Câu chuyện bắt đầu vào bữa Cúng Đình An
Hội, Tỉnh Bến Tre mùa xuân năm 1920. Đây là ngày lễ hội quan
trọng cho nên ngoài các ông hương cả, hội đồng, thương gia có
máu mặt, ban tổ chức còn cho mời những viên chức quan trọng của
tỉnh. Trong số thực khách, nổi bật nhất có Cậu Út Giồng Trôm và
Cậu Tư Albert – Phó Sở Mật Thám. Cậu Út Giồng Trôm năm nay
khoảng ngoài ba mươi. Cậu có tác phong tàng tàng kiểu Ông Già Ba
Tri. Mặc dù theo theo Tây học nhưng cậu lại không mặc đồ Tây mà
lại thích mặc áo bà ba, đi guốc. Nghe nói cậu đậu kỹ sư của một
trường nào đó ở bên Pháp nhưng khi về nước cậu lại chơi ngông
bằng cách treo mảnh bằng trên vách cho bà con ngắm chơi mà chẳng
thèm đi làm. Điều này thì cũng dễ hiểu vì với số tiền và ruộng
đất do Ông Hội Đồng Tiếng – cha cậu để lại thì cậu có ngồi đó ăn
chơi phung phí thêm dăm mười năm nữa cũng chẳng suy chuyển gì.
Còn Cậu Tư Albert năm nay cũng khoảng ngoài ba mươi. Cậu đậu
bằng Bắc-Đơ nhưng nhờ thế lực của cha làm ở Phủ Toàn Quyền mà
được đề bạt vào một chức vụ đầy quyền thế của tỉnh. Cậu để ria
mép, mặc com-lê trắng, đầu đội mũ phớt trắng, miệng ngậm chiếc
ống đót bằng ngà voi cho nên cậu trông giống như một tay chơi
phong lưu mã thượng ở Ma Cao. Dù bề ngoài có vẻ hào hoa phong
nhã như vậy, nhưng những ai đã vào Sở Mật Thám gặp cậu thì khi
về nhà gia đình chuẩn bị mua áo quan là vừa.
Theo thông lệ, sau buổi tế lễ, quan khách và các vị bô lão sẽ ăn
uống, nếu ai muốn sẽ ở lại xem hát chầu vào buổi tối, còn không
thì vui vẻ ra về. Thế nhưng không hiểu sao năm nay các cụ lại
hăng hái bàn tán về chuyện Nhạc Phi – Tần Cối. Rồi cuộc tranh
luận mỗi lúc mỗi trở nên gay cấn rồi trở thành gần như một cuộc
đấu khẩu. Điều này cũng thường xảy ra vì khi làng nước chẳng có
chuyện gì để bàn thì chuyện vớ vẩn lại trở thành chuyện quan
trọng. Khi cuộc tranh luận sắp đi vào bế tắc thì một cụ bô lão
hướng về Cậu Út để thỉnh ý vì với kiến thức Tây học chắc cậu
phải thông thái hơn người thường. Trong suốt bữa tiệc, để giữ
gìn uy thế của người trưởng thượng, Cậu Út chỉ ngồi đó ăn uống
và rất ít nói. Thế nhưng không hiểu do một nguồn hứng khởi nào
mà cậu lại lên tiếng:
-
Trời hại mới chết. Chẳng qua số mệnh của Nhạc Phi hết rồi chứ
Tần Cối làm sao hại được Nhạc Phi ?
Còn
Cậu Tư Albert, trong thâm tâm cậu cũng hiểu rằng đây chỉ là
chuyện tầm phào nhưng nghe Cậu Út nói thế, có thể do tuổi trẻ
khí huyết còn phương cương cậu cũng lên tiếng bình luận chơi:
-
Trời sao hại được người ? Tần Cối lúc đó quyền thế đầy mình,
Nhạc Phi hữu dõng vô mưu, ngu trung chết là đáng đời !
