng ta đã có một
truyền thống tốt đẹp về các lớp dự bị hôn nhân, có lẽ lúc này
chúng ta cần đẩy mạnh và thăng tiến nó để cho nó được hoàn chỉnh
hơn.
Theo nhận xét chung, có tính cách mục vụ, thì
những người trẻ sắp sửa bước vào đời sống hôn nhân, nếu họ bằng
lòng chịu khó chuẩn bị cho mình một cách tỉ mỉ bằng việc tham dự
học hỏi cho đến nơi, đến chốn các lớp dự bị về hôn nhân, thì họ
sẽ có nhiều điều kiện và cơ hội hơn, để xây dựng mái ấm gia đình
được bền lâu, và họ sẽ sống hạnh phúc với nhau hơn, là những anh
chị em không có tham gia các lớp dự bị hôn nhân. Nói như vậy,
cũng không có nghĩa la,ø hễ ai đi học lớp dự bị hôn nhân thì đều
có hy vọng là đời sống lứa đôi của mình sẽ được vững chắc. Vì có
nhiều người đến tham dự lớp dự bị hôn nhân với một tính cách
miễn cưỡng, bất đặng đừng, chứ cũng chả mấy gì là tha thiết cho
lắm, miễn sao cho nó xong, và hoàn tất những thủ tục cần thiết
để cha xứ cử hành thánh lễ hôn phối là xong.
Nói tóm lại, các khóa dự bị hôn nhân là điều tối
cần thiết cho tất cả những ai muốn bước vào đời sống gia đình,
muốn xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Thật khó có thể hiểu
được, khi có những người chỉ muốn lái xe hơi, nhưng không bao
giờ chịu khó học lái, kết quả là họ đã gây ra tai nạn, và thương
tổn đến tính mạng, trước tiên là chính mình, sau đó là những
người khác.
BẢN CHẤT CỦA HÔN NHÂN
Trong đời sống hôn nhân, người nam và người nữ cả
hai hợp nhất với nhau trong cộng đồng yêu thương vợ chồng, tạo
cho nhau một mái ấm và sự hỗ tương về mặt an toàn; họ đáp ứng và
thỏa mãn cho nhau những ước muốn về phương diện thể xác trong
yêu thương, từ đó phát sinh ra con cái. Họ cũng lãnh nhận và đảm
nhiệm vai trò giáo dục con cái. Quyền lập gia đình là một trong
những quyền căn bản của con người, cũng như quyền bình đẳng giữa
những người phối ngẫu trong đời sống gia đình đã được liệt kê
trong bản tuyên ngôn về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.
Con người (nam lẫn nữ) khi đến tuổi trưởng thành, không bị giới
hạn bởi chủng tộc, quốc gia hay tôn giáo, đều có quyền (được lập
gia đình) đi đến hôn nhân và xây dựng mái ấm gia đình (điều 16).
1) Những mục đích của hôn nhân.
Mục đích của hôn nhân thì nó đi liền với mục đích
của tình yêu tình dục, nhưng chúng lại không nhất thiết là đồng
nhất. Đời sống hôn nhân không chỉ có mục đích duy nhất là sinh
sản con cái, như vẫn thường được quan niệm trước đây[2],
nhưng nó còn có những mục đích khác, chẳng hạn như việc giáo dục
con cái. Một trong những mục đích khác của đời sống hôn nhân là
sự tương trợ lẫn nhau trong một cách thức rất cụ thể, được thể
hiện ngang qua cuộc sống hằng ngày, ví dụ như chăm lo săn sóc
lẫn nhau, đặc biệt khi đau yếu, đây cũng là một hình thức biểu
lộ sự yêu thương của tình nghĩa vợ chồng, song song với việc
chăn gối. Nói cách khác, đời sống và mục đích của hôn nhân không
chỉ hạn hẹp trong việc sinh sản và các hành động hợp giao.
a) Sinh sản và giáo
dục con cái.
Một trong những mục đích cơ bản của đời sống vợ
chồng là việc sinh sản con cái: "Hôn nhân và tình yêu vợ chồng,
tự bản tính qui hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái. Con
cái là ân huệ cao quí nhất của hôn nhân và là sự đóng góp lớn
lao kiến tạo hạnh phúc của cha me… Khi nói như vậy, không có
nghĩa là Công Đồng Vaticanô II, xem thường hay coi nhẹ những giá
trị khác trong đời sống hôn nhân. Thực ra, hai mục đích này (và
nhiều mục đích khác để phát triển nhân phẩm về mọi phương diện)
đều là chính yếu, nghĩa là hôn nhân đòi hỏi quyền lợi để hai bên
(vợ chồng) nhờ nhau mà đạt tới mục đích ấy. Lập giao ước hôn
nhân, nhưng loại trừ quyền lợi để sinh sản con cái thật là vô lý
và giao ước không thành. Điều này muốn ám chỉ đến những đôi vợ
chồng lấy nhau chỉ đểm uốn hưởng thụ nhục-cảm, chứ không màng gì
đến việc sinh con cái. Lẽ đó, dưới cái nhìn của Công Đồng thì
những đôi hôn nhân như vậy không thành sự, xét về phương diện bí
tích.
Do đó, việc thể hiện đích thực tình yêu vợ chồng
cũng như toàn thể tổ chức đời sống gia đình phát sinh từ việc
sinh sản con cái, đều nhằm giúp đôi vợ chồng can đảm sẵn sàng
cộng tác với tình yêu của Đấng Tạo Hoá và Cứu Thế, mặc dù không
loại bỏ các mục đích khác của hôn nhân (như đã giải thích ở
trên). Nhờ đời sống lứa đôi, Thiên Chúa làm cho gia đình Ngài
càng ngày càng bành tướng và phong phú hơn.
Bổn phận truyền sinh và giáo dục con cái phải
được coi là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thi hành
bổn phận ấy, họ biết rằng mình cộng tác với tình yêu của Thiên
Chúa Tạo Hoá và như thể trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của
Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận của mình với trách nhiệm
là bậc cha mẹ và là người Ki-tô hữu.
