Tự bản chất, hôn nhân nằm trong trật tự luân lý
và đạo đức. Chính trong trật
tự
này mà gia đình được gọi là tế bào nguyên thủy và là nền tảng
căn bản của đời sống xã hội. Tính dục có giá trị, mục đích,
nguyên tắc trong chính trật tự căn bản ấy. Chúng quan trọng đến
nỗi một con người khi ra khỏi quỹ đạo đó không thể còn là một
nhân vị thật sự. “Làm người là nhận trách nhiệm”
(Saint-Exupéry, 58). Nhận trách nhiệm về khía cạnh tính dục là
yếu tố quan trọng trong tiến trình trưởng thành của một con
người. Đó không phải là cái gì thuần túy sinh học mà đụng chạm
đến phần thâm sâu nhất của con người. Vấn đề tính dục vì vậy
ngấm ngầm tác động cách mạnh mẽ đến đời sống của một cá nhân hay
nổi cộm qua một cuộc vận động kế hoạch hóa dân số trong các nước
đang phát triển. Một đời sống dung hòa về mặt tính dục trong xã
hội phần nào đó có sự dung hòa ngay trong tương quan tính dục
của mỗi cá nhân. Tương giao tính dục trong hôn nhân Công giáo
xét về mặt nhân bản chắc chắn có những điểm nhấn giống nhau về
nét căn bản và khác trong nét cá biệt so với những cuộc hôn nhân
thông thường khác. Điểm nhấn đó vẫn là khởi điểm từ chiều kích
đời sống con người nhưng nhãn giới đã được mở rộng ra trong
chính Đức Kitô.
Khởi từ cái nhìn của Kinh Thánh, chúng ta tổng
hợp những giá trị và những hệ quả kèm theo trong cái nhìn Kitô
giáo về tương giao tính dục. Vấn đề tế nhị nhưng rất thực tế mời
gọi người Kitô hữu trở về chính cội nguồn của đức tin là Lời
Chúa, vì “Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng Lời Chúa, được
sinh ra từ Lời Chúa và sống bởi Lời Chúa” (VD 3).
1. Tính dục do Thiên Chúa muốn và như thế là
tốt đẹp
“Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ”
(St 1,27). Trong Cựu Ước, sự dị biệt phái tính gắn liền
với xác tín con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa; sự
dị biệt đó vừa thi hành mệnh lệnh sáng tạo của Thiên Chúa
(1,28), vừa thỏa mãn đời sống xã hội của con người (2,18). Tuy
nhiên, từ khi tội lỗi xâm nhập vào thế gian, con người không chỉ
tạo khoảng cách giữa mình với Thiên Chúa mà còn với người khác.
Chính khoảng cách đã làm cho tương quan tính dục trở nên rắc rối
(3,16). Tuy bản chất vẫn còn tốt lành nhưng sự chia rẽ và tội
lỗi đã làm cho tính dục bị bóp méo. Sự ước muốn chiếm đoạt đã
làm cho niềm vui trong sự dị biệt giới tính mang dáng dấp của sự
ích kỷ. Động lực tính dục có đặc điểm là hướng ngoại nay bị rối
loạn bởi một chuyển động hướng nội: thay vì qui hướng về người
khác, nó lại thu về mình.
Sự thần thiêng hóa tính dục của dân ngoại phần
nào đã ảnh hưởng đến các nghi thức trong sạch hay không trong
sạch của Israel (Lv 12,6). Điều đó cho thấy có sự hàm hồ
giữa thần thiêng hóa tính dục và việc tế tự trong tương quan với
Thiên Chúa. Sách Thánh đã chẳng bao giờ nghi ngờ sự tốt lành và
giá trị tương giao tính dục trong hôn nhân (Dc 4,1; Cn
5,18; Ed 24,15; Hc 26,16t…). Ngay cả khi Đức Giêsu
đến, Ngài đã không hạ giá nhưng cho nó giá trị mới mẻ, một ý
nghĩa cho sự tiết dục tự nguyện (Mt 19,12). Giá trị đó
mời gọi người tận hiến từ khước hoạt động tính dục, vượt qua
điều luật của Đấng Tạo Hóa để hiệp thông với người khác trong
Đức Giêsu Kitô. Thời Tân Ước đã làm cho tương giao tính dục giữa
vợ và chồng trở nên biểu tượng tình yêu nối kết giữa Đức Kitô và
Hội Thánh, giữa tín hữu với Thiên Chúa (x. Ep 5,21-33).
Luân lý tính dục đối với Đức Giêsu đi xa hơn
những khoản luật tỉ mỉ trong Cựu Ước khi tìm đến tận cái tội căn
nguyên từ trong lòng người muốn chiếm đoạt người khác dù chỉ
trong ước muốn (Mt 5,28; 15,19). Với thánh Phaolô, luân
lý tính dục trong tương quan của ơn cứu độ nó bị ràng buộc cách
chặt chẽ giữa thân xác với Chúa. Thân xác không còn là mảnh đất
để tính dục con người thao túng nhưng nó phải mang chiều kích
thánh thiện vì là đền thờ của Thánh Thần và là chi thể của Đức
Kitô (1Cr 6,9-19).