Nghe Cậu Tư Albert nói vậy, đáng lý ra Cậu Út cũng chẳng nên
tranh luận thêm làm gì. Thế nhưng giữa nơi nhĩ mục quan chiêm,
làng nước hiện diện đông đủ thì hơn nhau một lời nói quả là danh
dự trọng đại, cho nên Cậu Út cười gằn, nói:
-
Mỏa nói Trời hại mới chết. Toa muốn cá không? Nè nói cho cùng ra
trên đời này chẳng thằng nào làm được thằng nào cái gì cả !
Thực ra khi nói câu này Cậu Út chỉ có ý triết lý vụn. Nhưng đối
với Cậu Tư Albert thì đây có thể là lời nói kháy vì dù sao cậu
cũng là quan chức cao cấp của tỉnh với quyền sinh sát trong tay
cho nên tự ái nổi dậy, cậu công kích ngay vào cái sở học của Cậu
Út :
-
Mỏa không ngờ toa đã du học nước Đại Pháp mà tư tưởng lạc hậu
như vậy. Trời là mây, là trăng, là gió, là không khí làm sao hại
được người ? Chỉ có người mới hại được người thôi!
Lời
nói của Cậu Tư Albert như dầu đổ thêm vào lửa khiến Cậu Út không
còn dằn được nữa. Cậu đứng dậy xổ một tràng tiếng Tây rồi Cậu Tư
Albert cũng đáp lại bằng một tràng tiếng Tây rồi cuộc cãi vã mỗi
lúc mỗi trở nên gay cấn. Rồi Cậu Út lấy trong người ra một tờ
giấy hí hoáy viết cái gì đó. Rồi Cậu Tư Albert đùng đùng ký tên
vào, rồi hai người bắt tay nhau, rồi Cậu Tư hầm hầm bỏ ra về
trước con mắt ngạc nhiên, kinh hãi của các cụ bô lão. Vì hai
người xổ toàn tiếng Tây cho nên thực khách không ai biết câu
chuyện diễn tiến như thế nào. May nhờ một ông thông ngôn ở Tòa
Bố diện diện trong bữa tiệc mà làng nước mới biết được khúc đuôi
của câu chuyện như sau: Sau khi bị công kích, Cậu Út tức giận
rút trong người ra một tờ giấy trong đó cậu cam kết để cho Cậu
Tư Albert muốn làm gì thì làm, muốn hại gì thì hại, không thèm
thưa gửi gì hết để xem cậu có chết không vì cậu tin rằng “Trời
hại mới chết”. Ngược lại nếu cậu không chết thì Cậu Tư phải tới
vòng tay xin lỗi thì cậu mới chịu bỏ qua chuyện này. Còn Cậu Tư
Albert vì tự ái cũng ký tên vào đó để thực hiện một cuộc đánh cá
vô tiền khoáng hậu. Câu chuyện khởi đầu chỉ là một vài lời nói
rỡn chơi sau diễn biến ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Thế
mới hay tự ái là một cái gì thật ghê gớm. Biết bao nhiêu thảm
họa chết chóc, đổ vỡ trên cõi đời này là do chút tự ái, chứ bản
chất của sự việc chưa hẳn là chân lý đúng sai hoặc ích nước lợi
nhà. Thế nhưng con người không thể sống mà không có tự ái. Tự ái
đôi khi còn to lớn hơn tài sản và sinh mệnh của con người.
******
Vào
những tuần lễ sau khuôn mặt của Cậu Tư Albert tỏ ra rất đăm
chiêu. Hồi tưởng lại buổi cúng đình hôm đó đôi lúc cậu cũng hối
hận tự trách mình tại sao lại lao vào cuộc đánh cá vô lý như
vậy. Cậu đã toan gửi một bức thư cho Cậu Út để xin giảng hòa.
Thế nhưng suy nghĩ lại, nếu làm thế thì còn gì là uy danh của
một ông Phó Sở Mật Thám nữa ? Cuối cùng thì không còn con đường
nào khác hơn là phải lao về phía trước dù biết đó là con đường
hiểm nguy. Cậu cũng đã nghĩ đến chuyện cho mật thám giả làm ăn
cướp rồi xuất kỳ bất ý đến nhà giết quách Cậu Út đi cho rảnh nợ.