Nhằm chú giải ước muốn của Đấng Tạo Hoá, Thánh
Kinh đã chí lý khi coi việc lưu sinh hậu thế là một mục đích
thiết yếu trong đời sống hôn nhân. Lời chúc lành của Thiên Chúa
cho cặp vợ chồng đầu tiên của nhân loại trong Sách Sáng Thế ký "Hãy
sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất" (St 1, 28), đã
ban cho đời sống lứa đôi khả năng sinh sản ở tất cả mọi thời và
mọi nơi. Lời chúc phúc này của Thiên Chúa dành cho đời sống hôn
nhân được thể hiện nơi niềm tin của dân Do-thái rằng: con cái là
ân huệ của Thiên Chúa. Và trong cái kế hoạch của Thiên Chúa đối
với đời sống gia đình, là họ phải sinh sôi nảy nở nhằm bành
trướng nhân loại.
Mặc dầu, một số gia đình hôm nay đã giới hạn số
con mà họ sẽ có, so với thời gian trước đây, vì những lý do
chính đáng và dẫu cho chúng ta hiện tại đang nhấn mạnh nhiều đến
khía cạnh tình yêu tương-trợ và sự ân cần nâng đỡ lẫn nhau trong
đời sống lứa đôi hơn so với quá khứ, thì một số đông vợ chồng
vẫn tiếp tục khao khát và ước mong có con. Điều này được thể
hiện qua các cặp vợ chồng hiếm muộn về việc sinh con. Họ đã nổ
lực và đã tìm đủ phương pháp chữa trị hầu có thể thụ thai. Và
ngay cả những cách thức trên đã không thành công, thì họ đã nhận
một con nuôi. Điều này là một chứng cớ hiển nhiên, có sức thuyết
phục chúng ta về sự thật rằng: định chế hôn nhân và tình dục tự
bản chất của nó qui hướng về việc sinh sản con cái.
Định chế hôn nhân và mái ấm gia đình tạo nên
những điều kiện hay môi trường thuận lợi cho việc sinh sản con
cái và giáo dục chúng. Quả thực, đời sống hôn nhân và gia đình
chuẩn bị một bầu khí cần thiết cho tình yêu vợ chồng và hoa trái
của tình yêu đó là những đứa con. Vì thế các quan hệ về tình dục
chỉ hợp pháp trong lãnh vực đời sống hôn nhân.
b) Sự nâng đỡ lẫn nhau và lòng thủy chung
trong tình yêu.
Một mục đích quan trọng khác được đạt đến ngang
qua giao ước hôn nhân, đó chính là sự giúp đỡ lẫn nhau và lòng
thủy chung trong tình yêu của đời sống vợ chồng. Người xưa vẫn
nói: "dấu ấn của tình yêu là lòng chung thủy." Trong hôn nhân,
người nam cũng như người nữ: "phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng
sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm
nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ
hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho
nhau, cũng như lợi ích của con cái buộc vợ chồng phải trung tín
và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly (Gaudium et Spes,
48). Trong giao ước hôn nhân, người nam và người nữ với những
năng khiếu và khả năng khác biệt, bổ túc lẫn nhau một cách hết
sức hoàn hảo. Nói cách khác, họ bổ sung cho những khiếm khuyết
của nhau.
Chính mục đích này mà trong đời sống hôn nhân đã
được Thánh Kinh trong Sáng Thế Ký xác định và thuật lại, nó xảy
ra trong vườn địa đàng. Lý do tại sao Thiên Chúa phú ban một
người nội trợ và cũng là bạn đường cho người đàn ông, là để nâng
đỡ lẫn nhau và để trở nên bạn đồng hành. "Người nam ở một
mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một người trợ tá tương xứng với
nó" (St 2,18). Vì vậy, Thiên Chúa đã dựng nên một người nữ.
Nhìn thấy người phụ nữ, Adam đã nói: "Phen này, đây là xương
bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!" Và Thánh Kinh đã kết
luận: "Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ
mình, và cả hai thành một xương một thịt" (St 1, 23tt). Cách
diễn tả "một xương một thịt" xác định một cách hết sức thực tiễn
và rõ rệt sự trọn vẹn và giúp đỡ lẫn nhau, giữa người nam và
người nữ trong đời sống hôn nhân. Điều đó ngụ ý rằng hôn nhân
không chỉ là một sự ràng buộc, nhưng nó là một thực thể mới, hay
là một đời sống mới, một cuộc sống chung với nhau, đã được cấu
tạo và trong thực tế chúng ta không bao giờ có thể tháo gỡ.
Sự giúp đỡ lẫn nhau giữa vợ chồng trong đời sống
hôn nhân, không chỉ trong những khi vui tươi phấn khởi hay là
hạnh phúc ngập tràn, mà ngay cả những khi gặp khốn khó, hoạn nạn
hay ưu sầu. Nói tóm lại, đã là vợ chồng thì chúng ta phải chung
lưng đấu cật, cùng chia sẻ với nhau tất cả mọi ưu tư lo lắng
trong đời sống lứa đôi. Sự so sánh giữa hôn nhân loài người và
sự kết hiệp mật thiết giữa Chúa Giê-su và Giáo Hội được mô tả
trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô (Ep 5,21-33). Đó là điều thánh
Phaolô muốn chúng ta nắm giữ khi ngài nói: Hỡi các người
chồng, hãy yêu mến vợ mình như Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội,
và đã nộp mình vì Giáo Hội, để thánh hóa Giáo Hội (Ep
5,25-26), và thánh nhân cũng không quên nhấn mạnh rằng: "này
người nam sẽ rời bỏ cha mẹ mình để gắn bó với vợ mình, và cả hai
sẽ làm thành một xác thịt duy nhất. Mầu nhiệm này thật lớn lao:
tôi muốn ám chỉ về Chúa Kitô và Giáo Hội." (Ep 5,31-32). Xem
Sách Giáo Lý Công Giáo (=GLCG), số 1617.
