Trong những câu chuyện trao đổi hằng ngày,
quần chúng bình dân đơn sơ, mộc mạc càng ngày càng có xu thế sử
dụng những lối nói chuyên môn xuất xứ từ Phân Tâm Học :
Anh ấy mang đầy « mặc cảm » trong mình. Chị ấy
quá « tự tôn ». « Cái tôi » to bự của chú bé nầy đã lấn át mọi
người, trong gia đình. Ông ấy quá trưng bày « bộ mặt Siêu Ngã »
của mình và làm cớ cho mọi người chống đối, tự vệ. Bà ấy ăn nói
có vẽ dịu dàng, lịch sự. Nhưng thực ra, từ con người của bà ấy
toát ra những « sức ép », hoặc « những xung năng », khả dĩ làm
tê liệt hoặc bẻ gãy mọi năng lực đóng góp của nhiều người…
Trong khuôn khổ của bài chia sẻ nầy, tôi không
có tham vọng liệt kê và lược khảo mọi cách nói thời trang và mơ
hồ nầy. Mục tiêu hạn hẹp của tôi là gây ý thức cho giới trẻ, về
sức tàn phá hãi hùng của những MẶC CẢM, đối với đời sống làm
người của mỗi người. Một cách đặc biệt, trong môi trường sinh
sống cụ thể hằng ngày, theo lối nhận định của Tổ Tiên chúng ta,
xuyên qua Ca dao và Huyền sử, mặc cảm Sơn Tinh và Thủy Tinh đã
có mặt và tạo nên những vết thương lở lói, trong lòng Quê hương,
từ những ngày Đất Nước vừa được phôi thai…Mặc cảm nầy đang khống
chế nội tâm của nhiều người, cũng như làm băng hoại những quan
hệ tiếp xúc và trao đổi giữa chúng ta.
Nhằm khai sáng những nhận định vừa được nêu
ra, chúng ta sẽ lần lượt khảo sát bốn loại câu hỏi chính yếu sau
đây :
- Mặc cảm có nghĩa là gì ?
- Dựa vào những chuẩn mực nào, chúng ta có thể
phát hiện sự có mặt của những mặc cảm ấy? Nói khác đi, mặc cảm
được thành hình vào lúc nào và như thế nào ?
- Trước sức tàn phá của những mặc cảm, chúng
ta có những biện pháp đối ứng như thế nào ?
- Riêng đối với mặc cảm Sơn Tinh và Thủy
Tinh, chúng ta có thể rút tỉa những bài học cụ thể nào, để hóa
giải bao nhiêu tồn đọng đang làm băng hoại Nước Non và những
quan hệ giữa chúng ta, từ đời nầy qua đời nọ ?
1.-
Mặc cảm là gì ?
Khi bàn đến nội tâm của con
người, Phân Tâm Học của FREUD trình bày hai cách tổ chức khác
nhau, còn được gọi là hai cấu trúc của bộ máy tâm linh.
Cấu trúc thứ nhất gồm có ba thành phần khác
nhau : Thành phần thứ nhất là « Cái Tôi » hay là Bản Ngã. Thành
phần thứ hai là Siêu Ngã, còn mang tên là « Cái Trên-Tôi », có
phần vụ soi sáng và hướng dẫn Bản Ngã. Đó là một loại « bản đồ
tâm lý » cho phép Bản Ngã tìm ra những đường đi và nẻo về, ở
giữa lòng cuộc đời. Sau cùng là thành phần Tự Ngã, còn được gọi
là « Cái Ấy ». Đó là kho tàng nguyên liệu tự nhiên, bẩm sinh, có
sẵn trong hành trang vào đời, từ ngày chúng ta được cưu mang,
trong cung dạ của Mẹ. Những nguyên liệu nầy sẽ từ từ được chuyển
biến thành vật tư kiến dựng ngôi nhà Bản Ngã, trong suốt tiến
trình học làm người, còn mang tên là tiến trình xã hội hóa.