Một vài dữ kiện Kinh Thánh đó dẫn chúng ta tìm
hiểu bản chất và mục tiêu chính yếu trong tương giao tính dục
của hôn nhân Kitô giáo và rút ra những hệ luận từ đó. Nhưng
trước khi xét đến bản chất và mục tiêu đó, việc xét đến yếu tố
tính dục trong đời sống cá nhân phải là điểm xuất phát cho những
gì cần đề cập đến.
2. Tính dục là yếu tố thiết yếu xác định bản
chất và ơn gọi của con người
a. Nhãn giới Kitô giáo xác nhận thân xác và tính
dục là công trình của Đấng Tạo Hóa, nó là quà tặng lớn lao đặt
để trong thân xác con người khả năng sinh sản, cho con người
tham dự vào năng lực sáng tạo. Tính dục như một thứ tinh thần
nhập thể trong con người (x. FC 11).
Giới tính nam và nữ là một nền tảng căn bản và tự
nhiên cho những xung năng tính dục hướng đến việc lưu tồn
nòi giống. Một người là nam giới hay nữ giới bị chi phối bởi yếu
tố quyết định là giới tính của mình. Chính giới tính xác định
toàn bộ cơ cấu con người ngay từ trong bộ nhiễm sắc thể của mỗi
người. Yếu tố đó sẽ chi phối toàn bộ nhân cách, từ trong suy
nghĩ, ứng xử, ngôn ngữ và thể chất. Người ta có thể nhập vai là
nam hay là nữ trên sân khấu nhưng người ta sẽ không còn là chính
mình khi không đảm nhận giới tính của mình một cách
trưởng thành và trách nhiệm. "Tính dục là thành phần căn bản
của cá tính, nó là một cách thức hiện hữu, cách thức tự thể
hiện, giao tiếp với kẻ khác, cách thức cảm nghiệm, diễn tả và
sống tình yêu nhân bản" (NĐH s. 4).
Một người không sở hữu một giới tính nhưng
họ hiện hữu qua giới tính của mình, cấu trúc cơ bản của
hữu thể con người là nam hay là nữ. Điểm mạnh và
điểm yếu trong mỗi giới tính không bao giờ là yếu tố thống trị
hay phụ thuộc nhưng bổ túc cho nhau, giúp hoàn thành mục
đích mà Đấng Tạo Hóa đã phú bẩm trong chính năng lực sáng tạo
của nó, bởi vậy năng lực đó không phải để phung phá như một kho
tàng rơi vào tay kẻ cướp. Tính dục tự nó có bản chất hướng đến
tương quan liên vị hay hiệp thông nhân vị (communio
personarum), đó là yếu tố quan trọng để con người tìm thấy
sự thật của mình trong tương quan tình yêu với người khác. Dù
con người có ý thức hay không ý thức, tiếng sét ái tình hay sự
phải lòng bị câu thúc bởi động cơ tính dục (Scott Peck,
Con đường chẳng…, 104). Vì lẽ đó, tính dục đóng một vài
trò cốt yếu trong thời kỳ đính hôn, nó giúp đôi bạn mở rộng bản
ngã của mình ra cả về mặt tâm linh và thể lý. Chính trong điểm
nay cho thấy một cá nhân trưởng thành hay còn ấu trĩ
khi đáp lại hay chối từ ơn gọi căn bản và bẩm sinh của con người
trong tình yêu. Tính luân lý của tính dục bởi đó luôn dựa trên
một tiêu chuẩn đạo đức là mở ngỏ cho sự sáng tạo và đi
đến hiệp thông. Ra ngoài mục đích đã được phú bẩm cho giới
tính, con người không chỉ rơi vào tính vô luân nhưng còn đánh
mất chính điều đã được tiềm tàng trong giới tính là lời mời gọi
hướng đến sự hiệp thông yêu thương với nhau và với nguồn
mạch tình yêu là Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đó là những nét căn bản trong tương giao tính dục
giữa người nam và người nữ trong đời sống hôn nhân. Tính dục
chính là ngôn ngữ tình yêu giúp người nam và người nữ
thông đạt với nhau cách nhân bản, trực tiếp và sâu xa nhất. Ngôn
ngữ đó bứt con người ra khỏi khung cảnh cá nhân để phóng mình
vào một xã hội khởi đi từ gia đình mà hai người nam nữ chung tay
dựng xây. Nhờ sự hiệp nhất trong tình yêu, họ làm cho đời sống
của mình và xã hội thêm phong phú, sống động và hoàn thành được
mục đích sáng tạo và cứu độ mà Thiên Chúa muốn.