Điều mà tôi vừa trích dẫn ở trên, nhằm mục đích
nói lên một thực tại trong đời sống hôn nhân, đó là ý nghĩa của
sự khổ đau, được coi như thập giá. Quả thực, trong bất kỳ bậc
sống nào, tu trì hay lập gia đình, chúng ta đều có thập giá mà
Chúa trao gởi cho chúng ta. Điều ấy không có nghĩa là chúng ta
dơ tay đầu hàng khi đối diện với những khổ đau, thất bại hoặc
điều bất hạnh xảy đến. Là Ki-tô hữu chúng ta được kêu mời để
không ngừng nổ lực đem hết mọi cố gắng hầu bảo vệ và duy trì
hạnh phúc gia đình, ngay cả những khi gặp trục trặc. Đôi khi,
chúng ta cũng cần nhắc nhở chính mình là những bất hạnh ấy cũng
có thể là những cơ may cho chúng ta, nhằm điều chỉnh một vài sự
sai trái của bản thân và cũng có thể trở thành trường dạy của
tình yêu, giúp ta khám phá ra những giá trị cao hơn của đời sống
vợ chồng.
2) Sự bất khả phân ly trong đời sống vợ chồng.
Một số xã hội trong thế giới ngày nay đã cho phép
ly dị trong một vài trường hợp, khi có sự bất tương xứng giữa
những cặp vợ chồng. Trong số những nguyên nhân và căn cớ làm nền
tảng cho việc ly dị được công nhận, đó là vấn đề ngoại tình, đặc
biệt là điều ấy nếu được gây ra do người vợ. Một nguyên nhân nữa
gây nên sự ly dị, đó là tình trạng hiếm muộn không thể sinh con
do người vợ, một giải pháp được đưa ra cho vấn nạn trên, là cho
phép người đàn ông được cưới vợ bé. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần
ghi nhận rằng: phần đông các quốc gia không coi việc ly dị là
một giải pháp lý tưởng. Vì thế, việc ly dị tuy được chấp nhận ở
một vài xã hội, nhưng điều đó không có nghĩa là tất cả mọi nơi
đều nhất trí và ủng hộ lập trường đó.
Vấn đề ly dị, trong những thập niên gần đây đã
trở thành một vấn nạn khá thương đau. Cấp độ ly dị đã gia tăng
một cách hết sức nhanh chóng[3].
Nhiều lý do được đưa ra hay được vịn tới, thêm vào số những lý
do đã được nêu trên. Sự tự do phóng túng trong vấn đề tình dục
đã được chấp nhận cách rộng rãi hơn trước. Trong thế giới kỷ
nghệ hoá và với những thành phố văn minh hiện đại ngày nay, con
người không còn chung sống như một đại gia đình, trong đó gồm có
ông bà nội, ngoại, hay cô chú, dì dượng… v.v.., trái lại, họ
sống như kiểu gia đình hạt nhân hay còn gọi là tiểu gia đình:
trong đó chỉ có ba mẹ và con cái. Điều này, một mặt, đánh mất
đi sự nâng đỡ hữu hiệu của những thân nhân ruột thịt, bà con
trong họ hàng đối với vợ chồng. Đàng khác, đối với những cặp vợ
chồng mà họ phải sống xa nhau tạm thời, vì công ăn việc làm.
Trong những hoàn cảnh như vậy sẽ gia tăng cái nhu cầu tìm cho
mình một người "bạn đường" khác. Thêm vào đó, con người ngày hôm
nay dường như sống lâu hơn, đặc biệt trong những quốc gia phát
triển và văn mình so với ba chục năm trước đây. Trong quá khứ,
cái chết của hai vợ chồng sẽ kết thúc hôn nhân, trước cái thời
điểm mà họ có thể cứu xét đến việc ly dị. Trái lại, ngày hôm
nay, nếu có sự ly thân, thì điều ấy quả là một gánh nặng đau khổ
bởi vì sự sống của con người hôm nay kéo dài hơn. Nhiều đạo luật
cho phép việc ly dị, mà chúng ta thấy trong thế giới ngày nay
tại một vài quốc gia, chẳng qua đó cũng là một phản ảnh của thực
tế về những sự kiện thay đổi trong cuộc sống con người; nhưng
cùng lúc điều ấy cũng là một lời mời hấp dẫn và dễ dàng bị cám
dỗ. Nó đưa đến cho chúng ta một giải pháp rất thuận tiện cho
những khó khăn mà chúng ta đang gặp trong đời sống hôn nhân,
nhất là khi cơm không ngon, canh không ngọt.
Một mặt khác, điều này cũng ghi nhận rằng, theo
con số thống kê cho biết, một tỷ lệ khá đáng kể của nhiều cặp vợ
chồng đã ly dị, họ đã công khai thú nhận rằng: hôn nhân của họ
có thể được cứu vãn. Dám thú nhận điều này, quả thực là một hành
động khiêm tốn và là một lời khuyến khích thật quí báu cho những
cặp vợ chồng khác khi họ đang gặp khó khăn
[4].
QUAN ĐIỂM CỦA THÁNH KINH ĐỐI VỚI VIỆC LY DỊ.
1. Cựu Ước
Thái độ của Cựu Ước đối với việc ly dị thì đồng
quan điểm với những dữ kiện mà người ta tìm thấy dựa vào khoa
nhân học xã hội (Social Anthropology). Trong thời Giáo phụ, chỉ
có một trường hợp ly dị được nhắc tới: đó là việc Tổ phụ Abraham
đuổi nàng thiếp của mình theo yêu cầu của Sarah (St 21, 9-14).
Sự việc khước từ một cô vợ nếu không có lý do chính đáng, thì
tiền nộp cho phía cô dâu sẽ không được trả lại cho chú rễ, hẵn
nhiên, điều này cũng nhằm để ngăn ngừa tình trạng từ chối hôn
nhân hay ly dị một cách tự tiện, và bảo vệ quyền lợi của người
phụ nữ. Nhưng trong thực tế, hay trên phương diện nguyên tắc, ly
dị vẫn có thể xảy ra, và luật lệ của người Do-thái cho phép thực
hiện điều ấy và chấp nhận điều đó là hợp pháp. Nếu người đàn ông
đã lấy vợ và đã cưới hỏi rồi, mà sau đó vợ không đẹp lòng người
ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết
cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà
(x. Đnl 24,1). Điều nổi bật và đáng chú ý của chứng thư ly dị là
người phụ nữ đó được quyền tái giá với một người đàn ông khác mà
không phạm tội ngoại tình (x. Đnl 24, 2).
