Đó là lời tuyên bố mạnh mẽ của Đức
Tổng Giám Mục Dolan nhằm phản đối quyết định hợp pháp hôn nhân
đồng tính của Tiểu Bang New York.
Trước nửa đêm ngày 24 tháng 6 năm
2011, thống đốc New York, Andrew Cuomo, một người Công Giáo
thuộc đảng Dân Chủ đã chính thức ký thành luật, hợp pháp hóa hôn
nhân đồng tính cho tiểu bang của ông. Với quyết định này, New
York là tiểu bang thứ ba sau New Hampshire và Vermont thuộc Liên
Bang Hoa Kỳ cho phép hôn nhân đồng tính. Ba tiểu bang khác qua
phán quyết của tối cao pháp viện tiểu bang cũng thừa nhận hôn
nhân đồng tính, đó là Massachusetts, Iowa, và Connecticut.
Để ăn mừng chiến thắng này, Chúa
Nhật 26 tháng 6 năm 2011, hàng chục ngàn người đổ xuống các
đường phố New York tham dự buổi diễn hành chào mừng đạo luật.
Theo thông tấn xã Reuters, sẽ có chừng 21.000 các cặp đồng tính
thành hôn vào 3 năm tới. Ngòai ra, cũng có khoảng 42.000 cặp
đồng tính từ các tiểu bang khác sẽ đến New York để thành hôn.
Cùng với Đức Tổng Giám Mục Dolan,
các Giám Mục thuộc các Giáo Phận ở New York cũng đã ra thông cáo
chung phản đối luật hôn nhân đồng tính này. Trong số thành phần
giáo dân, bà Laura Fotusky, thư ký tòa án quận hạt Barker thuộc
phía Tây New York cũng đã chính thức từ chức để phản đối đạo
luật này. Theo bà, bà không muốn chữ ký của bà trên tờ hôn thú
của các cặp đồng tính. Bà phát biểu: “Nếu tôi tham gia vào tiến
trình cấp giấy phép, tôi phải dung hòa nguyên tắc luân lý của
tôi.”
Nhìn vào những đòi hỏi của nhóm
người đồng tính, lý do mà họ viện dẫn là xử dụng quyền công dân.
Họ phải được đối xử công bằng trong hôn nhân, và tự do kết hôn.
Theo họ, con số 50% các cuộc ly dị của những gia đình không đồng
tính là một bằng chứng cho thấy hôn nhân của những người không
đồng tính cũng chẳng có gì bảo đảm xét về khía cạnh tâm lý và
đạo đức. Biết bao nhiêu người chồng, người cha, người mẹ, người
vợ ngày đêm đâm vào nghiện ngập, bài bạc. Một số khác tỏ ra vô
trách nhiệm và thiếu ý thức vai trò làm chồng, làm vợ, làm cha,
làm mẹ của họ. Họ phá thai. Họ tạo nên những lý do để con cái bỏ
nhà đi hoang, rơi vào những cạm bẫy của xã hội.
Tuy nhiên, những người đồng tính
đã quên rằng trong hôn nhân còn có trách nhiệm làm cha, làm mẹ.
Trách nhiệm duy trì và sinh sản con cái nữa. Những bổn phận và
trách nhiệm ấy ảnh hưởng rất mạnh mẽ trên việc giáo dục con cái.
Ngoài ra, cần phải đề cập đến định nghĩa, yếu tính và mục đích
của hôn nhân, những vấn đề đang gây nhức nhối, tranh cãi giữa
các thành phần ủng hộ và chống đối hôn nhân đồng tính.
Sơ lược về thế giới đồng tính:
Người đồng tính thực sự là người
khi sinh ra đã mang sẵn những yếu tố để trở thành đồng tính.