Thế nhưng Cậu Út là người giầu có, người ăn người làm ra vô tấp
nập, chỉ cần một người nhận dạng được hung thủ chính là tên mật
thám thì kế hoạch của cậu bị bại lộ. Nhưng rồi do mánh lới tinh
khôn của người trong nghề, cậu đã nghĩ ra được một độc kế. Cậu
cho nhân viên qua Khám Lớn điệu một can phạm chính trị qua gặp
cậu. Đây là một thanh niên can tội rải truyền đơn chống lại nước
Đại Pháp và lưu hành các tài liệu cổ vũ Phong Trào Đông Du của
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Cậu Tư đã ngon ngọt dụ dỗ người thanh
niên nếu chịu cung khai cho Cậu Út là người chủ mưu thì đang là
chánh phạm sẽ đổi thành tòng phạm và tội sẽ nhẹ đi rất nhiều. Do
khí phách của người làm cách mạng, người thanh niên mới đầu nhất
quyết không chịu, nhưng sau nhiều đợt tra tấn chết đi sống lại,
do bản năng sinh tồn, người thanh niên đã phải khuất phục và ký
tên vào bản cung khai được đánh máy sẵn. Với bản cung khai này,
Cậu Tư Albert qua trình quan tòa Pháp và lệnh bắt giam Cậu Út
Giồng Trôm được ban hành. Chỉ nội tiếng đồng hồ sau, mật thám
Bến Tre đã bao vây kín căn biệt thự của Cậu Út, lục soát từng
nơi từng chỗ. Tài liệu tịch thu được để kết tội là vài bức thư
của một cô gái Nhật có tên Meiochi - Dư Thảo Chi gửi cho cậu và
một tấm hình Cậu Út chụp chung với cô trong bộ Kimono và cha cô
là một đạïi tá của Quân Đội Thiên Hoàng.
Tại
sao lại có bức hình oan nghiệt và những bức thư như thế vào giữa
giờ phút quan trọng này? Số là từ năm 1904 khi Hải Quân Thiên
Hoàng đánh tan Hạm Đội Hải Sâm Uy của Nga tại Eo Biển Lữ Thuận
thì Nhật Bản thoát khỏi tự ti mặc cảm của người da vàng và bắt
đầu xây dựng giấc mộng Đại Đông Á mà trong đó trụ cột là ba nước
Đông Dương Việt-Mên-Lào. Vào thời điểm này người Pháp đã xây
dựng được một nền thuộc địa vững vàng tại Đông Dương và bắt đầu
nghĩ đến chuyện thi ân bố đức cũng như tìm cách ”khai sáng văn
minh” cho người bản xứ bằng cách cho thanh niên ba nước xuất
dương du học mà trong đó đa số là con cái của các quan lại Việt
Nam làm tay sai cho Thực Dân Pháp và con cái của các đại điền
chủ Miền Nam. Với bản tính thông minh hiếu học cố hữu của người
Việt và với thói quen tiêu tiền như nước của các công tử, các
cậu thanh niên này đã làm cho mấy cô đầm Pháp lác cả mắt và từ
đó nảy nở khá nhiều mối tình lãng mạn. Nhìn thấy trong tương lai
các du học sinh này sẽ trở thành các nhà đại trí thức của ba
nước Đông Dương và sẽ giữ vai trò chính trị quan trọng của đất
nước cho nên Thiên Hoàng đã ra lệnh cho tuyển những cô gái đẹp
của các con nhà quyền quý Nhật Bản và gửi đi du học Pháp. Nhiệm
vụ của các cô gái này không phải là làm gián điệp nhưng phải tìm
cách làm quen với các du học sinh để cấy một hạt nhân tình cảm
sau này khi Quân Đội Thiên Hoàng có mặt tại đây. Do đó nếu cách
đây mười năm, Cậu Út Giồng Trôm, trong tỉnh cảnh cô đơn của một
du học sinh trẻ tuổi xa nhà, giữa nơi mùa đông tuyết phủ lạnh
giá, có yêu một cô bạn gái Nhật Bản xinh như mộng và dễ thương
như một con búp-bê thì cũng là chuyện thường tình. Rồi vào năm
1915 sau khi tốt nghiệp, trước khi Cậu Út lên đường về nước, Dư
Thảo Chi đã mời cậu thăm viếng Nhật Bản trong vòng một tháng.
