1.-Chức năng của bản đồ
Sau bao nhiêu năm xa cách, về lại thăm viếng
bà con xa gần ở Sàigòn, tôi cần phải luôn luôn mang theo trên
mình một tấm bản đồ, để nhận ra những con đường, tìm kiếm những
địa chỉ...Trái lại, khi có bạn bè hoặc người thân cùng đi, tôi
không cần ôm theo lè kè những phương tiện định hướng như vậy.
Sau nhiều năm sinh sống và di chuyển, họ đã hội nhập tấm bản
đồ của Thành Phố trong đầu óc họ. Tôi chỉ cần hỏi họ, để có thể
quyết định đi tới hay là trở lui, quẹo qua tay trái hay là chọn
hướng bên phải...
Trong lãnh vực gia đình và nghề nghiệp, chính
trị cũng như tôn giáo hay là xã hội, rất nhiều người cũng có xu
thế « tấn phong » kẻ khác làm tấm bản đồ chỉ đường cho mình như
vậy. Và trên mỗi đường đi nước bước, họ nhắm mắt đi theo, không
cần xét lại làm gì cho nhọc thân nhọc trí. Lợi dụng và lạm dụng
cơ hội, một số người khác đã biến thân thành người « chỉ đường
chuyên nghiệp », thậm chí trong những vấn đề không thuộc về
chuyên môn và khả năng hiện hành của họ. Chẳng hạn người làm
chính trị lại khoác vào mình vai trò chỉ đạo, trong địa hạt tôn
giáo. Người làm công tác tôn giáo lại hô hào đá đảo bên nầy, lật
đổ phía kia, xuống đường, biểu tình, tuyệt thực, đập phá...
Thông thường, đối với những người « chỉ đường
và chỉ đạo như vậy », khi có một vấn đề xảy ra trong lòng xã hội
và Quê Hương, nguồn gốc hay là nguyên nhân tạo ra vấn đề luôn
luôn nằm ở đằng trước, phía bên kia, nơi kẻ đối phương và người
đối diện. Còn họ : họ coi mình là con người luôn luôn trong
trắng và vô tội. Họ chỉ là nạn nhân của bao nhiêu người đang có
mặt trên giới tuyến « phản động, ác ôn côn đồ » hay là « mặt
trận của Bóng Tối ».
Để tránh những ngộ nhận có thể xảy ra do vấn
đề sử dụng ngôn ngữ, tôi xin phân biệt : Chỉ đạo là điều khiển,
lèo lái, áp đặt hoặc cưỡng chế từ trên hoặc từ ngoài, một cách
độc tài, đơn phương và độc lộ. Trong địa hạt giáo dục, trái lại,
người có trách nhiệm như cha mẹ, thầy cô... chỉ làm công việc
soi sáng và hướng dẫn. Họ tạo điều kiện cho con cái và học sinh
càng ngày càng trở nên tự lập và trưởng thành. Nhờ đó, từ từ con
cháu của chúng ta có khả năng hội nhập, chuyển biến những bài
học thành xương da, máu thịt và hơi thở ra vào của mình.
Trong tinh thần ấy, có bao giờ những người
« chỉ đạo từ trên và từ ngoài » biết dừng lại , thay vì đưa tay
lên, trỏ thẳng vào mặt phe bên kia để qui lỗi và tố cáo ? Có bao
giờ họ đặt lại câu hỏi, để thú nhận một cách bình tâm và trung
thực : « Tôi có thể lầm đường lạc lối, vì tấm bản đồ, mà tôi
đang mang lè kè trong đáy sâu của nội tâm, đã lỗi thời, lạc hậu,
không còn thích ứng với tình huống ở đây và bây giờ » ? Tôi
không tìm ra đường và địa chỉ ở Sàigòn, phải chăng vì tôi đã cầm
lộn tấm bản đồ Hà Nội, khi đi ra khỏi nhà ? Hay là tấm bản đồ
tôi đang sử dụng đã được xuất bản cách đây hơn một nửa thế kỷ ?
Bao nhiêu tin tức mới mẽ chưa có mặt trên đó. Tệ hại hơn nữa là
tôi nói về Quê Hương và anh chị em đồng bào của mình, bằng cách
qui chiếu vào những tấm bản đồ được phát hành ở những thủ đô của
Nước Ngoài như Paris, Rome, Moscou, Bắc Kinh và Washington...