Chọn lựa giới tính và xu hướng đồng tính khiến họ luôn luôn suy
nghĩ, hành động, nói năng hướng về người cùng phái tính. Luôn
luôn muốn chiếm đoạt con tim cũng như dành con tim mình cho
những người đồng phái. Thống kê cho biết có khoảng 2-13% trong
thế giới Tây Phương có khuynh hướng đồng tính. Cách biệt từ
2-13% có thể lẫn lộn giữa đồng tính với lưỡng tính. Đồng tính do
ảnh hưởng trong thời kỳ phát triển, ảnh hưởng bạn bè, ảnh hưởng
môi trường xã hội, dồn nén và bức xúc về tâm lý, hoặc do những
khó khăn của đời sống tình cảm, sinh lý, vợ chồng…
Để có một cái nhìn sơ qua về thế
giới đồng tính, nên biết rằng thế giới đồng tính là một thế giới
hết sức phức tạp. Thế giới ấy bao gồm trong 4 chữ đầu LGBT. L là
chữ đầu của Lesbian tức những người đồng tính nữ. G tức Gay là
những người đồng tính nam. B là Bisexual có nghĩa là những người
vừa đồng tính, vừa không đồng tính. Và sau cùng là T tức
transgender là những người đổi giống từ đàn ông sang đàn bà hoặc
từ đàn bà sang đàn ông. Từ “đồng tính” - Gay - chỉ là một từ
thông thường gọi chung thành phần đồng tính. Còn lại, như vừa
trình bày thế giới này gồm cả 4 loại người như vừa nêu trên.
Trước khi nói về hôn nhân đồng
tính, chúng ta cũng nên biết rằng theo truyền thống chung dựa
trên các nền văn hóa thì quan niệm đồng tính và sinh hoạt đồng
tính luôn được coi là quan niệm và sinh hoạt bất bình thường,
bệnh hoạn. Tâm lý và tâm thần học cũng xếp xu hướng và hành động
đồng tính vào danh sách bệnh lý. Không những thế, xét về mặt
luân lý và đạo đức khuynh hướng và hành động này còn được coi
như một trọng tội.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của nền
văn minh hiện đại, và do những tư duy đổi mới, phóng khoáng hiện
nay, theo sau quyết định của Hiệp Hội Các Nhà Tâm Thần Học vào
năm 1973, năm 1975 Hiệp Hội Các Nhà Tâm Lý Học Hoa Kỳ cũng đã
loại khỏi danh sách tâm bệnh những suy nghĩ và hành động đồng
tính. Tóm lại từ sau năm 1975 cả tâm thần học và tâm lý học
không còn xếp quan niệm và hành động đồng tính trong danh sách
những hội chứng tâm bệnh hay tâm lý nữa. Sau cùng năm 1990, Cơ
Quan Y Tế Thế Giới cũng công nhận rằng đồng tính không phải là
“bệnh”. Và gần đây nhất năm 2001, Hiệp Hội Các Nhà Tâm Thần Học
Trung Hoa cũng đã loại bỏ đồng tính khỏi danh sách tâm bệnh.
Hôn nhân đồng tính:
Theo sau sự mở cửa của khoa tâm
thần và tâm lý, các người đồng tính như vùng lên, đặc biệt,
trong những thập niên gần đây để tiến xa hơn về việc đòi quyền
được kết hôn. Một số quốc gia trên thế giới đã hợp pháp hóa hôn
nhân đồng tính, gồm Hòa Lan (Netherland), Na Uy (Norway), Bỉ
(Belgium), Tây Ban Nha (Spain), Nam Phi Châu (South Africa),
Thụy Điển (Swenden), Bồ Đào Nha (Portugal), Băng Đảo (Iceland),
Á Căn Đình (Argentina), và Canada. Riêng tại Hoa Kỳ, tuy là một
quốc gia dẫn đầu văn minh thế giới nhưng mới chỉ có 6 tiểu bang
bằng cách này hay cách khác cho phép hôn nhân đồng tính, và gần
đây nhất là bang New York. Vấn đề được đặt ra không chỉ riêng
với người Công Giáo, mà cho cả mọi người là nếu chấp nhận hôn
nhân đồng tính, thì việc đầu tiên phải làm là định nghĩa lại gia
đình là gì? Hôn nhân là gì? Vai trò làm chồng, làm vợ là gì? Vai
trò làm cha, làm mẹ là gì? Thế nào là sinh con cái nối dõi dòng
giống?