Cấu trúc thứ hai bao gồm hai chế độ sinh hoạt
khác nhau : Ý Thức và Vô Thức. Khi sống trong chế độ ý thức, tôi
biết tôi là ai, đang làm gì… Khi ăn, tôi biết tôi đang ăn. Khi
làm, tôi biết tôi đang làm. Khi phát biểu, tôi biết rành mạch
đâu là sự kiện khách quan, đâu là giả thuyết, đâu là những kết
luận phát xuất từ tôi, đâu là những dư luận đồn thổi, không được
kiểm chứng... Nói một cách vắn gọn, khi tôi sống trong ánh sáng
của ý thức, tất cả những gì xảy ra, trong và ngoài, trước mắt
tôi, đều là bài học và kinh nghiệm quí hóa giúp tôi xây dựng bản
thân và cuộc đời. Nhờ đó, tôi trở nên một Bản Ngã kiên cường và
vững mạnh, có khả năng LÀM CHỦ bản thân và kiến dựng đời sống.
Trái lại, khi ở trong chế độ Vô Thức, tôi hoạt
động như một bộ máy vô hồn. Nhiều sức ép bắt nguồn từ Tự Ngã,
còn mang tên là Xung Năng, tác động trên tôi, thúc đẩy tôi. Thêm
vào đó, khi phải đối diện với lối nhìn xoi móc và cay nghiệt của
Siêu Ngã, tôi dễ dàng hóa thân thành « một con múa rối », bị lèo
lái, điều khiển từ ngoài và từ trên. Thay vì làm một chủ thể có
khả năng sáng tạo cuộc đời, tôi chỉ là một « đồ vật », một « đối
tượng », lênh đênh, phiêu bạt giữa dòng đời. Khi bị kích thích,
tôi phản ứng một cách máy móc, tự động và một chiều. Hẳn thực,
không có trước mặt những con đường thứ hai, để cân nhắc, phân
biệt, đánh giá…làm sao tôi có thể trở nên con người tự chủ, biết
quyết định và chọn lựa một cách tự do, hài hòa, linh động và
sáng tạo.
Nói theo ngôn ngữ của Phân Tâm Học, Bản Ngã
của tôi bị chèn ép, kềm kẹp, giữa hai đối lực đang tranh giành
quyền lực và ảnh hưởng. Một bên là Siêu Ngã áp đặt cho tôi những
cách làm, những nguyên lý hành động. Và bên kia là Xung Năng,
với những sức ép khắt khe, những đòi hỏi mãnh liệt, những thèm
khát đầy quyến rủ… cơ hồ một dòng thác lũ lôi cuốn và phá hủy
tất cả những bờ đê ngăn chận, trên con đường đi tới của mình.
Rốt cuộc, sống thường xuyên, ở giữa hai gộng kềm khắc nghiệt như
vậy, tôi không biết : Tôi thực sự là ai ? Bản Ngã của tôi đặt
trọng tâm ở chỗ nào ? Tôi có những nhu cầu cơ bản nào ? Khả năng
và giá trị, mà tôi cần kiên trì đeo đuổi và ngày ngày thực
hiện, gồm có những gì, trên con đường vạn nẻo của cuộc đời ? Rốt
cuộc, tôi chỉ « theo đuôi kẻ khác », nghĩa là thừa hành, tuân
lệnh, bị động, lệ thuộc, « nhắm mắt đưa chân ». Đến một lúc nào
đó, khi không còn chịu đựng được tình trạng « làm đồ vật, công
cụ » để kẻ khác sử dụng và sai khiến, lúc bấy giờ tôi bùng nổ,
phản loạn, hủy hoại mình như một con thiêu thân. Sau khi hồi
tỉnh lại, tôi tố cáo, phê phán, trách móc chính mình, gán cho
mình những danh hiệu xấu xa và tệ hại, đang có mặt trong ngôn
ngữ thường ngày.
Ngoài ra, trong những quan hệ tiếp xúc và trao
đổi với kẻ khác, thậm chí với những người thân tình, bằng hữu…
tôi có xu thế « CẢM » và « THẤY » mình là người luôn luôn « thua
thiệt, bị lép vế, lạm dụng và lợi dụng ». Không ai thương tôi
thực sự. Không ai kính trọng tôi. Không ai hiểu tôi và lắng nghe
tiếng kêu trầm thống của tôi. Những tâm tình, xúc động sâu xa và
thầm kín, đang sôi sục và rền rĩ trong nội tâm, không một ai
trong trời đất nầy có khả năng chia sẻ với tôi. Họ chỉ tố cáo,
phê phán, trừng phạt. Nói tóm lại, cô đơn và cô độc là thân phận
và số kiếp đọa đày của tôi. Tôi cảm thấy mình là người hoàn toàn
xa lạ và bất hạnh, trong mọi môi trường của cuộc sống làm người.