b. Như vậy, tính dục của con người là một điều
thiện hảo được tặng ban từ Đấng Tạo Hóa. "Tính dục phải được
tình yêu định hướng, giáo dục và bổ túc, vì chỉ có tình yêu mới
giúp cho tính dục mang tính nhân bản" (NĐH s. 6). Là
nam hay là nữ đều phải được tôn trọng theo như ý muốn của Đấng
Sáng Tạo. Phẩm giá người nữ một khi được kính trọng sẽ là
điều kiện không thể thiếu cho sự gặp gỡ nhau trong tình yêu chân
thật giữa hai phái tính, tạo bầu khí cho một gia đình hạnh phúc,
thánh thiện và một xã hội quân bình, ổn định về nhiều mặt. Người
nữ có một ơn gọi loại biệt là hướng đến việc làm mẹ (x.
MD 21) chứ không chỉ là đối tượng của tính dục cho chính
mình hay cho những kẻ khác. Khác với người nam tương giao tính
dục như một cái gì đến rồi đi, người nữ cảm nghiệm điều ấy như
một huyền nhiệm đi vào chính con người (x. Peschke,
38)của mình và làm cho họ khác đi cả về mặt thể chất và tinh
thần.
Cảm giác xấu hổ có được nơi người nam và
người nữ như phản ứng tự vệ của một lương tâm ngay thẳng, nó cho
thấy tính dục có những giới hạn luân lý đạo đức nếu vượt qua
không thể không gây những thương tổn về mặt thể xác và tinh
thần. Những chuyện hoa tình tục tĩu, các phương tiện truyền
thông chứa đựng nội dung khiêu dâm, nhìn ngắm hay sờ mó, ăn mặc
thiếu đoan trang…đều đi ngược lại nhân đức luân lý giúp con
người đáp lại những yêu cầu của cảm giác xấu hổ trong lãnh vực
tính dục.
Người chuyển đổi giới tính, ngoài việc đánh mất
khả năng sinh sản, bị ức chế về tâm sinh lý họ còn làm cho tính
dục đi chệch mục tiêu của nó.
Vấn đề quan hệ loạn dâm đồng giới của
những người cùng giới tính không chỉ là những hành vi thủ dâm
(masturbation), kê dâm (sodomy), khẩu
dâm (fellatio) của mỗi bên đối với nhau nhưng còn cho
thấy sự xúc phạm đến hôn nhân. Lý do nó làm hỏng mục tiêu
của tính dục như không thể giúp con người trao hiến cho nhau
cách trọn vẹn, tạo được một tổ ấm yêu thương, sinh sản con cái
và đạt được một sự thỏa mãn tính dục tương xứng.
3. Tương giao đưa đến trao hiến cho nhau cách
vĩnh viễn và trọn vẹn
a. Sự hiệp thông tình yêu là một ơn
gọi không của riêng ai. Thế nhưng ơn gọi đó lại thể hiện cách rõ
nét, đặc thù và sống động trong đời sống của đôi bạn. Sự hấp
dẫn khác phái đã là khởi đầu cho một sự hiệp thông phong
phú, thâm sâu, xác thịt và ngây ngất nhất mà hai người trao cho
nhau trong hành vi yêu thương của tính dục, qua đó họ tương
trợ và bổ sung cho nhau trong đời sống và tình yêu vợ
chồng.
Giá trị đó nằm ở khía cạnh là mỗi người biết mở
ra bản ngã của mình chứ không thu lại trong bản năng
của mình. Tương giao tính dục trong tương quan mở ra là đã đi
đúng hướng trong luân lý tính dục. Mở ra với và cho
người bạn phối ngẫu trong yêu thương và mở ra cho sự
sống là hai mục tiêu của sự kết hợp vợ chồng. Tương quan mới
mẻ đó được gọi là trao hiến, là dịch chuyển đưa cái
tôi đi vào trong cái chúng ta. Nó là yếu tố quan
trọng nhất để tạo nên một gia đình. Mỗi người tự hiến và tiếp
nhận nhau như tặng phẩm cách nhưng không trong tình yêu và trách
nhiệm. Tương quan đó có năng lực sáng tạo một cộng đoàn
yêu thương, một tổ ấm yêu thương, một gia đình đúng nghĩa. Đó
mới đích thực là tế bào và nền tảng của xã hội.
b. “Chỉ hai đứa mình thôi nhé!” luôn là
một ngụ ý sự kết hợp mật thiết trong tình yêu không san sẻ, độc
hữu của cuộc hôn nhân lý tưởng. Lý tưởng đó đã dần dà loại ra
chế độ hôn nhân đa thê hay đa phu để hôn nhân của
nhân loại tiến hơn trong tính nhân bản và sự bình đẳng
trong việc trao thân gửi phận của vợ chồng. Sự trao hiến hợp
nhân tính của vợ chồng quan trọng đến nỗi làm cho Bí tích Hôn
nhân thành nhận và hoàn hợp, tạo ra một mối dây
liên kết vĩnh viễn và độc hữu (BGL 1061; 1134). Khi đi ra
ngoài sự hiệp thông đó không còn là sự khiết tịnh cần có để bày
tỏ sự kính trọng đối với phẩm giá của người bạn đời. Người ta
chỉ được phép thỏa mãn tính dục khi tôn trọng phẩm giá con người
trong tư cách là một ngôi vị hướng đến sự hiệp thông; làm
ngược lại là hạ thấp con người xuống hàng thú vật.