2.-Tấm bản đồ trong nội tâm
Trong lãnh vực làm người, hay là trong những
quan hệ với anh chị em đồng bào, chúng ta cũng thường gặp nhiều
vấn đề tương tự, với những tấm bản đồ không được cập nhật hóa
của chúng ta. Bao nhiêu hiện tượng tranh chấp, xung đột, hận thù
và chiến tranh đang ngày ngày xảy ra giữa tôi và người khác,
phải chăng đều xuất phát từ những tấm bản đồ nội tâm không còn
tính hiện thực, trong điều kiện và hoàn cảnh hiện nay.
Lối nói « Tấm bản đồ nội tâm » đã được nhà tâm
lý người Anh Kenneth CRAIK sử dụng lần đầu tiên, vào những năm
thuộc thập niên 1940. Lúc ban đầu khi mới thành hình, tấm bản đồ
là những lối nhận thức, những cách thuyên giải hay là những kết
quả suy luận có mặt trong sinh hoạt hằng ngày của một người. Vì
được lặp đi lặp lại nhiều lần, những hoạt động tâm linh nầy đã
từ từ trở thành một tập tục tin tưởng, hay là một định kiến,
thuộc loại trí nhớ dài hạn. Khi có một hay nhiều yếu tố dẫn khởi
tương tự như trước đây tái xuất hiện trong môi trường, cả một
kinh nghiệm thuộc quá khứ được đánh thức và ào ạt chỗi dậy, trấn
áp toàn bộ nội tâm của con người, một cách tự động và máy móc.
Trên bình diện ngôn ngữ, những tấm bản đồ bên
trong có thể toát ra bên ngoài bằng những lời tố cáo, phê phán,
những cách chụp mũ, gắn nhãn hiệu... có sẵn ở đầu môi chót lưỡi
của mỗi người trong chúng ta.
Theo cách giải thích và trình bày của tác giả
Peter SENGE, loại bản đồ nội tâm làm bằng nhiều hình ảnh, nhiều
giả thuyết chưa được kiểm chứng. Có thể đó là những câu chuyện,
những điệp khúc ... được lặp đi lặp lại, được kể lui kể tới
nhiều lần, mỗi khi chúng ta nói về mình, về người khác hay là về
môi trường sinh thái bao quanh chúng ta. Tấm bản đồ nội tâm
thường được so sánh như những cặp kính tôi mang trên hai mắt.
Nếu mặt kính có màu đen, mọi sự vật tôi nhìn thấy, đều nhuộm màu
đen. Trái lại, khi mặt kính của tôi có màu đỏ, đối với tôi toàn
thể cảnh vật lúc bấy giờ đều mang màu đỏ.
Cũng y hệt như vậy, tấm bản đồ có mặt trong
nội tâm có tác dụng bóp méo, xuyên tạc lối nhìn hay là cách thức
tôi thuyên giải sự vật và con người đang có mặt ở đằng trước hay
là bao quanh tôi. Thuyên giải một sự cố hay là tác phong của một
người, có nghĩa là khoác vào cho sự cố và tác phong ấy một ý
nghĩa chủ quan, thể theo cách nhận thức, lề lối tư duy hay là
tâm tình vui buồn đang xảy ra trong hiện tại của tôi.
Nói khác đi, những tấm bản đồ nội tâm đang
điều hướng và điều hợp mọi đường đi và nẻo về của chúng ta trong
lòng cuộc đời. Khi thay đổi tấm bản đồ nội tâm, chúng ta sẽ có
cơ may và khả năng tác động, gây ảnh hưởng trên toàn diện con
người của chúng ta, nhất là trong năm địa hạt : tác phong, ngôn
ngữ, lối nhìn, xúc động và quan hệ giữa người với người.
3.- Tầm ảnh hưởng sâu rộng của tấm bản đồ
nội tâm
Nhằm xác định tầm ảnh hưởng rộng lớn của tấm
bản đồ nội tâm trên toàn diện cuộc sống hằng ngày của con người,
tôi cần cả một tác phẩm dài hơn 300 trang hay là nhiều hơn nữa.