Lý chứng để làm nền tảng cho việc ly dị được mô
tả khá chi tiết trong bản văn của sách Đệ Nhị Luật, và đã là
nguyên nhân cho những cuộc tranh luận sôi nổi trong giới các
luật sĩ. Trong thời buổi Chúa Giê-su, có hai lối giải thích khá
quan trọng đối với luật cho phép được ly dị, xuất phát từ hai
trường phái.
· Trường phái thứ nhất là của Shammai,
có vẻ nhặt nhiệm hơn, chỉ có việc ngoại tình của người vợ thì
mới được coi là đủ lý chứng cho việc ly dị.
· Trường phái thứ hai là của Hillel,
được đặt trên nền tảng của chương 24, câu1, trong sách Đệ Nhị
Luật, cho rằng bất cứ lý do gì cũng được. Trong số đó, một vài
lý do được nhắc tới, tỷ dụ như việc người vợ nấu thức ăn bị
cháy, hoặc ngay cả nếu người chồng tìm thấy một người phụ nữ
khác đẹp hơn, thì ông ta cũng có quyền ly dị vợ mình để đính hôn
với người ấy. Dân chúng thời Chúa Giê-su trong các hội đường ủng
hộ lập trường của phái Hillel. Dẫu vậy, việc ly dị cũng đã không
xảy ra thường xuyên, chỉ có những kẻ giàu có lợi dụng chuyện
này.
Các ngôn sứ, một đàng tỏ ra chấp nhận việc ly dị
như một thực tại của hoàn cảnh; nhưng đàng khác, họ nhìn nhận sự
bất khả phân ly trong hôn nhân là một lý tưởng. Tuy nhiên, điều
rõ nét nhất trong toàn bộ các lời giảng dạy của các ngài về hôn
nhân và sự trung tín giữa vợ chồng, thì việc ly dị là điều không
thể xảy ra. Sự bất khả phân ly trong đời sống hôn nhân thì cũng
giống như cái lý tưởng một vợ một chồng, được các ngôn sứ bao
hàm trong lối so sánh của họ, nhằm nói lên mối liên hệ mật thiết
của Đức Chúa Yavê và dân Do-thái, tựa như một hôn ước (marriage
covenant). Tột đỉnh của lý tưởng hôn nhân được mô tả trong Cựu
Ước, qua đoạn sách của ngôn sứ Malachi (2,14-16).
"Bởi Đức Chúa Trời là chứng nhân giữa ngươi và
người đàn bà ngươi đã cưới trong tuổi thanh xuân. Chính ngươi đã
phản bội nó, mặc dầu nó là bạn đường và là người vợ kết ước với
ngươi. Người đã chẳng làm nên một hữu thể duy nhất có xác thịt
và Thần Khí đó sao? Vậy hữu thể duy nhất này tìm cái gì? Một
dòng dõi của Thiên Chúa. Các ngươi hãy coi chừng và chớ phản bội
người đàn bà ngươi đã cưới trong tuổi thanh xuân. Quả thật, Ta
ghét việc rẫy vợ, Đức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en phán."
Cái lý tưởng này cũng được phản ảnh trong đoạn
Sách Sáng Thế, nói về việc Thiên Chúa tạo dựng người phụ nữ nơi
vườn điạ đàng, trong cái khung cảnh mà hôn nhân đầu tiên được mô
tả như là chỉ có một vợ và một chồng và hôn nhân có tính cách
vĩnh viễn.
2) Tân Ước
Những tranh luận về việc ly dị giữa những người
Do-thái với nhau, tạo cơ hội cho Chúa Giê-su trả lời cho vấn đề,
và đưa ra cái quan điểm của Ngài một cách công khai, và thẳng
thừng lên án cách mạnh mẽ những sự ươn hèn của các luật sĩ
Do-thái và lập trường của chính họ về vấn đề ly dị.
Lời lẽ phát biểu của Ngài được ghi lại trong Tin
Mừng của Mát-thê-ô (5,31tt); Lu-ca (16,18) và thư thứ nhất gửi
giáo đoàn Côrintô (1Cô-rin-tô 7,10tt). Cũng như trong các cuộc
thảo luận được ghi lại do Mác-cô (10,2-12) và Mát-thê-ô (13,
3-9). Trong khi tranh luận với các biệt phái, Chúa Giê-su đã hủy
bỏ việc cho phép ly dị theo luật của Mô-sê, điều ấy đã được ban
cho dân Do Thái, vì tấm lòng chai đá của họ. Chúa Giê-su đã
trưng dẫn hai đoạn Sách Thánh nhằm chống lại và phản đối sự việc
Mô-sê đã chuẩn cho dân Do-thái được phép viết chứng thư ly dị.
Theo Sách Sáng Thế Ký, phụ nữ được coi như ngang hàng và bình
đẳng về nhân-phẩm với nam giới. "Cả nam lẫn nữ Thiên Chúa đã
dựng nên họ." (St 1,27) " và cả hai thành một xương một
thịt" (St 2,21). Sự hiệp nhất bền vững giữa người nam và
người nữ được Đức Ki-tô nói rõ khi nhắc lại ý định "từ nguyên
thủy" của Đấng Sáng Tạo. "Họ không còn là hai; nhưng chỉ là
một xương một thịt" (Mt 19,6). Lẽ đó, họ không thể phân ly.
Lời Chúa Giê-su phán cho biết Ngài khẳng định từ
chối bất cứ trường hợp ly dị nào. Nhưng chẳng phải trong Tin
Mừng đã chả cho phép rẫy vợ (ly dị) trong trường hợp ngoại trừ
đó sao? sự kiện này đã được hợp thức hoá trong điều khoản phạm
tội gian dâm với người khác.
"Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, ngoại trừ
trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ tới
chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm
tội ngoại tình" (xem Tin Mừng Mát-thê-ô 5,32).
Và Mát-thê-ô 19,9 " Tôi nói cho các ông biết:
Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà
cưới vợ khác thì phạm tội ngoại tình".
Phải công tâm mà nói việc chú giải đoạn văn trên
với "mệnh đề đặt điều kiện" là một việc khá phức tạp và nhiều
khó khăn. Tuy nhiên, điều ấy vẫn không có hiệu lực làm mất đi
cái giá trị căn bản mà Chúa Giê-su đã tuyên bố về việc ly dị.