Xuyên qua một vài đường nét chính yếu vừa được
đề xuất như vậy, tôi đã cố gắng phác họa và mô tả một phần nào,
con người đang cưu mang trong nội tâm nhiều mặc cảm.
- Con người ấy chìm đắm trong vô thức, hơn là
sống trong ánh sáng của ý thức.
- Con người ấy cảm thấy mình là nạn nhân của
nhiều đối lực bên ngoài và bên trong, hơn là làm chủ bản thân và
nắm vững vận mệnh của mình.
- Con người ấy phản ứng một cách bốc đồng, bột
phát và lộn xộn… hơn là sáng tạo và xây dựng , khẳng định chính
mình và từng bước đi lên thực hiện mỗi ngày những hoài bảo, mộng
mơ trong cuộc đời.
- Trong mọi tình huống, khi va chạm với kẻ
khác, con người ấy cảm thấy mình bị thua thiệt, bất hạnh và cô
đơn.
- Sau cùng, con người ấy không biết rõ mình là
ai : Hiện tại họ có những nhu cầu cơ bản nào ? Họ cần phải chọn
lựa ưu tiên nào, trong cuộc đời, để hăng say dấn thân, nhập
cuộc, xây dựng bản thân và thăng tiến anh chị em đồng bào ?
Trước khi phân tích, tìm hiểu tâm trạng rất đa
phức và phiền toái nầy, chúng ta hãy lắng nghe lời tự thú của LÝ
MINH NGUYỆT đang sống và giam hãm mình trong vòng mê cung của
mặc cảm :
« Tôi vừa đọc trong sách một đọan văn nói về
tính nhút nhát, rụt rè. Tôi thấy đó là một tính xấu, đúng như
người ta nói. Tôi sợ hết mọi người. Ở lớp, thấy thầy cũng sợ,
bạn cũng sợ. Về nhà, thấy chị em, tôi cũng sợ. Tôi không hiểu
sao cả. Đôi lúc, tôi thấy mình sao hèn nhát quá. Hình như tôi
không còn là tôi, không dám làm gì, nói gì cả. Mặc dù chẳng ai
làm gì, nhưng sao tôi cứ sợ. Tôi lo quá. Cứ như thế nầy, tôi
chẳng ăn làm gì được… »
2.-Những tiêu chuẩn để phát hiện
Những sơ đồ tâm lý,
Những tập tục xúc động,
Những yếu tố dẩn khởi.
Làm sao phát hiện sự có mặt của những Mặc Cảm,
trong nội tâm của chính mình, và trong cuộc sống của người
khác ?
Như tôi đã nhấn mạnh trên đây, đối với người
đang bị mặc cảm khống chế, tất cả bốn loại sinh hoạt của nội tâm
đều bị rối loạn, ối đọng và ô nhiễm :
Thứ nhất, nhận thức bị bóp méo, xuyên tạc,
không phản ảnh thực tại khách quan bên ngoài.
Thứ hai, lối nhìn về mình và về người khác có
chiều hướng tiêu cực, phiến diện và một chiều. Khi đã không tìm
ra giá trị nội tại của mình, họ không thể nào đặt niềm tin yêu
vào kẻ khác, môt cách lâu bền và trung thực.
Thứ ba, đời sống xúc động di chuyển từ cực
đoan nầy đến cực đoan khác : khi thì câm nín, lo sợ, dồn nén,
khi thì bùng nổ, bạo động, tràn ngập như nước vỡ bờ. Khi không
tiếp xúc và lắng nghe tiếng kêu trầm thống của xúc động, làm sao
tôi có khả năng khám phá những nhu cầu cơ bản của mình, trong
cuộc sống làm nguời ?