Trong khuôn khổ của bài chia sẻ nầy, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một
vài điểm then chốt sau đây :
Thứ nhất : Tấm bản đồ nội tâm là kết
quả của một tiến trình học tập, từ ngày chúng ta sinh ra làm
người. Xuyên qua tấm bản đồ, chúng ta ghi nhận, tiếp thu và hội
nhập tất cả những kinh nghiệm, mà chúng ta đã kinh qua. Tấm bản
đồ ấy phản ảnh một phần nào những định luật đang chi phối cuộc
sống, trong môi trường bao quanh chúng ta.
Tuy nhiên, tấm bản đồ không thể đồng hóa với
xứ sở hay là thực tế cụ thể và bao la, đang có mặt chung quanh
chúng ta.
Trên tiến trình học tập, chúng ta đã sử dụng
ba cơ chế, để thiết lập tấm bản đồ nội tâm ấy.
- Cơ chế thứ nhất là tổng quát hóa. Từ hai
ba sự kiện mà chúng ta ghi nhận, quan sát, chúng ta rút ra một
định luật thường hằng và bất biến. Chẳng hạn, có dịp tiếp xúc
với ba hoặc bốn người Bắc, tôi thấy họ ăn nói khéo léo và làm ăn
rất tài tình. Từ đó, tôi kết luận : người Bắc - bất cứ ở chỗ
nào, bất cứ vào thời buổi nào - luôn luôn ăn nói khéo và làm ăn
giỏi.
- Cơ chế thứ hai là gạn lọc. Nói về người
Bắc, tôi chỉ đưa ra hai tư cách là ăn nói khéo và làm ăn giỏi.
Kỳ thực, tôi đã vô tình hay hữu ý bỏ qua mọi yếu tố khác, có khi
còn quan trọng và đáng được lưu ý hơn, trong những lãnh vực khác
như chính trị, tôn giáo hay là nghệ thuật.
- Cơ chế thứ ba là chủ quan hóa. Với tôi,
người Bắc toát ra hai đặc điểm vừa được tôi đề cao và nhấn mạnh
lui tới nhiều lần, khi có dịp trình bày ý kiến hay là quan điểm.
Một người bạn khác ở sát cạnh nhà tôi có một kinh nghiệm khác và
đề xuất một ý kiến khác, hoàn toàn ngược lại với lối nhìn của
tôi. Tuy nhiên cả người ấy và tôi, không một ai SAI hoàn toàn
một trăm phần trăm. Và cũng không một ai có khả năng chiếm hữu
sự thật một cách toàn diện và tuyệt đối. Mỗi người đều dựa vào
một số sự kiện cụ thể và khách quan, để rồi suy diễn, rút ra một
kết luận hoàn toàn tổng quát, có khi xa rời khỏi thực tế được
ghi nhận lúc ban đầu.
Thứ hai : Tấm bản đồ nội tâm là một
dụng cụ cần thiết cho cuộc sống của con người.
Với bao nhiêu hạn chế ắt có, tấm bản đồ nội
tâm vẫn là một bàn đạp hay là một điểm tựa đầu tiên, cho phép
tôi càng ngày càng đi xa hơn, trên con đường học tập và hiểu
biết. Không biết một, làm sao tôi có thể biết mười.
Hẳn thực, nhờ biết một, tôi có thể so sánh
điều tôi đã biết với bao nhiêu điều còn lại, để bổ túc, kiện
toàn hay là sửa sai.
Trái lại, nếu mỗi ngày phải bắt đầu từ số
không, tôi không bao giờ có một cơ sở vững chắc, để tiếp xúc và
trao đổi qua lại hai chiều với những người chung sống hai bên
cạnh và chung quanh tôi, để thu hóa những bài học mới.
Chúng ta hãy nhìn, quan sát và lắng nghe một
em bé vừa mới bặp bẹ học nói. Lúc ban đầu, em chi biết gọi lui
gọi tới : mẹ mẹ. Không nói được tiếng « Mẹ », làm sao em có thể
học nói thêm tiếng « Ba »...Dựa trên cơ sở ấy, em sẽ ngày ngày
tiếp tục học, để gọi tên Trời, tên Đất và tên của cả Vũ Trụ Càn
Khôn.
Thứ ba : Mọi tấm bản đồ đều bất toàn và
phiến diện.
Để có thể càng ngày càng tiến xa hơn, trên con
đường học tập, làm người và tu luyện nhân cách của mình, chúng
ta cần ý thức một cách rõ ràng và chắc chắn về tính cách bất
toàn và phiến diện của mọi loại bản đồ đang có mặt trong nội tâm
của chúng ta.