Ngoài ra, với 4 thành phần của thế
giới đồng tính, dĩ nhiên họ cũng sẽ bước vào hôn nhân với những
suy nghĩ và hình thức khác nhau. Thí dụ, hôn nhân giữa hai người
đàn bà, hôn nhân giữa hai người đàn ông, hôn nhân giữa hai người
đàn ông đổi giống, hôn nhân giữa hai người đàn bà đổi giống, và
hôn nhân giữa hai người vừa đồng tính, vừa không đồng tính. Điều
này nếu xảy ra sẽ tạo nên rất nhiều những khó khăn, phức tạp cho
đời sống hôn nhân vốn đã và đang gặp nhiều thử thách. Và người
ta sẽ rất khó tìm được một định nghĩa hôn nhân đúng nghĩa.
Ít nhất trong một trường hợp,
người viết đã phải đối diện với những khó khăn trên khi giúp đỡ
một gia đình đồng tính có con bị hội chứng về tâm lý và thể lý
chậm phát triển. Như đã được học hỏi từ trước, người viết đã
phải dùng từ phụ huynh (parent) thay cho từ cha (father) hay mẹ
(mother) để phỏng vấn và ghi vào hồ sơ vì không biết trong hai
người phụ nữ ấy ai là cha và ai là mẹ của đứa trẻ. Và trong một
trường hợp khác, người mẹ của đứa trẻ đã nhận cấy tinh trùng từ
một nguồn khác, không rõ cha ruột đứa trẻ là ai. Trong trường
hợp này cũng phải ghi hai người phụ nữ trong gia đình này là phụ
huynh (parents) thay cho từ cha (father), mẹ (mother), dưỡng phụ
(step father), hoặc kế mẫu (step mother) vì trong thực tế hai
phụ nữ này xác nhận đã kết hôn, và là cha mẹ của đứa bé trên
pháp lý.
Tóm lại, cả một đống những thắc
mắc và phức tạp từ lãnh vực ngữ học, xã hội, luật pháp, giáo
dục, văn hóa, tâm lý, và luân lý sẽ phải đặt lại, và phải nhiều
năm tranh luận nữa mới mong đi đến một vài đồng thuận và ý nghĩa
cho chỉ nguyên cụm từ “hôn nhân đồng tính”. Cho đến bây giờ, đề
tài này vẫn là một đề tài nhậy cảm, và rất phức tạp, do đó, bài
viết này chỉ đề cập đến vấn đề hôn nhân đồng tính bằng cái nhìn
tâm linh. Tuy có tính cách luân lý và đạo đức, nhưng nếu bỏ đi
khía cạnh đạo đức thì chẳng còn gì để nói đến vấn đề này. Vậy,
hôn nhân đồng tính như thế nào đối với niềm tin Kitô Giáo?
Hôn nhân đầu tiên của nhân loại:
Thánh Kinh đã ghi lại, ngay từ
thuở xa xưa khi mới tạo dựng đất trời, Thiên Chúa đã dựng nên
con người có nam và có nữ. Ngài đã tác thành cho họ để trở nên
vợ chồng, và xây dựng một khung hình sinh hoạt mang tính cộng
đồng đầu tiên của nhân loại.
Cấu trúc của gia đình, theo đó, là
sự kết hợp chặt chẽ và vững bền giữa một người nam và một người
nữ. Sự kết hợp này phản ảnh xã hội tính, giới tính, nhu cầu tâm
sinh lý, và nhu cầu bảo tồn nòi giống. Từ mô hình này, vai trò
làm chồng, vai trò làm vợ, vai trò làm cha, vai trò làm mẹ, vai
trò làm con, làm anh, chị, em… được thành hình và truyền thụ cho
đến ngày nay. Nó cũng là bước khởi đầu cho một mô hình xã hội
phát xuất từ hôn nhân giữa người nam và người nữ.