Thứ bốn, trong địa hạt trao đổi giữa người với
người, quan hệ nhị nguyên – Tao hơn Mày thua - là tên du kích
len lỏi, nằm vùng trong tất cả mọi môi trường sinh hoạt. Đó là
nguồn gốc hay là nguyên nhân phát sinh mọi phản ứng xung đột và
hận thù, chia rẽ và bạo động, thậm chí giữa vợ và chồng, cha mẹ
và con cái. Cũng vậy, giữa anh chị em đồng bào, trong lòng quê
hương và dân tộc, thay vì bổ túc, kiện toàn cho nhau, và chấp
nhận nhau… họ tìm cách phân biệt một cách rõ ràng : Ai trắng ai
đen ? Ai hơn ai thua ? Ai mạnh ai yếu ? Ai bạn ai thù ? Và khi
đã gắn cho ai nhãn hiệu « địch thù », họ sẽ tìm ra mọi cơ hội và
lý chứng, để qui định vị trí của người kia trong hàng ngũ phản
loạn, phá hoại, và chống đối. Hẳn thực, theo cách nhận định của
Tâm lý đương đại, lối nhìn là một « lời tiên tri », có khả năng
biến thành hiện thực những tin tưởng có mặt trong nội tâm. Khi
tôi tin làm sao, thế nào tôi cũng sẽ thấy thực tại y như vậy.
Phải chăng cha ông chúng ta đã thường nhắc nhở : « Yêu nên tốt,
ghét nên xấu » ?
Nói tóm lại, khi tôi bị mặc cảm khống chế, tôi
không còn mở mắt, để nhìn. Không còn mở tai, để lắng nghe. Không
còn mở rộng lòng, để học tập, đón nhận và tiếp thu những tin tức
mới lạ trong cuộc đời. Cơ hồ một kẻ mê muội và mù quáng, tôi chỉ
phản ứng, nghĩa là nhai đi nhai lại những sơ đồ tâm lý thô thiển
và giản lược, đã có sẵn trong tâm tư từ bao nhiêu đời. Đó cũng
là những tập tục xúc động xa xưa, cỗ đại, đã lỗi thời, lạc hậu,
không còn thích ứng với những tình huống của hiện tại. Thế
nhưng, chúng nó vẫn còn bám trụ trong những tầng sâu của nội
tâm, ngày ngày tiếp tục lèo lái, điều khiển, chỉ đạo toàn diện
cuộc đời hôm nay của tôi, trong những lãnh vực nhận thức, tư
duy, quan hệ, và giao tiếp.
2.1. Những sơ đồ nội tâm
Nhằm trình bày một cách cụ thể
thế nào là sơ đồ tâm lý, tôi xin liệt kê một số cơ chế hoạt
động, thường xuyên có mặt và được vận dụng, mỗi lần chúng ta
nhận thức về thực tại khách quan bên ngoài :
Thứ nhất là sàng lọc hay là chủ quan hóa, có
nghĩa là giữ lại những tin tức thích hợp với chờ đợi của mình,
và loại bỏ bao nhiêu sự kiện khách quan khác cùng có mặt.
Thứ hai là tổng quát hóa quá khích : sự kiện
chỉ xảy ra một lần, đã được ghi nhận như một qui luật tất yếu,
thường hằng.
Thứ ba là phỏng đoán : giải thích một cách tùy
tiện, thể theo những tâm trạng và tâm tình hiện tại của mình,
thay vì dựa vào những sự kiện khách quan để rút ra những kết
luận.
Thứ bốn là kết luận vội vã : rút tỉa những lời
khẳng định, từ vài ba tin tức, trước khi kiểm chứng tính khách
quan và đáng tin tưởng của những dữ kiện ấy.
Thứ năm là cường điệu : thổi phòng, phóng đại
ý nghĩa của một vài tin tức, và không đánh giá đúng tầm những
kết quả toàn diện của vấn đề. Theo lối nói bình dân, đó là xu
thế « có bé, xé ra to ».