Một tình yêu toàn diện và trưởng thành trong hôn
nhân không hạn chế những cử chỉ âu yếm và vuốt ve nhằm lôi cuốn
nhục cảm và tính dục. Khoái lạc đến từ âu yếm vuốt ve hay từ
tương giao tính dục chỉ đúng đắn và trưởng thành giữa hai người
khác phái khi nó nằm trong khung cảnh hôn nhân. Cử chỉ âu yếm và
vuốt ve trong giới hạn cho phép giữa hai người đang tuổi cập kê
để tìm hiểu nhau chỉ ở mức tình cảm chứ không được tới
mức kích động tính dục hay mang
bản chất tính dục.
Sự trao hiến cho nhau cách vĩnh viễn và trọn vẹn
của hôn nhân sẽ bị phá hủy tận gốc rễ khi ít nhất là một
trong hai người chăn gối với người thứ ba. Với cá nhân đó là tội
phạm đến đức khiết tịnh, với bạn đời họ lỗi đức công
bằng và đánh mất lòng chung thủy, với con cái đó là
một sự sỉ nhục. Hậu quả của ngoại tình làm cho sự hài hòa
trong yêu thương và điều kiện ổn định của gia đình bị rạn nứt và
có thể dẫn đến đổ bể. Với hôn nhân Kitô giáo, nó là sự xúc phạm
tới sự thánh hiến dây hôn phối của hai người đã được Rửa Tội.
Tính dục sẽ không còn là thứ ngôn ngữ mang ý
nghĩa và có giá trị nếu tách biệt nó khỏi tình yêu và tính toàn
bộ của đời sống vợ chồng. Món nợ vợ chồng không phải là thứ
quyền lợi bắt buộc phải trả khi một trong hai bên thiếu đi lòng
tự trọng, tình yêu và tinh thần trách nhiệm.
Bởi vậy, nghệ thuật nuôi dưỡng tình yêu phải là nghệ thuật sống
không chỉ trên giường giao hoan mà trải rộng con đường từ bàn
ăn đến bàn tính công việc chung với nhau. Kết hợp với nhau
trong sự kính trọng và tình yêu chân thành là
phương dược chữa lành những thương tổn của hai vợ chồng.
Như bất cứ một sự tăng trưởng nào khác, tình yêu
cũng cần có thời gian cho sự tôi luyện để trưởng thành và tạo
tính vững bền. Dù đôi bạn đã đính hôn với nhau, việc chăn
gối trong thời kỳ này vẫn chưa phải là một hành vi trao hiến mà
ẩn tàng tính vô trách nhiệm cho hôn nhân bởi gây ra sự căng
thẳng sâu xa trong nội tâm, sự bất tín nhiệm khiến cho mối tình
có thể đổ vỡ và nghi ngại sự chung thủy trong tương lai. Các
tương giao tính dục chỉ có giá trị hợp pháp trong khuôn khổ hôn
nhân hầu có những điều kiện tốt đẹp cho việc sinh sản và giáo
dục con cái. Nếu đứa con chẳng là kết quả của một tình yêu chân
thực và không thể là cơ hội để làm cho tình yêu nảy nở, hãy để
đứa con đó sống trong một mái nhà thiếu cha hoặc mẹ còn hơn
trong một gia đình không có tình yêu chân thật.
4. Tính dục là nguồn mạch của hoan lạc và vui
thú (SGL 2362)
a. Trước khi mục đích lưu truyền sự sống trong
hôn nhân được thực hiện, tương giao tính dục là nguồn hoan lạc
của đôi phối ngẫu. Nó như phương dược làm dịu bớt dục vọng (remedium
concupiscentiae), ngăn cản tính dục đi lệch đường. Nguồn
hoan lạc đó làm cho hai người lệ thuộc nhau đến nỗi khiến họ
không còn là một hữu thể trọn vẹn nếu thiếu vắng người kia.