Ý niệm về hôn nhân và gia đình đã
vươn rộng đưa đến mô hình đại gia đình, bao gồm nhiều thế hệ của
một dòng tộc. Ảnh hưởng này đã đâm rễ sâu trong sinh hoạt xã hội
theo văn hóa Á Đông mà điển hình là Việt Nam. Tuy ngày nay quan
niệm và ảnh hưởng đại gia đình đang được thay thế bằng quan niệm
và ảnh hưởng tiểu gia đình dựa theo đà phát triển kinh tế, xã
hội, công ăn việc làm…đặc biệt tại các xã hội Tây Phương. Nhưng
ảnh hưởng của nó vẫn còn là một ý niệm và nề nếp sinh hoạt nền
tảng của xã hội.
Qua ánh sáng Lời Chúa thì hôn nhân
không chỉ là một thỏa hiệp, một khế ước được xã hội công nhận,
nó còn mang ý nghĩa một Bí Tích, một ơn gọi. Chính Thiên Chúa đã
kết hợp Adong với Evà. Tình yêu nối kết giữa hai người khắng
khít đến độ, cũng theo Thánh Kinh, “vì thế, người nam sẽ từ bỏ
cha mẹ mình và luyến ái với vợ mình. Và cả hai trở nên một”
(Sáng Thế 2:23-24). Từ ngữ người nam, người nữ, cha, mẹ là những
từ ngữ đã làm nên ý nghĩa và định nghĩa của hôn nhân ngay từ
nguyên thủy.
Quan điểm đầu tiên nhắm vào những
lý luận và cuộc sống đồng tính và hôn nhân đồng tính cho rằng,
đồng tính và hôn nhân đồng tính phải được thừa nhận và phải được
coi như ngang hàng với hôn nhân căn bản giữa người nam và người
nữ. Nhưng dù có những lý luận và giải thích cách này hay cách
khác của con người, Thánh Kinh đã khẳng định rất rõ ràng: “Từ
đầu Thiên Chúa đã dựng nên họ. Ngài dựng nên họ có nam, có nữ. “
(Máccô 10:6)
Không những Thánh Kinh nói về nền
tảng hôn nhân một vợ, một chồng giữa người nam và người nữ, nó
còn cho ta biết về một mục đích khác nữa của hôn nhân là để sinh
sản con cái. Thiên Chúa đã nói với Adong và Evà: “Hãy sinh sản
ra nhiều trên mặt đất” (Sáng Thế 1:28). Điều này cũng được nhìn
thấy trong thế giới động vật quanh ta.
Hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ:
Hôn nhân dưới ánh sáng Lời Chúa là
sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Hình thức hôn
nhân này không chỉ được nhìn thấy qua các nền văn hóa của nhân
loại, dù dưới chế độ phụ hệ hay mẫu hệ, hoặc ngay cả trong chế
độ đa thê trước đây. Do đó:
Hôn nhân đồng tính không trả lời
được đòi hỏi của Thiên Chúa về sự kết hợp giữa một người nam và
một người nữ.
Hôn nhân đồng tính không giải
thích được lý do tại sao từ ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên con
người có nam, có nữ và Ngài đã phối hợp, nối kết họ để cả hai
nên một xương thịt với nhau.
Hôn nhân đồng tính cũng không trả
lời được mệnh lệnh Thiên Chúa khi Ngài truyền dậy những người
bước vào đời sống hôn nhân: “Hãy sinh sản ra nhiều mặt đất”
(Sáng Thế 1:28).
Tóm lại, mặc dù tôn trọng những
quyết định lựa chọn của người đồng tính, dù được pháp luật ủng
hộ hay cho phép, nhưng trong niềm tin và dưới ánh sáng lời Chúa,
ta không thể làm gì khác hơn là trở về với sự kết hợp mà từ ban
đầu Thiên Chúa đã làm đối với Adong và Evà, đó là hôn nhân giữa
một người nam và một người nữ. “Chúng
tôi mạnh mẽ khẳng định rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một
người nam và một người nữ…” (ĐTGM
Timothy Dolan, New York).