Mác-cô, Lu-ca và Phao-lô không hề hay biết về trường hợp
ngoại trừ này. Không thể hình dung được là họ đã bỏ sót một
tuyên ngôn khá quan trọng như vậy.
Vậy thì chúng ta phải giải thích như thế nào cái
điều khoản gian dâm? Nhiều hocï giả Thánh Kinh đã cố gắng chú
giải điều ấy với những lý lẽ khác nhau. Tuy nhiên, có hai giả
thuyết đã được đại đa số chấp nhận. Giả thuyết thứ nhất cho rằng
từ "Porneia" (nguyên ngữ Hy lạp), trong mệnh đề
nhắm tới việc cưới hỏi lẫn nhau giữa những người trong họ hàng
thân tộc, điều này đã được cấm đoán trong Cựu Ước (x. Lv 18, 6
tt) và vì thế được coi như là bất hợp pháp, bởi người Do-thái
cũng như bởi Giáo Hội thời sơ khai, trong khi điều ấy được coi
như là hợp pháp đối với dân ngoại (tỉ dụ đám cưới giữa chú và
cháu hoặc giữa anh em họ với nhau). Những cuộc hôn nhân như vậy,
sau này có thể bị khám phá ra khi họ nộp đơn xin rửa tội để trở
lại đạo, và hôn nhân của họ phải được kết thúc hoặc giải thể.
Điều này, tạo nên cái ấn tượng là cho phép ly dị đối với người
lương dân, sau này các nhà soạn thảo lại Tin Mừng theo thánh
Mát-thê-ô đã nỗ lực cố gắng để đưa ra một giải thích thỏa đáng
cho vấn đề nan giải này.
Giả thuyết thứ hai thì cho rằng cái mệnh đề (đặt
điều kiện) ấy, mô tả một trường hợp ngoại trừ thật sự đối với
việc cấm đoán ly dị. Từ "Porneia" được chuyển ngữ là
thông dâm/gian dâm (Fornication) hoặc ngoại tình (Adultery). Lối
giải thích này được các nhà chú giải Kinh Thánh của giáo phái
Tin Lành và Chính Thống Giáo chấp nhận cách rộng rãi, và cho đến
nay thì một số đông các học giả Công Giáo cũng đã chấp nhận. Hầu
hết các nhà chú giải Kinh Thánh (trong số đó có cả Công Giáo)
hiện nay, có xu hướng chấp nhận trường hợp ngoại lệ cho vấn đề
ly dị trong trường hợp người vợ phạm tội ngoại tình.
Nhưng nếu chúng ta đối chiếu với phần chú giải –
nằm ở cuối trang – của bản dịch Tân Ước do Ban PhụngVụ Các Giờ
Kinh thực hiện, thì chúng ta thấy văn bản được dịch là "ngoại
trừ trường hợp HÔN NHÂN BẤT HỢP PHÁP" (Mt 5,32) và cụm từ hôn
nhân bất hợp pháp được giải thích như sau: diễn dịch từ Hy
lạp "porneia". Theo văn mạch ở đây cũng như ở Mt 19,9 và
so với Mc 10,11-12; Lc 16,18; 1Cr 7,10-11, thì Chúa Giê-su thắt
chặt lại khoản luật lỏng lẽo của Cựu Ước về ly dị (x. Đnl
24,1-2). Trường hợp ngoại trừ ở đây không phải là ly dị vì ngoại
tình (Hy Lạp: moikheia). Porneia cũng không hiểu là gian
dâm theo nghĩa thông thường, mà theo luật Do-thái thời xưa.
Những cuộc sống chung giữa những người họ hàng với nhau mà Lê-vi
18 kê khai được coi là gian dâm, nghĩa là bất hợp pháp. Có lẽ
Mát-thêu muốn đưa về Công Vụ Tông Đồ 15, 29 (cũng từ porneia):
các tín hữu gốc ngoại phải tránh kết hôn với người có họ hàng,
vì đó trái luật Do-thái, dù rằng theo luật đời, các hôn nhân
giữa họ hàng như vậy có thể hợp pháp.
Chúa Giê-su từ chối việc ly dị, đối với giả
thuyết thứ hai, nghĩa là được phép ly dị, nếu người vợ phạm tôi
ngoại tình. Sự kiện Chúa Giêsu phản đối việc ly dị, điều đó được
xem như là một biểu lộ của lý tưởng, chứ không phải là luật hoàn
toàn có tính cách tuyệt đối. Quan điểm này được ủng hộ dựa vào
những chứng cớ tìm thấy nơi đoạn Tin Mừng của Mát-thê-ô 5, 3tt,
qua Bài Giảng Trên Núi. Tại đây, chính Chúa Giê-su, trong một
diễn đạt khoáng đại đã mời gọi con người đạt tới mức thiện hảo
vô song. Nhưng điều ấy không có nghĩa là đặt ra những luật lệ
buộc con người phải tuân giữ theo sát bản văn.
Trong Bài Giảng Trên Núi, có rất nhiều lời tuyên
bố với tính cách xác quyết. Tuy nhiên, Giáo Hội chỉ coi đó là
những lý tưởng chứ không phải là giới luật (ví dụ như những huấn
dụ về lời thề hứa, việc bất bạo động, yêu thương kẻ thù và nên
hoàn thiện như Thiên Chúa – xem Mt 5, 21-48)[5].
Vì thế, việc Chúa Giê-su khăng khăng phản đối việc bất khả phân
ly trong đời sống hôn nhân có thể mang một tính chất giống như
vậy, nó chỉ là một lý tưởng mà người ta phải nỗ lực ra sức theo
đuổi chứ không hẳn là một lề luật áp chế tất cả mọi người tuân
theo theo nghĩa ngữ của nó.
Nói tóm lại, quan điểm của Chúa Giê-su thì đơn
giản: lý tưởng cho các cặp vợ chồng Ki-tô giáo là họ nên trung
tín với nhau, cho nên việc ly dị xét ra không cần thiết. Nhưng
một mặt khác, Giáo Hội thời tiên khởi, dường như cũng đã xem xét
đến những điều kiện thực tiễn của một thế giới bị giới hạn bởi
những khiếm khuyết và tội lỗi, nên không thể tránh khỏi những
bất trắc xảy ra, cho nên các ngài cũng đã tìm kiếm một giải pháp
thích hợp nhằm điều chỉnh sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực
tại. Nơi đây, ta cũng nên nhắc lại trường hợp ngoại trừ được
thánh Phao-lô cho phép, trong trường hợp, một người ngoại giáo
mà họ muốn ly dị với người phối ngẫu của họ đã trở thành Ki-tô
hữu. Trong trường hợp này, thánh Phao-lô phán quyết như sau:
Người tín hữu không bị bó buộc phải duy trì bậc sống độc thân.