Nguồn hoan lạc đó nằm trong bản năng tính dục thúc đẩy con người
cũng như mọi sinh vật tìm đến nhau với mục đích duy trì nòi
giống như việc duy trì sự sống khi ăn uống. Đó là công trình
khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa khi cho khoái lạc đi kèm trong bản
năng với mục đích lưu truyền sự sống. Tuy nhiên, khoái lạc không
bao giờ là điểm dừng trong tương giao tính dục, bởi nếu chỉ lấy
khoái lạc làm mục đích như thế con người đã không cho phép mình
vượt lên trên thân phận con người. Hoan lạc đời này phải là sự
nếm trước nguồn hoan lạc vĩnh cửu.
b. Hoan lạc xác thịt sẽ không là niềm vui cao
khiết và đem lại năng lực sáng tạo nếu không nằm trong hôn nhân
và không được thực hiện trong tình yêu và trách nhiệm. Chỉ trong
hôn nhân, sự tưởng tượng tính dục mới là phần đầy đủ
trong tình yêu vợ chồng. Nó làm cho ngôn ngữ tình yêu của họ
thêm phong phú và tăng nồng độ sự thích thú. Tự tìm thỏa mãn
tính dục chỉ như một cách giải tỏa căng thẳng, nằm ngoài tương
giao tính dục tự nhiên của vợ chồng, thời tiền hôn nhân
hay ngoài hôn nhân đều đi chệch mục tiêu cơ bản của sinh
hoạt tính dục. Nguồn hoan lạc và vui thú nhằm nuôi dưỡng tình
yêu chân chính giữa vợ chồng, phục vụ cho sự sống, mang lại bầu
khí đầm ấm cho đời sống gia đình và giúp ổn định xã hội. Có thể
nói tương giao tính dục mang yếu tố độc hữu hầu mang đến ý nghĩa
đúng đắn và tình yêu chân chính chỉ cho và trong đời hôn nhân.
Cũng phải nói thêm, khoái cảm và tình yêu là hai
điều hoàn toàn khác nhau; nó có thể trùng khớp giữa tình
yêu vợ chồng nhưng lại đánh lừa đôi trai gái đang tìm
hiểu nhau và hạ giá những kẻ mua bán dâm. Tìm kiếm khoái lạc
ngoài phương pháp tự nhiên trong đời sống vợ chồng, thời
tiền hôn nhân và ngoài hôn nhân luôn ẩn tàng sự sút kém về sự
tự tin, tính kiên nhẫn và lòng trung thực.
Những đức tính này là điều kiện cần thiết cho một tình yêu cao
khiết, kiên vững và là bằng chứng của lòng trung thành. Kiểu
sống chung không ràng buộc trong hôn nhân vừa nghịch luân thường
đạo lý vừa thể hiện sự sút kém về mặt tâm thần. Con người không
phải là một thiên thần sống trên tầng mây lý tưởng cũng chẳng
phải là thứ máy móc đem ra sử dụng; nó cần cơ chế hôn nhân
do xã hội bảo lãnh để sống tròn đầy tình yêu của mình như một
con người.
Nó là tội ác khi một người chiếm đoạt khoái lạc
cách bất hợp pháp qua sự cưỡng dâm dựa trên sức mạnh thể
lý, luân lý hay quyền hành địa vị đối với phụ nữ hay trẻ em,
trong gia đình (loạn dâm) hay ngoài gia đình (hiếp
dâm). Tìm cách giải tỏa xung năng tính dục bằng cách giao
hợp với thú vật (thú dâm), tìm kích dục qua việc hành hạ
người khác (bạo dâm), tìm kích dục khi chịu đựng sự hành
hạ của người khác (khổ dâm), tìm kích dục qua những vật
dụng (vật dâm), lôi cuốn người khác vào thực hành tính
dục (khiêu dâm)…đều cho thấy sự suy đồi hay rối loạn
nghiêm trọng về mặt tâm lý nơi đương sự.
Chỉ có tình yêu chân thực của vợ chồng và đời
sống trinh khiết vì Nước Thiên Chúa mới có sức chữa lành bản
năng tính dục. Sự trinh khiết còn có nghĩa là biết điều chỉnh
những khoái cảm qua sự hướng dẫn của lý trí nhằm những ích lợi
cao đẹp hơn. Sự trinh khiết Kitô giáo vì vậy không chỉ là không
có tương giao tính dục, hay sự loại bỏ dục vọng nhưng thăng hoa
năng lực của nó trong những việc làm bác ái cao thượng hay trong
một tình yêu chân thực đưa con người vào sự hiệp thông với nhau
và với Thiên Chúa. Chỉ nhằm thỏa mãn tính dục của thân xác như
mục đích của riêng mình là lỗi phạm đức khiết tịnh. Hoan lạc và
vui thú không phải là nguồn vui duy nhất của con người: “Hạnh
phúc tinh thần không biết bao lần hơn hẳn khoái lạc vật chất”
(N. V. Hưởng – H. U. Liên, 119).