Khi ý thức về điều quan trọng nầy, chúng ta sẽ
biết lắng nghe và cẩn trọng người đang tiếp xúc, trao đổi và trò
chuyện với chúng ta.
Hẳn rằng tôi có một câu chuyện phản ảnh tấm
bản đồ nội tâm của tôi. Nhưng người khác cũng có một câu chuyện
độc đáo của họ. Cả hai có thể bổ túc, kiện toàn hay là sửa sai
cho nhau, thay vì khai trừ, loại thải hay là xung đột lẫn nhau.
Đàng khác, tuy dù bất toàn và phiến diện, tấm
bản đồ nội tâm đang ngày ngày điều hướng mọi chương trình hành
động. Khi ý thức về điều ấy, chúng ta sẽ không ngừng tìm mọi
phương tiện, để làm mới, đánh sáng lại tấm bản đồ trong nội tâm
của chúng ta.
Người Xưa đã thường nhắc lui nhắc tới về bài
học và trách nhiệm cập nhật hóa ấy, nhất là trên con đường làm
người và trong mỗi quan hệ trao đổi với anh chị em đồng bào.
« Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân », phải chăng đó là gia
tài và gia sản, mà Tổ Tiên và Cha Ông đã cô động và trối trăng
lại cho chúng ta. Và ngày nay, chúng ta có bổn phận truyền thừa
lại cho con cái và cháu chắt sau này. Mỗi ngày, đổi mới. Ngày
ngày không ngừng đổi mới. Đổi mới hôm nay. Và ngày mai lại tiếp
tục đổi mới tấm bản đồ nội tâm hay là lối nhìn của chúng ta. Tự
khắc lúc bấy giờ, chúng ta sẽ trở nên « con người mới » có khả
năng xây dựng Quê Hương và phục vụ anh chị em đồng bào,một cách
thiết thực và hữu hiệu hơn.
4.- Phương thức đổi mới tấm bản đồ nội tâm
Tác giả Chris ARGYRIS là một trong những
người đã trải qua suốt cuộc đời của mình để nghiên cứu và đề
xuất một phương pháp nhằm đổi mới những tấm bản đồ có mặt trong
nội tâm.
Phương pháp đổi mới ấy bao gồm những điểm then
chốt sau đây :
Thứ nhất : Mang tấm bản đồ nội tâm ra
vùng ánh sáng để khảo sát.
Những tấm bản đồ nội tâm thường bám chặt vào
các tầng sâu của tâm hồn. Hơn nữa, chúng nó đã được thành hình,
trong những ngày tháng xa xưa cổ đại, lúc chúng ta vừa bắt đầu
học nói.
Trong tình huống hiện tại, chúng nó đã được
chôn vùi, quên lảng ở đáy sâu của Vô Thức.
Tuy nhiên, như trước đây tôi đã trình bày và
nhấn mạnh, những tấm bản đồ nội tâm tuy vô thức, vẫn ngày ngày
điều hướng và điều hợp những chương trình hành động của chúng
ta. Dưới hình thức ngụy trang, chúng nó len lỏi nằm vùng trong
mọi sinh hoạt của chúng ta như : lề lối ghi nhận và gạn lọc
những tin tức, cách thức thuyên giải các sự kiện, những phản ứng
xúc động và tình cảm, chiều hướng kết dệt những quan hệ tiếp xúc
và trao đổi với người khác.
Một cách đặc biệt, chúng nó thoát ra ngoài,
qua con đường sử dụng ngôn ngữ mập mờ, úp mở, thiếu chính xác.
Nếu ngày ngày học hỏi, thực tập, tôi luyện khả
năng LẮNG NGHE mình và LẮNG NGHE người khác một cách cẩn trọng,
chúng ta có thể tiếp cận và chuyển hóa những tấm bản đồ nội tâm.
Nhờ đó, chúng ta tránh được bao nhiêu ngộ nhận, tranh chấp và
xung đột. Cũng nhờ đó, chúng ta có thể làm vơi bớt bao nhiêu khổ
đau cho mình và cho người khác, trong lòng Quê Hương và cuộc
đời.
Thứ hai : Lắng nghe và chuyển hóa ngôn
ngữ.