Cậu trú ngụ tại nhà thân phụ của nàng tại Đông Kinh, thăm viếng
những danh lam thắng cảnh của Xứ Phù Tang Tam Đảo, chụp hình lưu
niệm với gia đình để ghi nhớ những ngày tháng thật đẹp - nhưng
qua rất nhanh. Ngày Cậu Út xuống tàu rời Cảng Đông Kinh để trở
về Việt Nam chắc phải là buổi chia ly đẫm lệ của đôi tình nhân
trẻ phải vĩnh viễn xa nhau. Từ đó và cả sau này dù đã lập gia
đình, Dư Thảo Chi vẫn thường viết thư cho cậu vì mối tình đầu
bao giờ cũng là mối tình bất diệt. Cậu Út cũng đã cho trưng tấm
hình đó ở phòng khách đã năm năm rồi mà cũng “chẳng chết thằng
Tây nào” và cũng chẳng ai thắc mắc gì. Nhưng có ngờ đâu một chi
tiết rất nhỏ, một hình ảnh vớ vẩn chẳng ra chi nhưng nếu do thù
oán thì nó có thể được khuyếch đại thành bằng chứng tày trời để
hại nhau. Tin Cậu Út Giồng Trôm sắp bị giải qua Tòa Đề Hình Áo
Đỏ Mỹ Tho vì tội phản nghịch chống lại nước Đại Pháp loan đi như
một trái bom nổ. Ai cũng biết đây chỉ là hậu quả thảm khốc của
cuộc tranh luận tại bữa cúng Đình An Hội hôm nào nhưng người ta
chỉ biết nhỏ to bàn tán chứ không dám có một phản ứng gì. Gia
đình biết Cậu Út bị hàm oan cho nên đã lên tận Sài Gòn để mướn
thầy kiện người Pháp cãi cho cậu. Thế nhưng Cậu Út lại là người
ngang bướng khác thường. Giữa phiên tòa đông nghẹt người, thay
vì lên tiếng phản cung, cậu lại dõng dạc tự nhận mình chính là
thủ lãnh của Phong Trào Đông Du Tỉnh Bến Tre, còn cậu thanh niên
kia chỉ là người thừa hành.
Thực ra Phong Trào Đông Du đã phát triển mạnh mẽ tại Bắc Kỳ và
Trung Kỳ mà Chính Quyền Bảo Hộ không sao đàn áp được. Thế nhưng
vì Nam Kỳ là đất trực trị cho nên Toàn Quyền Đông Dương không
muốn người dân vùng này chống lại nước Đại Pháp cho nên đã ra
lệnh cho khắp nơi phải thẳng tay trừng trị để làm gương. Do đó
sau khi nghị án, Tòa Đề Hình Áo Đỏ Mỹ Tho đã tuyên án Cậu Út khổ
sai chung thân, lưu đày Côn Đảo vì tội phản nghịch. Với bản án
nghe lạnh tóc gáy như thế mà Cậu Út chỉ cười xòa. Trước khi bị
còng tay để dẫn giải ra xe bít bùng, cậu còn ngoái cổ lại nói
với Cậu Tư Albert:
-
Nè, mỏa vẫn chưa chết ! Trời hại mới chết ! Mỏa vẫn còn giữ lời
cá với toa đấy nhé !
Ngang tàng và bướng
bỉnh như Cậu Út Giồng Trôm trên trời dưới thế này có lẽ chỉ có
một.