5. Sinh sản con cái là mục tiêu của tính dục
a. Sự sinh sản là một chiều kích căn bản của
tương giao tính dục. Con cái
vẫn
là mục tiêu không thể tách rời trong việc kết hợp vợ chồng vì nó
nằm trong ý định của Đấng Tạo Hóa. Khả năng sáng tạo được chứa
đựng trong chính khả năng tính dục. Mục tiêu bẩm sinh và tối hậu
của khả năng tính dục trong sự trao hiến tình yêu của vợ chồng
hướng đến sự sinh sản là một hồng ân. Sống và trao ban sự
sống là ân huệ, nhân đức và bổn phận của con người trong
việc kéo dài sự sống của nhân loại. Con cái xuất hiện ngay nơi
trung tâm của việc vợ chồng hiến thân trong tình yêu hỗ tương,
hữu thể mới mẻ đó xuất hiện như hoa trái của niềm vui và việc
trao hiến đó. Tình yêu sáng tạo được mở ngỏ cho sự sống như phần
thưởng cao quý nhất của hôn nhân và trong tình yêu vợ chồng có
trách nhiệm (x. MV 48; 50).
b. Tính dục và hôn nhân phục vụ cho việc truyền
sinh. Kết hợp tính dục và sinh sản là hai việc không luôn đi
song song với nhau. Tuy nhiên sự quân bình, ý nghĩa và sự toàn
vẹn của tính dục con người sẽ bị phá vỡ khi người ta tìm cách
tách rời một trong hai mục tiêu của việc giao hợp.
Sinh sản và giáo dục con cái trong tinh thần Phúc
Âm là hai việc không thể tách rời trong một tương giao tính dục
đầy tình yêu và trách nhiệm của hôn nhân Kitô giáo. Tính trách
nhiệm đó đòi hỏi cha mẹ phải cứu xét tới hạnh phúc của mình cũng
như của con cái để giới hạn số con cái trong gia đình (MV
50).
Tùy vào mỗi lứa tuổi (ấu nhi, dậy thì, thiếu
niên, thanh niên) và mỗi cá nhân, giáo dục con cái hiểu được
giá trị của tính dục, tình yêu và đức khiết tịnh là một bổn phận
và quyền lợi quan trọng không ai có thể thay thế cha mẹ (FC
37). Cha mẹ phải gần gũi con cái của mình để sửa chữa xu hướng
sử dụng tính dục theo chiều hưởng thụ và vật chất. Bổn phận sinh
sản và giáo dục con cái có trách nhiệm đòi hỏi sự bất khả
phân ly và loại trừ chế độ đa phu hay đa thê.
Sự từ chối đón nhận con cái qua các hình thức như
phá thai, triệt sản vĩnh viễn, sử dụng thuốc
triệt sản…đều xúc phạm đến tính thánh thiêng của sự sống mà
chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền. Tìm kiếm có con bằng mọi
cách cũng thể hiện sự ích kỷ của cha mẹ và hạ giá đứa con mình
có vì xem nó như vật sở hữu chứ không phải là hoa trái
tình yêu và quà tặng nhưng không của Thiên Chúa. Đứa con sẽ
đau khổ khi nhận ra mình chỉ là một thứ sản phẩm (J.
Noriega, 256) chứ không phải là một quà tặng của tình yêu.
Hôn nhân của cặp vợ chồng hiếm muộn không phải vì thế mà kém
phong phú khi họ mở rộng tình yêu qua việc đón nhận con nuôi hay
tham gia việc từ thiện bác ái. Họ có thể nhận ra lòng nhân hậu
của Thiên Chúa khi nhận chúng ta làm dưỡng tử trong Đức
Giêsu Kitô (x. Ep 1,3-10).
6. Nếm trước niềm hoan lạc mai sau nơi tiệc
cưới Nước Trời
a. Chính trong sự tự do hoàn hảo thấm đậm ân sủng
do Bí tích Hôn nhân đem lại, tương giao tính dục của vợ chồng
được đưa từ cõi chết bước vào cõi sống, được nếm trước niềm hoan
lạc họ sẽ được tận hưởng đời sau (SLR, 308). Thần học
thân xác của Đức Gioan Phaolô II xoay quanh những hạn từ
“ngôn ngữ thân xác” (56 lần) và “sự cứu chuộc thân xác”
(96 lần) nhằm minh chứng điều đó khi cho thấy tính bí tích của
hôn nhân. Hôn nhân Kitô giáo đưa con người đi vào sự hiệp thông
đã bị phá vỡ bởi tội lỗi và hứa hẹn một sự hiệp thông trọn vẹn
trong tương lai. Vượt lên trên chiều kích nhân linh, hôn nhân
Kitô giáo sống chiều kích thần linh ngay trong tình yêu của họ.