"Còn với những người khác, thì tôi nói chính tôi chứ không phải
Chúa: nếu anh em nào có vợ ngoại đạo mà người này bằng lòng ở
với người ấy, thì người ấy đừng rẫy vợ. Người vợ nào có chồng
ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy
đừng bỏ chồng. Thật vậy, chồng ngoại đạo được thánh hoá nhờ vợ,
và vợ ngoại đạo được thánh hoá nhờ người chồng có đạo. Chẳng
vậy, con cái anh em sẽ làm ô uế, trong khi thật ra chúng là
thánh. Nếu người ngoại đạo muốn bỏ người kia thì cứ bỏ; trong
trường hợp đó, chồng hay vợ có đạo không bị luật hôn nhân ràng
buộc: Thiên Chúa đã kêu gọi anh em sống bình an với nhau! Chị là
vợ, biết đâu chị chẳng cứu được chồng? Hay anh là chồng, biết
đâu anh chẳng cứu được vợ?" (1Cr 7,12-16) .
GIÁO HUẤN CỦA HUẤN QUYỀN
Đại đa số các giáo phụ ủng hộ lập trường tuyệt
đối bất khả phân ly của hôn nhân. Tuy thế, cũng có một số vị đã
bênh vực trường hợp ngoại trừ cho một số trường hợp nan giải. Họ
thường xuyên trưng dẫn đoạn văn của Mat-thê-ô 5,32, để ủng hộ
cho quan điểm và lập trường của họ.
Thái độ của Huấn Quyền đã được đặc điểm hoá bằng
những xác tín không lay chuyển rằng: sự ràng buộc hôn nhân Công
Giáo ngang qua bí tích, thì không thể tháo cởi, nó mang tính
chất bất khả phân ly. Giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng và của
Công Đồng chung thì kiên vững và hầu như đồng tâm nhất trí: việc
tái hôn hay lập gia đình lại sau khi đã ly dị là điều không thể
được, và không thể chấp nhận, ngoại trừ trong trường hợp đã được
tiêu hôn (Annulment) hay được phép chuẩn của Tòa Thánh, tuyên
bố là hôn nhân đầu tiên không thành sự
[6].
Giáo Hội Công Giáo hằng lên tiếng bảo vệ sự tuyệt đối bất khả
phân ly của hôn nhân ngay cả khi phải trả một giá rất đắt. Một
ví dụ điển hình nổi bật là thái độ khẳng định của hàng phẩm trật
thuộc Giáo Hội Công Giáo La Mã đối với vua Henry VIII của Anh
quốc, người đã gây nên cuộc ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo La
Mã và thành lập Anh Giáo, bởi vì Đức Giáo Hoàng thời bấy giờ đã
khước từ thỉnh nguyện thư của ngài nhằm để xin phép giải hôn
phối đầu tiên, và cho phép ngài được kết hôn một lần nữa.
Giáo thuyết về việc bất khả phân ly trong hôn
nhân Công Giáo được công bố một cách rõ rệt, tỏ tường bởi Công
Đồng Trentô. Nhưng có một điểm đáng chú ý là các nghị phụ đã chủ
tâm tránh né việc lên án cách thực hành của các Giáo Hội Đông
Phương liên quan đến việc ly dị. Theo các giáo hội này thì quan
điểm của họ cho rằng: hiệu lực của bí tích hôn phối không có giá
trị suốt cả cuộc đời, đối với người phối ngẫu đầu tiên. Tuy vậy,
hôn nhân thứ hai chỉ là việc bất đặng đừng phải chấp nhận và cho
phép đón nhận Bí tích Hôn phối.
Công Đồng Va-ti-ca-nô II công bố việc bất khả
phân ly của hôn nhân, mặc dầu có một số nghị phụ đề nghị cho
phép ly dị trong một vài trường hợp nan giải. Sau đây, tôi xin
phép trích dẫn một đoạn trong Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong
Thế Giới Ngày Nay (Gaudium et Spes), số 48, liên quan đến
việc bất khả phân ly trong đời sống hôn nhân.
"Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó,
hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau nhờ sự an bài của
Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước
mặt xã hội nữa. Vì ích lợi của lứa đôi, của con cái và của xã
hội, nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở
thích của con người. Chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân,
phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác… Sự liên kết mật thiết
vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của
con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi họ kết
hợp với nhau bất khả phân ly."
Bộ Giáo luật cũng đã diễn giải một cách chi tiết
hơn, liên quan đến Bí tích Hôn Nhân Công Giáo, một khi đã được
thành sự trọn vẹn bởi hành vi quan hệ vợ chồng, qua việc giao
hợp, thì không thể tháo cởi do quyền lực con người, hoặc bất cứ
điều gì ngoài sự chết. (x. Sách Giáo luật, số 1141). Tuy nhiên,
nếu như Bí tích Hôn nhân chưa thành sự trọn vẹn thì điều ấy có
thể cởi tháo, nếu có lý do chính đáng (x. Sách Giáo Luật, số
1142). Thêm vào đó, việc kết hôn hợp pháp giữa những người chưa
chịu phép Rửa Tội, tuy rằng hôn nhân ấy đã thành sự trọn vẹn,
thì điều ấy vẫn có thể cởi tháo nhằm ủng hộ đức tin theo đặc ân
của thánh Phao-lô (x. Sách Giáo Luật, số 1143). Đặc ân này được
dựa trên đoạn thánh thư gửi cho tín hữu Côrintô (1Cr 7, 12-16).
NHỮNG LÝ DO CƠ BẢN NHẰM PHẢN ĐỐI VIỆC LY DỊ
Bản văn của Công Đồng Va-ti-ca-nô II liệt kê ba
lý do chính nhằm phản đối việc ly dị gồm có: 1) Lợi ích của lứa
đôi, 2) của con cái và 3) của xã hội (x. Hiến chế Mục Vụ về Giáo
Hội trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium et Spes, số 48). Lý
do thứ tư có tính cách thần học được rút ra từ vai trò của bí
tích trong hôn nhân Công Giáo.