Thông thường, mỗi lần nhận thức về một vấn đề,
tất cả chúng ta, không trừ sót một ai, đều sử dụng những cơ chế
tâm lý trên đây. Tuy nhiên, những ai sống trong ánh sáng của ý
thức và làm chủ bản thân mình, luôn luôn sẵn sàng « xét lại » và
điều chỉnh cách hành xử của mình, khi phải đối diện với những ý
kiến khác biệt của những người hai bên cạnh, nhất là những ai
có lập trường hoàn toàn đối kháng với chúng ta. Có khả năng tư
duy linh động, đầy sáng tạo là những người có thể quay trở lui,
chấp nhận nhìn lại mình, với ánh sáng của những người khác đang
có mặt trong nhiều môi trường và hoàn cảnh khác nhau. Trái lại,
khi chúng ta bị mặc cảm khống chế, một trong năm lề lối nhận
thức trên đây trở thành con đường độc lộ, một chiều. Chúng ta
bám trụ, đóng chốt, giam hãm mình trong một lối nhìn khô cằn, vô
hiệu, đang xuyên tạc và bóp méo thực tại. Đó là những sơ đồ tâm
lý điều khiển, lèo lái những đường đi nẻo về hằng ngày của chúng
ta. Chúng ta biến mình làm con tin, hay là « nạn nhân tự
nguyện », thay vì sáng tạo bản thân và cuộc đời. Chúng ta vòng
vo, luẩn quẩn, nhai đi nhai lại « những điều xưa bày nay làm ».
Chúng ta ngụp lặn trong khổ đau, héo mòn, tê liệt… nhưng không
biết thoát ra ngoài bằng cách nào. Thực ra, ngục tù không phải ở
ngoài, bao quanh chúng ta, do kẻ khác áp đặt. Ngục tù đang có
mặt ở giữa nội tâm, trong chính lối nhìn của con người mang nặng
mặc cảm.
2.2. Những tập tục xúc động
Thông thường, mỗi xúc động,
bắt nguồn từ lối nhìn và được cảm nghiệm trong nội tâm. Những ai
sáng suốt, sống trong ánh sáng của ý thức và có khả năng làm chủ
bản thân, sẽ tìm cách bộc lộ, diễn tả mình một cách bình tâm,
thể theo một tiến trình bao gồm bốn bước đi lên :
* Bước thứ nhất là xác định những điều kiện
khách quan của môi trường sinh sống hiện tại.
* Bước thứ hai là gọi tên xúc động đang xuất
hiện.
* Bước thứ ba là phát hiện và diễn tả nhu cầu
đang ẩn núp ở đằng sau mỗi xúc động.
* Bước thứ bốn là tìm cách thỏa mãn hay là yêu
cầu kẻ khác giúp mình thỏa mãn những nhu cầu chính đáng ấy. Khi
gặp trở ngại, ở nơi nầy, với người nầy, tôi linh động đi tìm
những điều kiện thuận lợi, ở nơi khác, với người khác, cho đến
khi nào được toại nguyện.
Thay vì sáng tạo và làm chủ vận mệnh của mình
như vậy, những ai đang bị mặc cảm khống chế, sẽ có xu thế trở
lui với những tập tục quen thuộc mà họ đã học tập, đắc thủ,
trong những giai đoạn xa xưa, từ những tháng ngày thơ ấu, chung
quanh 2 hoặc 3 năm cho đến 6 tuổi. Những tập tục xúc động nầy là
những thể thức giải quyết vấn đề nhu cầu, có giá trị và hiệu
năng cho một đưa bé chưa biết suy luận. Nhưng đối với những
người đã bước vào tuổi trưởng thành, những tập tục xúc động nầy
đã lỗi thời, lạc hậu, không còn thích hợp với điều kiện sinh
sống hiện tại.
Vì lý do sư phạm, trong khuôn khổ của bài chia
sẻ nầy, tôi chỉ trình bày một cách vắn gọn, mười tập tục xúc
động chính yếu. Trong thực tế của cuộc sống làm người, những tập
tục nầy giao thoa chằng chịt, kết dệt vào nhau, chồng chéo lên
nhau, ảnh hưởng qua lại hai chiều.
Thứ nhất, tôi cảm thấy bị bỏ rơi một mình,
trong lòng cuộc đời. Không ai có mặt với tôi, bên cạnh tôi, thậm
chí mẹ tôi. Cho nên, tôi lo ngại, sợ hãi.
Thứ hai, tôi cảm thấy thiếu tình thương, không
ai lắng nghe, lại gần. Tôi có những nhu cầu, tôi đói, tôi khát…
Không có ai lưu tâm đến tôi. Cho nên, tôi bức tức, giận hờn,
thét gào, buồn khổ, thất vọng. Rốt cuộc, tôi trầm mình trong
lãnh đạm, khép kín mình, từ chối tiếp xúc.