¨ ¨ ¨
Trên đời này nếu mọi việc diễn tiến êm xuôi theo
như dự tính thì có lẽ người ta đã trở thành hoàng
đế hoặc tỉ phú hết. Thế nhưng cuộc đời lại là một dòng
sông uốn khúc với muôn vạn đợt sóng ngầm mà con người không sao
biết hết. Chính những đổi thay bất ngờ đã gây cảnh cười đau khóc
hận và biến cuộc đời này thành một bãi hí trường. Kể từ khi Cậu
Út bị áp tải ra Côn Đảo thấm thoắt đã hai mươi lăm năm. Do chính
sách dùng dân bản xứ để trị dân bản xứ Cậu Tư Albert được đề bạt
lên chức Chánh Sở Mật Thám. Giờ đây tóc Cậu Tư đã hoa râm và
câu chuyện xảy ra vào bữa Cúng Đình An Hội năm nào dường như
cũng đã đi vào lãng quên. Thế nhưng cuộc đời này kể cũng lạ. Có
những chuyện cũ rích nay bỗng trở thành chuyện thời sự khi tình
hình thế giới đổi thay. Đế Quốc Pháp dần dần suy yếu. Nhật Bản
nay trở thành một đại cường. Năm 1931 Nhật chiếm đóng Mãn Châu,
năm 1938 chiếm đóng gần hết nước Trung Hoa. Năm 1942 Quân Đội
Thiên Hoàng tiến chiếm Manila, Singpore và xâm lấn Đảo Sumatra
của Nam Dương, nã đại bác vào của khẩu Sidney của Úc và
Newcastle. Và việc gì phải đến đã đến. Vào 10 giờ đêm ngày
9-3-1945 Quân Đội Nhật đảo chính Pháp và làm chủ toàn cõi Đông
Dương khiến các ông thực dân Tây lâm vào cảnh cười đau khóc hận.
Một số may nắm thoát chết lẩn trốn nương nhờ vào gia đình Việt
Nam, kỳ dư đều biến thành tù binh của dân mũi tẹt da vàng. Còn
thân phận đám người Việt làm tay sai cho Pháp thì cũng dở khóc
dở cười, sinh mạng như chỉ mành treo chuông. Còn Cậu Út Giồng
Trôm thì sao? Dĩ nhiên khi chính quyền Pháp đổ thì từ Nhà Tù Côn
Đảo, cậu được người ta đón về như một nhà cách mạng – một con
người ái quốc và bỗng dưng nổi bật lên như một người hùng của
thời thế. Người ta mời cậu tham gia vào Ủy Ban Hành Chánh Lâm
Thời để điều hành công việc của tỉnh. Thế nhưng với bản tính
tàng tàng cố hữu cậu chẳng để ý chi cả. Việc đầu tiên là Cậu Út
hỏi thăm xem Cậu Tư Albert bây giờ ra sao và được người tâm phúc
cho biết Cậu Tư bây giờ đang bị truy lùng và hiện đang lẩn trốn
ở Hương Mỹ.
Quả
đúng như vậy. Hôm nổ ra cuộc đảo chánh, Cậu Tư Albert may mắn
không có mặt ở Sở Mật Thám cho nên đã chạy thoát và hiện đang
nương náu ở nhà người chú vốn là một điền chủ. Để cho người đời
không còn nhận ra, Cậu Tư Albert đã trút bỏ bộ đồ Tây, cạo bỏ bộ
ria mép và khoác lên người bộ đồ bà ba của người nông dân bình
thường. Lúc này cậu gầy hẳn đi và trông hom hem như một ông già
bảy mươi. Trong lúc sống như một tù nhân tại ngôi biệt thự của
ông chú, Cậu Tư Albert tự hỏi tại sao cuộc đời lại trớ trêu đến
thế ? Tại sao nước Đại Pháp lại có thể đầu hàng nhục nhã như
vậy, hay đây là “trời hại cậu” ? Nhưng khi nhắc tới hai chữ
“trời hại” cậu lại bực bội với ngay cả chính mình và liên tưởng
ngay tới Cậu Út Giồng Trôm, cậu nghĩ :
-
Hai mươi lăm năm ngồi tù Côn Đảo thế mà nó không chết, ngày nay
nó lại trở về đây với cương vị của kẻ chiến thắng ! Sao đời mình
lại có thể diễn biến bi thảm như thế ? Phải chăng số mệnh mỗi
con người đều do trời đất an bài và không một ai có thể tác động
hoặc cải sửa được ? Ngày hôm qua ông chú đã khuyên:
-
Sao cháu tự ái quá vậy? Người khôn ngoan là người biết dẹp bỏ tự
ái. Theo chú nghĩ cháu nên viết một bức thư cho thằng Út nhận
mình thua cuộc và nhờ nó rộng lượng che chở cho. Thằng Út là
thằng quân tử, nó chỉ muốn thỏa mãn tự ái. Giờ đây nó là nhân
vật quan trọng của tỉnh. Chỉ cần nó che chở thì cháu có thể qua
khỏi vụ này hoặc chỉ bị giam giữ ít tháng rồi chú tìm cách cứu
cháu ra.