Chiều kích sáng tạo trong tương giao tính dục của vợ chồng chỉ
được hoàn thành trong chiều kích cứu độ. Nói cách khác, tình
yêu, niềm vui và sự sáng tạo trong tương quan của vợ chồng chỉ
là sự tham dự trước vào tình yêu và hạnh phúc vĩnh cửu như hoa
trái của ơn cứu độ mà Đức Giêsu đã hứa. Vì vậy hôn nhân Kitô
giáo không chỉ là hoa trái của ơn cứu độ nhưng còn hướng đến ơn
cứu độ. Tất cả nhưng cam kết sống đời hôn nhân của đôi bạn được
đóng ấn bởi Giao Ước Mới mà Đức Kitô đã ký kết với Hội Thánh của
người. Tính huyền nhiệm của tương giao tính dục do đó không chỉ
nằm trên bình bình diện nhân bản nhưng đã hướng đến bình diện
siêu nhiên vì nó được thực hành trong chính giao ước cứu rỗi đã
thánh hiến dây hôn phối của họ trong Đức Kitô. Hôn nhân Kitô
giáo bởi đó đã đưa tình yêu vợ chồng đi vào quỹ đạo của sự thánh
thiện và thánh hóa. Tình yêu được trao ban giữa vợ chồng và con
cái trở nên dấu chỉ của tình yêu nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Chỉ
trong Đức Kitô, vợ chồng thực sự trở nên tặng phẩm trao hiến cho
nhau trong yêu thương, và không sợ dục vọng bóp nghẹt sự hiệp
thông yêu thương đó. Sự hiệp thông ngôi vị chỉ được thiết
lập cách trọn vẹn nhờ sự hiệp thông với Ngôi Vị của Con Thiên
Chúa. Hạnh phúc vợ chồng nếm hưởng trong tương giao tính dục của
họ vừa như lời ca tụng công trình của Thiên Chúa, biểu lộ vinh
quan sáng tạo của Ngài vừa đồng thời tiên báo nguồn hạnh phục
vĩnh cửu mà họ sẽ được tham dự mai sau. Tình yêu mà họ trao tặng
cho nhau là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa là tình yêu và
phần nào đó diễn tả mầu nhiệm tình yêu giữa Đức Kitô và Hội
Thánh; họ đang biết làm vinh danh Chúa nơi thân xác mình (x.
1Cr 6, 20).
b. Sự thánh thiện của hôn nhân Kitô giáo loại bỏ
tất cả những gì không phù hợp với ý nghĩa và mục tiêu mà một
cuộc hôn nhân tự nhiên cần phải có. Nó không chấp nhận kiểu nói
tự do sống chung, ăn ở với nhau không cưới xin,
từ chối kết hôn theo đúng tính chất của hôn nhân, hôn
nhân theo điều kiện. “Tương giao tính dục chỉ được chấp
nhận trong hôn nhân; ngoài hôn nhân, hành vi này luôn luôn là
một tội trọng và người vi phạm bị loại ra khỏi sự hiệp thông bí
tích” (SGL 2390). Ơn cứu độ mà con người được nếm
hưởng trong tương lai khởi sự ngày từ thân xác này: “Thân xác
được cứu chuộc hàm chứa một thước đo mới cho sự thánh thiện thân
xác được thiết lập trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô” (Gioan
Phaolô II, Ngài Đã Dựng Nên Họ…, 342).
Kết luận:
“Tình yêu giữa người nam và người nữ không
xuất phát từ suy tư và ý chí nhưng
thống
trị con người trọn vẹn” (DCE
3). Chưa bao giờ tính dục là điều hiển nhiên cho con người. Nơi
tính dục có manh nha cả sự chết và sự sống, sự hư mất và ơn cứu
chuộc. “Trong thực tế, sự chết là một hệ quả của tính dục
chúng ta” (Scott Peck, Bước Tiếp…, 71). Con người cảm
thấy niềm vui và hoan lạc trong tương giao tính dục của mình
nhưng kỳ thực chu kỳ sống của họ đang khép lại để mở ra một chu
kỳ sống. Tính dục nằm ngay ở điểm hẹn giữa sự sống và cái chết.