Thứ ba, tôi cảm thấy không có giá trị. Tôi
không có tiếng nói. Tôi không có quyền phát biểu ý kiến riêng tư
của mình. Cho nên, bề ngoài, tôi câm nín. Nhưng trong đáy sâu
tâm hồn, tôi oán hận, phản loạn.
Thứ bốn, tôi cảm thấy bị hà hiếp, lạm dụng.
Cho nên, tôi nghi kỵ mọi người. Tôi không thể tin tưởng vào một
ai. Tôi muốn đập phá, hủy hoại tất cả và xách gói ra đi, biệt
tăm biệt tích.
Thứ năm, tôi cảm thấy xấu xí, dễ ghét, bị coi
thường, khinh thị và bạc đãi. Nói khác đi, tôi cảm thấy mình chỉ
là phế liệu, trước con mắt mọi người. Cho nên, tôi xa lánh mọi
người. Hay là, theo luật bù trừ, tôi có những hành vi ngang
tàng, bướng bĩnh, lập dị. Tôi tỏ thái độ bất cần, trước nhận xét
của người khác, trong đó có những người thương tôi, muốn xây
dựng, đóng góp cho tôi.
Thứ sáu, tôi cảm thấy bị loại trừ. Bạn bè
không cho phép tôi nhập vào hàng ngũ, cùng chơi đùa với họ. Cho
nên, tôi cảm thấy mình cô đơn, lạc lỏng. Tôi chỉ là con vịt giữa
bầy gà. Không ai giống như tôi. Cuộc sống thật cô đơn, hãi hùng,
buồn chán
Thứ bảy, tôi cảm thấy bị đe dọa. Giữa đấu
trường của cuộc đời đầy hiểm nguy và cạm bẫy, không một ai bênh
đỡ tôi. Cho nên, tôi run sợ, lo âu. Tôi cảm thấy bất ổn, trong
mọi nơi, với mọi người.
Thứ tám, tôi cảm thấy vụng về, thất bại. Cha
mẹ tôi thường trách mắng : mày đụng vào đâu, là hư hại ở đó. Cho
nên, bây giờ, tôi không dám mạo hiểm. Sở dĩ tôi thành tựu được
một đôi việc, là do tình cờ may rủi mà thôi.
Thứ chín, tôi cảm thấy băn khoăn, lo ngại, cầu
toàn. Tôi không bao giờ thấy mình thành đạt một cách mỹ mãn,
trong bất cứ công việc gì. Kết quả cụ thể không mang lại niềm
vui, vì tôi luôn luôn thấy mình « chưa đạt », thất bại, ở dưới
trung bình. Khuyết điểm còn có mặt khắp nơi. Khi quét nhà, thế
nào tôi cũng tìm thấy rác trong mọi xó xỉn.
Thứ mười, tôi cảm thấy mình ngoại lệ, xuất
chúng. Cho nên, tôi không tuân thủ những qui luật và những giới
hạn bình thường, giống như mọi người. Vì quá đề cao và chú trọng
những điểm khác biệt trong con người, tôi bỏ quên những đồng
điểm, đang nối kết tôi lại với người khác. Khi cho phép mình
sống ngoại lệ, khác người, tôi không ý thức rằng : tôi thuộc
loại người « phạm pháp, vô kỹ luật », có xu thế thống trị và đàn
áp người anh chị em. Những xung năng rừng rú, man dại của tôi
không được giáo hóa, để chấp nhận những khuôn khổ tất yếu của
cuộc sống làm người.
2.3. Yếu tố dẫn khởi
Tất cả những sơ đồ tâm lý và
những tập tục xúc động, như tôi đã nhấn mạnh trong các phần vừa
qua, đã xuất hiện và thành hình, trong cuộc đời của một đứa bé,
trước 6 tuổi. Vào giai đoạn tăng trưởng và phát triển nầy, khả
năng suy luận chưa có mặt. Tuy dù đã xuất hiện, ngôn ngữ chưa
phải là phương tiện tinh nhụê, thuần thục, cho phép trẻ em bộc
lộ nội tâm, diễn tả những xúc động và ý thức về những nhu cầu
của mình. Trong lãnh vực nhận thức, trẻ em cũng chưa thể phân
biệt một cách rõ ràng, rành mạch, thực tại khách quan bên ngoài
và những tâm tình, tâm trạng bên trong nội tâm. Nói theo ngôn
ngữ của Phân Tâm học, trẻ em đang còn sống trong chế độ vô thức.