Ba cơ chế - tổng quát hóa, thanh lọc và ý
nghĩa chủ quan - là những phương tiện rất cần thiết trong công
việc học tập.
Nhờ những cách làm nầy, chúng ta rút gọn, tóm
lược, sắp xếp những bài học và kiến thức vào trong kho tàng hoài
niệm.
Tuy nhiên, khi nói về mình, về người khác hay
là khi mô tả một sự việc được chúng ta chứng kiến, chúng ta cũng
dễ dàng bóp méo và xuyên tạc nhiều tin tức, vì những cơ chế
nầy.
- Với những lối nói như « luôn luôn, không bao
giờ, khi nào cũng vậy... », chúng ta chuyển biến những tin tức
cụ thể, khách quan và chính xác... thành những mệnh đề phê phán,
tố cáo, chụp mũ. Chẳng hạn, khi nói với bạn đồng liêu : « Bạn
luôn luôn đến chậm », chúng ta đã phát biểu một qui luật bất
biến và thường hằng. Trong thực tế, người bạn ấy đã đến chậm khi
nào ? Mấy lần ? Vì lý do gì ?
- Khi đưa ra những nhận xét về « người Trung,
người Nam, người Mỹ, người Pháp... », một cách chính xác chúng
ta đang nói đến người nào ? Tên gì ? Mấy tuổi ? Ở đâu ? Phái
tính ?
- Khi sử dụng những mệnh đề trình bày « một
việc làm » như « yêu Nước, phục vụ đồng bào, sống đạo, hy sinh
vì Tổ Quốc », có bao giờ chúng ta xác định những động tác cụ thể
mà chúng ta đã thực hiện : « Khi bạn yêu Nước, bạn làm những
điều gì, mà tôi có thể quan sát và ghi nhận ? »
- « Người ta nói xấu tôi ở đây, họ làm những
điều phản động, các anh là những thành phần thích bôi nhọ kẻ
khác... ». Trong những câu nói ấy, chủ từ « ngưới ta, họ, các
anh... » là những người nào ? Những mệnh đề mơ hồ như vậy có
phần vụ và hiệu năng gây hỏa mù trong tâm hồn của những người
đang nghe chúng ta.
- Trong những câu chuyện hằng ngày, chúng ta
cũng thường có xu thế nêu lên những cách so sánh như : « tốt
hơn, thích hợp hơn, hay hơn... ». Và chúng ta không giải thích :
chúng ta dựa vào những tiêu chuẩn hợp lý và hợp pháp nào, để có
thể xếp đặt và so sánh như vậy.
- Sau hết, với những lối nói như : « Mày PHẢI,
mày KHÔNG NÊN, mày CẦN... » chúng ta áp đặt cho kẻ khác những
qui luật, những mệnh lệnh từ trên và từ ngoài. Có bao giờ chúng
ta giật mình, tĩnh thức, đặt ra cho mình câu hỏi : Ai đã thiết
lập những qui luật ấy ? Tôi nhân danh người nào, để ra lệnh như
vậy ? Nếu người ấy không tuân phục, cái gì sẽ xảy đến ?
Qua bao nhiêu nhận xét ấy, tôi muốn nhấn mạnh
một điều : trong những quan hệ trao đổi với người khác, ngôn ngữ
được chúng ta dùng hằng ngày, là nguồn gốc có phể phát sinh
nhiều ngộ nhận, gây ra những tranh chấp và xung đột trầm trọng.
Cho nên khi ý thức về ảnh hưởng của ngôn ngữ, chúng ta đã bắt
đầu tôn trọng con người đang tiếp xúc với chúng ta. Nhờ vào đó,
chúng ta có thể chuyển hóa những quan hệ giữa chúng ta và người
ấy, từ tiêu cực thành tích cực. Từ tê liệt hoặc phá hoại thành
xây dựng và năng động.
Thứ ba : Suy diễn một cách khoa học
Để có thể chung sống hòa bình và hợp tác với
anh chị em đồng bào, chúng ta không thể không học tập lý luận và
suy diễn một cách có hệ thống và khoa học.
Bước đầu tiên trong tiến trình suy diễn là
trình bày một cách trong sáng những sư kiện cụ thể và khách
quan. Chúng ta đã thu thập và ghi nhận những sự kiện nầy, trong
những hoàn cảnh được chúng ta xác định một cách nghiêm chỉnh.