Chỉ trong hôn nhân Kitô giáo, điểm hẹn đó có một ý nghĩa đặc
biệt.Sợi dây liên kết thánh thiện trong hôn nhân Kitô giáo không
lệ thuộc sở thích riêng của con người vì chính ích lợi của lứa
đôi, của con cái, của xã hội và hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi thành
viên (x. MV 48). Chẳng ai là chủ nhân ông tuyệt đối trong
giới tính của mình. Khi tương giao tính dục được thực hiện, nó
là một hành vi có tính cộng đồng dù chưa đi vào hay nằm ngoài
định chế pháp luật của Nhà nước về hôn nhân. Có lẽ khác với mọi
tạo thành khác, tính dục vừa là công trình của sáng tạo vừa có
khả năng sáng tạo. Chính tại điểm này mà đời sống hôn nhân ngay
từ nguyên thủy mang dáng dấp của điều gì đó thiêng liêng và thần
linh. Mọi thọ tạo hướng đến ơn cứu độ đã được hoàn thành trong
cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, vì vậy, khả năng sáng tạo của tính
dục sẽ làm cho con người được thăng hoa khi kết hợp với Nguồn Ơn
Cứu Độ. Tính dục sẽ trở nên gánh nặng kéo trì con người xuống
chỉ trong bản năng khi nó kéo con người ra khỏi mục đích sáng
tạo và cứu độ. Tính dục chỉ hợp lý hợp tình khi nó nằm trong kế
hoạch yêu thương khi sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. “Niềm
tin Kitô giáo luôn nhìn con người như là một hữu thể gồm cả hồn
lẫn xác, nơi họ, tinh thần và vật chất nối kết chặt chế với nhau
và cả hai cảm nghiệm được sự cao quý mới. Thật vậy, tính dục
(eros) muốn đưa chúng ta đến bầu khí thần linh, vượt lên khỏi
chúng ta, vì thế nó đòi buộc một con đường vươn lên, từ bỏ,
thanh luyện và chữa trị” (DCE 5). Sự khác biệt của
việc sử dụng tính dục vẫn luôn bị giằng co giữa loại tình yêu vị
kỷ (eros) và vị tha (agape), nó sẽ đưa con người
đi vào sự nghèo nàn, xáo trộn và sự hư mất hay mở ra cho hiệp
thông, yêu thương và sự sống. Ơn cứu rỗi chính là mục đích của
luân lý tính dục trong cái nhìn của Giáo hội Công giáo.
Lm. Giuse Đinh Quang Vinh
Sách tham khảo:
Agostino Nguyễn Văn Dụ, Để có được một cái
nhìn Kitô giáo về tính dục, Ban Mục Vụ Gia Đình, Tổng giáo
phận TP. HCM 2010.
Bênêđitô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est
(DCE) – Thiên Chúa là Tình Yêu, Ủy ban Giáo lý Đức tin -
HĐGM VN, 2006.
Bênêđitô XVI, Tông huấn Verbum Domini (VD) –
Về Lời Thiên Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội
(Bản dịch của Ủy Ban Kinh Thánh – HĐGM VN), NXB Tôn Giáo, 2011.
Bộ Giáo Dục Công Giáo, Những định hướng cho
việc giáo dục về tình yêu nhân bản (NĐH) ban hành
ngày 1.11.1983.
Gioan Phaolô II (L.m. Augustinô Nguyễn Văn Dụ
chuyển ngữ), Tông huấn Familiaris Consortio (FC) – Về
những bổn phận của gia đình Kitô hữu, Rôma 2011.
Gioan Phaolô II (L.m. Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển
ngữ), Ngài Đã Dựng Nên Họ là Nam là Nữ - Giáo lý về
Tình yêu hay Thần Học Thân Xác, NXB Tôn Giáo, TP HCM 2011.
Gioan Phaolô II, Tông thư Mulieris Dignitatem
(MD) – Phẩm giá người phụ nữ, 15.8.1988.
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam – Uỷ Ban Giáo Lý Đức
Tin, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo (SGL), NXB Tôn
Giáo, Hà Nội 2011.
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Bộ Giáo Luật
(BGL), NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2006.
Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình, Sự thật và
ý nghĩa của tính dục con người. Những định hướng để
giúp giáo dục trong gia đình (L.m. Augustinô Nguyễn Văn
Trinh chuyển ngữ), ban hành ngày 8.12.1996.
José Noriega, Il destino dell'eros -
Prospettive di morale sessuale (Vận mệnh của ái tình – Những
viễn tượng của luân lý tính dục), Grafiche Dehoniane,
Bologna 2007, 256.
Karl H. Peschke, Thần học luân lý chuyên biệt,
tập 3.
M. Scott Peck (Lê Công Đức chuyển ngữ),
Con đường chẳng mấy ai đi.
M. Scott Peck, M.D. (Lê Công Đức chuyển ngữ),
Bước tiếp trên con đường chẳng mấy ai đi.
Nguyễn Văn Hưởng – Huỳnh Uyển Liên, Dưỡng Sinh,
Tổng Hợp Đồng Tháp, Long An 1997.
Sách Lễ Rôma (SLR),
Ủy Ban Phụng Tự - HĐGMVN 1992.
Saint-Exupéry, Cõi người ta – Terre des Homme,
Bùi Giáng dịch, Văn Nghệ, TP HCM 2005.
Thánh Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến
chế Gaudium et Spes - Mục Vụ (MV), Phân khoa Thần học,
Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X, Đà Lạt, Việt Nam 1972
Xavier Léon-Dufour, S.J., Điền ngữ Thần học
Kinh Thánh, quyển IV, mục “Tính dục”, Giáo Hoàng Học
Viện Piô X, Đà Lạt, Việt Nam 1974, 241-249. |