1)
Ly dị bị phản đối vì lợi ích của đôi vợ chồng.
Việc ly dị sẽ đánh mất đi cái ý nghĩa và mục đích
của sự tự hiến của hai người cho nhau và lòng trung tín trong
tình yêu. Người chồng và người vợ không thể tận hiến cho nhau
một cách trọn vẹn, khi mà trong đầu óc của họ vẫn lấp ló một ý
nghĩ, là mối dây liên hệ mật thiết ràng buộc trong tình nghĩa vợ
chồng vẫn có thể bị tan vỡ. Xét về phương diện tâm lý thì tự bản
chất tình yêu của con người đã qui hướng về bạn đường trăm năm.
Mục đích của việc bảo vệ và giúp đỡ chăm sóc lẫn nhau là một
điều tối cần thiết nhất là trong khi gặp hoàn cảnh khó khăn,
điều này chỉ có thể đảm bảo trong bậc sống hôn nhân khi quan hệ
vợ chồng là một quan hệ vĩnh viễn. Quả vậy, tình yêu chân thật
trong đời sống hôn nhân không thể giới hạn trong một khoảng khắc
nào đó. Nghĩa là hôm nay thì tôi yêu em, nhưng ngày mai thì
không còn nữa.
Việc khẳng định rằng mối dây ràng buộc trong đời
sống hôn nhân là bất khả phân ly tạo nên một thế lực rất mạnh,
nhằm để bảo vệ lợi ích tình yêu vợ chồng và lòng trung thành. Nó
mang lại một động lực rất mạnh, hầu giúp cho đôi vợ chồng chấp
nhận, chịu đựng những khuyết điểm của nhau trong kiên nhẫn và
bảo tồn sự hiệp nhất cũng như hoà thuận với nhau. "Nếu định chế
hôn nhân và gia đình không có một nền tảng vững chắc, thì xã hội
sẽ trở nên nghèo nàn, và điều đó đã làm mất đi cái nét yêu kiều
của bộ mặt con người. Con người sẽ trở nên cô lập, tính toán so
đo với nhau và những mối liên hệ giữa con người với nhau chẳng
qua là để vụ lợi. Nó còn làm cho sự đoàn kết mỗi ngày một rạn
nứt lớn hơn." Qủa thật chí lý khi nói rằng: "Dấu ấn của tình yêu
chân thật là lòng trung thành."
2. Sự phân ly trong hôn nhân gây tác hại cho
trẻ em.
Một khi mà mối dây liên hệ ràng buộc trong đời
sống hôn nhân bị lỏng lẻo, thì con cái bị tước đoạt đi tình cảm
của bố hoặc mẹ nó hay cả hai, và điều ấy hiển nhiên ảnh hưởng
đến sự tự tin của chúng, việc học hành và gây nên sự bất ổn
trong tâm hồn. Sự mất mát đối với trẻ em thì không thể bồi hoàn
lại được.
"Có thể nói không ai chịu nhiều đau khổ hơn
các em khi ba mẹ chúng ly dị. Các em là nạn nhân chính trong các
cuộc ly dị. Thật vậy, các em là của hy sinh cho sự yếu hèn của
cha mẹ. Ly dị được cảm nhận bởi các em như là một sự khước từ
của cha mẹ đối với chúng ." (x. "Love
Is For Life" – Lá thư mục vụ của HĐGM Ái Nhĩ Lan (1985)
.
Thông thường thì các em sẽ gặp phải nhiều vấn nạn
và khó khăn khi chúng phải trải qua cuộc ly dị của ba mẹ. Một
cha ghẻ hay dì ghẻ không thể nào có thể thay thế cho một người
cha hay người mẹ của các em, mặc dầu có rất nhiều những cha mẹ
ghẻ đã làm hết sức của họ. Một em khi phải sống với cha hay mẹ
ghẻ của mình thì khả năng bị đối xử tàn tệ có thể diễn ra thường
xuyên hơn khi em ấy sống với cha mẹ ruột của mình
[7].
Lợi ích của con cái ít khi được sử dụng để coi đó
như một sự ép buộc cha mẹ không được phép ly dị, nhưng ngược
lại, nó dùng để đấu tranh cho sự bền vững của mái ấm gia đình.
3) Lợi ích của xã hội đòi hỏi gia đình phải
bền vững.
Chỉ có phương cách ấy thì việc giáo dục lành mạnh
cho các thế hệ trẻ có thể được bảo đảm; và sự tương thân, tương
trợ đoàn kết lẫn nhau trong cùng một cộng đoàn mới được bảo vệ
và nâng đỡ. Chính quyền không những chỉ có trách nhiệm và bổn
phận giải thể những cuộc hôn nhân bị trục trặc, nhưng họ còn
phải có trách nhiệm cung cấp những dịch vụ tư vấn về phương diện
gia đình hầu giúp đỡ việc hoà giải và tái lập những hôn nhân đã
bị đổ vỡ.
4) Lý luận sau cùng là một lý luận mang tính
chất thần học.
Điều này được xây dựng trên nền tảng của Bí tích
Hôn nhân Công Giáo, bởi nó chỉ được áp dụng cho Ki-tô hữu mà
thôi. Đức Giê-su Ki-tô gợi lại cho những kẻ đi theo Ngài, việc
nhân nhượng cho phép người Do-thái rẫy vợ theo luật của Mô-sê;
và trong thư gởi cho giáo đoàn Côrintô (1Cr 7,12-16), thánh
Phaolô cũng đã nhân nhượng cho phép họ được ly dị chỉ trong
trường hợp hôn nhân không Công Giáo (nghĩa là giữa hai người
chưa chịu phép Thanh Tẩy). Ngược lại hôn nhân Công Giáo, một khi
đã thành sự và trở nên bí tích thì không thể giải được.