Bước thứ hai là dựa vào các sự kiện ấy, để đề
xuất một hay nhiều giả thuyết.
Bước thứ ba là rút ra một kết luận cuối cùng,
sau khi rà soát lại những dữ kiện và tin tức, cũng như chứng
minh tính hợp lý hợp tình của giả thuyết.
Bước thứ tư là tiên liệu một chương trình hành
động ăn khớp với kết luận cuối cùng.
Không từng bước đi lên một cách có thứ tự như
vậy, chúng ta sẽ nhảy vọt lung tung, lộn xộn như vượn chuyển
cành. Hệ quả tất yếu là chúng ta không còn có khả năng chia sẻ,
trao đổi, góp chung lại và cùng nhau sáng tạo, với những người
đang chuyện trò và thảo luận với chúng ta. Thay vào đó, sẽ bùng
nổ lên những vụ tranh chấp « tao hơn mày thua », hay là những vụ
xung đột, hận thù và bạo động « mày phải chết, để cho tao
sống ».
Thứ bốn : Nêu lên những câu hỏi đóng
góp và xây dựng
Khi lắng nghe kẻ khác trình bày ra ngoài tấm
bản đồ nội tâm của mình, qua con đường lý luận và suy diễn,
chúng ta cần nêu lên những câu hỏi xây dựng và đóng góp, nhằm
xóa tan những mây mù còn tồn đọng.
- Xin bạn làm ơn xác định : Những điều bạn vừa
trình bày là những tin tức cụ thể, hay là những kết luận của
bạn ?
- Nếu đó là những tin tức, xin bạn bổ túc :
Bạn đã thu thập các tin tức ấy khi nào ? Ở đâu ? Trong hoàn cảnh
nào ? Có ai chứng kiến cùng với bạn ?
- Nếu đó là kết luận của bạn, xin bạn bắt đầu
nêu ra những dữ kiện làm bàn đạp cho cách suy luận của bạn ?
- Dựa vào những tin tức mà bạn đã đưa ra, bạn
thuyên giải như thế nào. Giả thuyết của bạn là gì ?
- Với kết luận mà bạn đã rút ra, bạn tiên liệu
chương trình hành động như thế nào ? Trong bao lâu ? Giai đoạn
đánh giá kết quả lần đầu tiên sẽ được tổ chức thế nào ? Ở đâu ?
Khi nào ? Có ai tham dự ? Chương trình sẽ được thực hiện, trong
những điều kiện nào ?...
5.- Hóa giải những xúc động
Xúc động có thể là « con sâu làm rầu nồi
canh », trong những quan hệ giữa chúng ta và người khác. Xúc
động là những phản ứng tự động và máy móc xảy ra trong nội tâm,
như buồn, lo, giận, sợ, ghét, trầm cảm, hận thù, tuyệt vọng.
Những phản ứng nầy phát sinh từ những lối nhìn hay là tấm bản đồ
có mặt trong nội tâm. Tuy nhiên, một khi đã xuất hiện, chúng nó
trở lại làm ô nhiễm hay là khống chế những sinh hoạt của tư duy.
Chẳng hạn khi đang ở giữa những tình huống giận hờn, trầm cảm,
và lo âu... khả năng lý luận và suy diễn của tôi không còn hoạt
động một cách bình thường. Lúc bấy giờ tuy có tai, tôi không còn
nghe. Tuy có mắt, tôi không còn thấy. Trong những quan hệ với
tha nhân, những động tác như lắng nghe, hiểu biết, đồng cảm, hợp
tác, đối thoại...lúc bấy giờ sẽ bị tổn thương và suy đồi, một
cách trầm trọng.
Không ngày ngày học tập hoặc tôi luyện những
phương thức diễn tả, bộc lộ ra ngoài, chúng ta sẽ dễ dàng đánh
mất khả năng tự chủ và kiểm soát tình hình. Xúc động, trong
những điều kiện như vậy, sẽ xô đẩy chúng ta đi vào con đường
bạo động, hận thù, xung đột và chiến tranh.
Nhằm hóa giải những rối loạn trong địa hạt
xúc động, tác giả M. B. ROSENBERG đề nghị cho chúng ta bốn bước
đi lên như sau :
- Thứ nhất : xác định môi trường. Tôi
thấy, tôi nghe những gì ? Ai ? Ở đâu ? Khi nào ? Bao lâu ? Thế
nào ?...