Lời
của ông chú thật chí lý. Nhưng có một cái gì đó khó nói ở bên
trong. Vì danh dự, cậu không thể xuống nước năn nỉ Cậu Út và
cũng không thể sống bằng sự che chở của Cậu Út và cậu phải quyết
định. Cậu Tư Albert ngồi ngay ngắn vào bàn rồi lấy bút thảo một
bức thư gửi cho Cậu Út Giồng Trôm với nội dung như sau:
Bạn Út thân mến,
Cách đây hai mươi lăm năm, bằng thủ đoạn tàn
độc nhất của kẻ có quyền thế moa đã âm mưu hại toa. Thực ra
không phải vì lòng thù hận nhưng chỉ vì tự ái. Từ tự ái mà biến
thành lòng thù hận. Moa không muốt mất mặt trước đám đông rồi
sau đó lại không muốn mình là kẻ thua cuộc. Nhưng ngày hôm nay
moa xác nhận moa là kẻ thua cuộc. Nhưng này bạn Út ơi bạn chớ
vội mừng. Bạn chỉ là người thắng cuộc có một nửa thôi. Moa không
giết được toa – tức là người không thể hại được người, nhưng
Trời cũng không thể hại được người. Nếu như mỏa để bị bắt rồi bị
giết đi thì người ta sẽ nói rằng Trời hại mỏa. Nhưng moa sẽ tự
kết liễu đời mình để cho thấy Ông Trời không có liên quan gì đến
trong vụ này cả. Một lần nữa moa xác định với toa là Trời không
thể hại được người, chỉ có người mới hại được người thôi.
Thân mến chào bạn,
Sau
đó Cậu Tư Albert viết một bức thư tuyệt mệnh gửi cho người chú
và vợ con. Viết xong cậu rút khẩu súng lục trong người, kê vào
thái dương và bóp cò. Thân hình cậu rung lên thật mạnh cùng với
tiếng nổ chát chúa rồi đầu gục xuống bàn.
Theo lời yêu cầu ghi trong thư tuyệt mệnh, bức thư đã được
chuyển tới tay Cậu Út Giồng Trôm cũng trong ngày hôm đó. Đọc thư
lên, Cậu Út kích động la lớn:
-
Ta đã nói rồi mà. Trời hại mới chết ! Trời hại mới chết !
Nói
xong cậu cười ha hả, cười đến giàn giụa cả nước mắt. Nhưng cậu
có biết đâu sau hai mươi năm năm ngồi ở Côn Sơn đập đá, ăn cơm
hẩm và ưu tư sầu muộn về cuộc đời, sức khỏe của cậu đã suy yếu
trầm trọng và cậu bị bệnh tim lúc nào không hay. Cơn xúc động
vừa rồi đã làm tim cậu ngưng đập và cậu ngã lăn xuống đất.
Ba
ngày hôm sau đám ma của hai nhân vật nổi tiếng nhất của Tỉnh Bến
Tre cùng diễn ra đó là đám ma của Cậu Út Giồng Trôm và của Cậu
Tư Albert. Thế là các cụ bô lão của Xứ Dừa một lần nữa lại có cơ
hội để suy luận, bàn tán. Lời nghị luận và bàn tán xoay quanh
câu hỏi: Có thể Cậu Tư Albert chết là vì Trời hại nhưng còn Cậu
Út Giồng Trôm chết vì bệnh tim cái đó có phải là do Trời hại
không ? Và câu chuyện này vẫn còn được truyền tụng cho tới ngày
hôm nay vì người đời vẫn còn thắc mắc không biết Ông Trời và Con
Người đã giữ bao nhiêu phần trăm trong việc quyết định hạnh
phúc, khổ đau và mạng sống của con người ?
Đào Văn Bình
(Trích trong tuyển tập Mê Cung sắp xuất
bản) |