Chúng ta thấy Bí tích Hôn nhân Công Giáo cũng
được nhắc đến trong thư của thánh Phao-lô gửi cho giáo đoàn
Ephêsô (Ep 5, 21-33). Bản văn này đã so sánh giữa hôn nhân Ki-tô
giáo và sự hiệp nhất của Đức Ki-tô với Giáo Hội, như đã nhắc tới
ở phần trên "Hôn nhân Ki-tô giáo là dấu chỉ hữu hiệu, là Bí tích
của Giao Ước giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh" (x. GLCG, số 1617).
Thánh Phao-lô còn nói thêm: "Người làm chồng hãy
yêu thương vợ như Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh, và hiến mình
vì Hội Thánh … Còn những người làm vợ thì hãy tùng phục chồng
mình, như Hội Thánh tùng phục Chúa Ki-tô". Nhưng chúng ta cần
ghi nhớ điều này là chúng ta đang sử dụng phương pháp loại suy,
để so sánh, do vậy điều ấy có thể trở thành quá khắc khe khi
chúng ta đi đến một kết luận được suy ra từ một giao ước siêu
việt có tính cách vĩnh cửu, tuyệt đối giữa Đức Ki-tô và Hội
Thánh (Hội Thánh được ví như nàng dâu, chỉ là một cách nói bóng
bẩy, đầy tính chất ẩn dụ; và những phần tử cá nhân của Hội Thánh
thì đã luôn luôn không trung thành với giao ước.), rồi đặt nó
ngang hàng với vĩnh viễn tuyệt đối của giao ước hôn nhân, điều
này xét cho kỹ thì nó rất khác biệt, một trật tự không chắc
chắn. T. Mackin, trong tác phẩm rất nổi tiếng: Divorce and
Remarriage , (Ly Dị và Tái Hôn.) (1984), trang 530-537, đã
đưa ra một nhận xét như sau: Điểm then chốt trong việc so sánh
(bằng phương pháp loại suy của thánh Phao-lô trong Ep 5,21-33)
giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh, chính là tình yêu tự hiến và niềm
tin tưởng, điều ấy cùng lúc cũng có hiệu lực phát sinh và gây
sống động cho sự liên hệ mật thiết giữa vợ chồng với nhau, chứ
không có ý ám chỉ đến việc bất khả phân ly của hôn nhân. Để có
một chứng cớ rõ rệt nhằm đi đến kết luận về việc bất khả phân ly
của hôn nhân qua Bí tích Hôn Phối, chúng ta cần phải có thêm
những lý chứng khác nữa. Nói vắn gọn, chúng ta không thể chỉ nại
đến mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh để đưa ra
một hệ luận cho việc cấm không được ly dị.
Để kết luận, vì hôn nhân tượng trưng cho
một mối liên hệ hết sức mật thiết giữa người nam và người nữ và
được nối kết trong việc sinh sản và giáo dục con cái, cho nên
hôn nhân mang tính cách hợp nhất và vĩnh viễn. Thêm vào đó, ngay
từ giây phút ban đầu, vợ chồng phải mang một trách nhiệm lớn lao
và có bổn phận phải gìn giữ, bảo vệ và làm cho đời sống hôn nhân
càng ngày càng thắm thiết, kết hợp chặt chẽ hơn. Họ có trọng
trách không để cho hôn nhân của mình bị tan vỡ và chết đi. Đây
là điều cầm buộc riêng cho những ai đã đi vào đời sống hôn nhân,
vì đó là bí tích, là dấu chỉ cho trần gian, bằng cuộc sống tốt
đẹp lứa đôi của họ, họ chiếu giải khuôn mặt và tình yêu của Đức
Ki-tô cũng như lòng tín trung của Ngài đối với Hội Thánh.
Linh mục Trần Mạnh Hùng,
C.Ss.R
L.J. Goody Bioethics Centre
39 Jugan Street, Glendalough, WA. 6016
AUSTRALIA
Email:
phtran-ljgbc@iinet.net.au
CHÚ THÍCH:
[1] . Xem Phạm
Hồng Lam, "Gia đình ta, gia đình tây và vấn đề hội nhập," Trong
Tập San Định Hướng, số 28, mùa thu 2001, trang 29
– 39, đặc biệt là trang 33.
[2] . Thể theo
như quan niệm của Thánh Augustinô. Tuy nhiên, đến thời Công Đồng
Vaticanô II, thì quan niệm ấy đã được thay đổi. Công Đồng
Va-ti-ca-nô II đã nhấn mạnh đến tình yêu, trong khi không chỉ
lưu ý đến khía cạnh pháp lý của hôn nhân, nhưng đã đề cao phương
diện nhân vị. Nên, bây giờ ta phải nói rằng hôn nhân là để vợ
chồng yêu nhau và tự hiến cho nhau, nhờ đó mà sinh sản con cái,
vì chính tình yêu vợ chồng cũng như hôn nhân đều hướng về việc
sinh sản. Giữa tình yêu vợ chồng và việc sinh sản con cái không
có sự mâu thuẫn gì cả, trái lại nếu bỏ một trong hai, sẽ không
thể hiểu điều kia được. Xem Công Đồng Va-ti-ca-nô II về đời sống
gia đình trong Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày
Này, số 48, "Gaudium et Spes., 48".
[3] . Xem
Zenith International News Agent đăng ngày 3 tháng 11 năm
2001 trong bài "Europe and Australia, Family Life Is Fraying:
Divorce and Falling Tax Breaks Are Taking Their Toll."
[4] . Xem
Bernard Haring, C.Ss.R., No way out? – Pastoral Care
of the Divorced and Remarriaged. England: St Paul
Publications, 1989, tr. 67.
[5] . Chúa Giêsu
phán: "Các anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên anh em trên
trời là Đấng hòan thiện." (Mt 5, 48). Lẽ dĩ nhiên, con người với
thân xác phàm hèn, không thể nào có thể đạt tới sự hòan thiện
như T.C. Cho nên, lời mời gọi này của Chúa Giêsu, theo các nhà
chú giải Kinh Thánh, thì họ cho rằng đây là một lời khuyên hơn
là một mệnh lệnh.
[6] . Xem
Geoffrey Robinso, J.D., Marriage Divorce and Nullity: A Guide
to the Annulment Process in the Catholic Church. (Melbourne:
Colin Dove, 1989).
[7] . Theo thống
kê của một tờ báo Mỹ, New Week, phát hành ngày12 tháng 3
năm 1989, trang 27. |