- Thứ hai : Đặt tên hay là gọi tên một
hay nhiều xúc động đang thành hình và từ từ xuất hiện trong nội
tâm.
- Thứ ba : Khám phá nhu cầu cơ bản đang
ẩn núp ở đằng sau hoặc bên dưới mỗi xúc động.
- Thứ bốn : Chia sẻ với những người
đang có mặt lời yêu cầu tích cực và cụ thể, cũng như bao nhiêu
nguyện vọng chính đáng của mình.
Khi có nhiệm vụ nâng đỡ ai, chúng ta cũng giúp
họ đi qua bốn bước hóa giải vừa được giới thiệu và trình bày.
6.- Kết luận : Tự do và sáng suốt chọn lựa cho
mình một tấm bản đồ năng động và xây dựng, thay vì khoán trắng
cho trời đất hoặc thời tiết chỉ huy, lèo lái chúng ta.
Khi thực hiện hai động tác « chọn lựa và quyết
định », tôi là con người tự do, có khả năng làm chủ bản thân và
cuộc đời. Trái lại, khi « phản ứng một cách máy móc, bốc đồng và
tự động », tôi chỉ là đối vật và nạn nhân. Tôi khoán trắng cho
kẻ khác toàn quyền chỉ đạo mọi đường đi nẻo về của tôi.
Đối với tấm bản đồ nội tâm, chúng ta cũng đứng
trước hai ngả đường tương tự như vậy:
Một bên, tôi chịu đựng, đầu hàng, làm nạn
nhân.
Bên kia, tôi chọn lựa cho tôi tấm bản đồ nội
tâm thích ứng với bản chất, nhu cầu và nguyện vọng làm người của
tôi.
Với tấm bản đồ thứ hai nầy, tôi có những quyết
định sáng suốt sau đây :
- Thực tế của tôi là những gì tôi thấy, tôi
nghe, tôi xúc cảm... Những gì còn lại không ở trong tầm hiểu
biết và quyền làm chủ của tôi.
- Lối nhìn của tôi bao gồm hai trọng điểm. Tôi
là một con người toàn phần với những giá trị độc đáo. Người
khác, trước mặt tôi cũng là một con người toàn phần được tôi
kính trọng vô điều kiện, mặc dù họ đã và đang có những hành vi
sai trái, trong cuộc đời. Trong bất cứ hoàn cảnh và điều kiện
nào, lối nhìn của tôi về người khác là lối nhìn Yêu Thương và
Tha Thứ, Đồng Cảm và Đồng Hành.
- Xúc động tiêu cực và tê liệt có thể phát
xuất từ con người của tôi. Với khả năng hóa giải, tôi làm chủ
đời tôi. Trong một phút giây thiếu thức tĩnh, tôi có thể đánh
mất tâm hồn an lạc. Nhưng thậm chí trong tình huống nầy, tôi vẫn
có khả năng tìm lại con người đích thực của tôi.
- Trong lãnh vực quan hệ, tôi chọn lựa con
đường « Người Thắng, Tôi Thắng ». Với tinh thần ấy, cả hai chúng
tôi hợp tác với nhau, sáng tạo với nhau, cùng nhau bắt tay xây
dựng « Trời Mới, Đất Mới, Con Người Mới, Quê Hương Mới ».
Nói tóm lại, tấm bản đồ trong nội tâm của tôi
là tấm bản đồ của một con người « biết mình và biết người... »
Lausanne Tháng 10-2004
Sách tham khảo :
1.- Chris ARGYRIS
- Overcoming Organizational Defenses -
Needham, Mass. 1990.
- Reasoning, Learning, and Action -
Jossey-Bass, San Francisco 1982.
- Action Science - Jossey-Bass, San
Francisco 1985.
2.- P.M. SENGE - The Fifth Discipline,
Fieldbook - Currency NewYork 1994.
3.- Marshall B. ROSENBERG - Nonviolent
Communication - Pudle Dancer Press, Encitas CA 2001.
4.- NGUYỄN Văn Thành - Huyền Sử Việt Nam :
Con đường luyện vàng của Con Rồng Cháu Tiên - Tình Người,
Lausanne 2004.