Do đó, trẻ em chỉ phản ứng một cách máy móc, tự động, khi cảm
nghiệm một cách mơ hồ một nhu cầu thể lý như đói và khát… khi
ghi nhận một kích thích trên làn da, thớ thịt của mình, như
nhiệt độ nóng lạnh, ánh sáng chói chang, sự có mặt hay vắng mặt
của mẹ.
Những cảm nghiệm bên trong hay là những kích
thích bên ngoài, vào giai đoạn nầy, đều là những yếu tố dẫn khởi
(Trigger trong tiếng Anh, hay là déclencheur trong tiếng Pháp,
không thể lẫn lộn và đồng hóa với Cause có nghĩa là nguyên nhân
phát sinh và tạo ra kết quả). Đó chỉ là những điều kiện, những
cơ hội, có phần vụ gợi ý, để trẻ em bộc lộ những phản ứng xúc
động của mình. Cứ mỗi lần yếu tố dẫn khởi có mặt, là bấy nhiêu
lần trẻ em có phản ứng xúc động. Ngày này qua ngày khác, được
lặp đi lặp lại nhiều lần, phản ứng sẽ trở thành một tập tục ổn
định, kiên cố. Yếu tố dẫn khởi được so sánh như một nút bấm hay
là một loại « công tắc » điện. Công tắc được bấm lên, thì ánh
sáng xuất hiện. Con người bị mặc cảm khống chế, cũng có xu thế
phản ứng giống y hệt như vậy. Khi có một yếu tố dẫn khởi tương
tự như trước đây, tái xuất hiện trong môi trường sinh hoạt hiện
tại, hay là trong các quan hệ tiếp xúc, thì người ấy phục hoạt,
làm sống lại một cách tự động toàn bộ tập tục xúc động của mình,
giống như trong tuổi thời thơ ấu. Cơ hồ, khi « rút một chiếc
giây leo», chúng ta « làm chuyển động cả một khu rừng già». Yếu
tố dẫn khởi có thể là một nhận xét vẩn vơ, một giọng nói, một
liếc nhìn, một tà áo…có khả năng gọi trở về toàn bộ những kinh
nghiệm xúc động u tối, ảm đạm, nhức nhối và thương đau, thuộc
quá khứ.
3.-
Phương thức hóa giải
Hóa giải, theo lối nhìn của
Phân Tâm Học, không có nghĩa là diệt trừ, tiêu hủy hay là làm
tan biến. Với tinh thần BẤT NHỊ và bất bạo động, tôi chấp nhận,
nhìn nhận và đón nhận tất cả những gì đang có mặt, trong hành
trang của bản thân và cuộc đời. Hiện tại, Tự Ngã còn rừng rú,
man rợ. Nhưng đó là nguồn nguyên liệu quí hóa. Siêu Ngã đang
khắt khe và hạn chế, cơ hồ nhiều con đường « đầy ổ gà », đó đây
trên Quê hương. Nhưng chính tôi cố quyết ra tay kiến dựng những
con đường mới, nối lại những chiếc cầu gãy đổ.
Nhìn nhận như vậy không có nghĩa là chịu đựng,
buông xuôi, đầu hàng, bất động, “nhắm mắt đưa chân, để xem Con
Tạo xoay vần nơi nao ». Trong lòng cuộc đời, chúng ta là người
luyện vàng, có khả năng chuyển biến đồng, chì, săt thép… và bao
nhiêu quặng sản khác thành vàng nguyên chất. Và để có khả năng
luyện vàng như vậy, chúng ta phải HỌC. Phải HỎI. Phải tay làm
hàm nhai. Phải đổ mồ hôi sôi nước mắt. Phải bắt tay vào làm.
Không ngồi đợi, một cách vớ vẩn, quả sung từ trời rơi xuống
trong miệng của mình. Phép lạ ở trong lòng cuộc đời. Phép lạ có
mặt trong những khó khăn mà chúng ta đang gặp, trên từng bước
đi, từ ngày vào đời. Thay vì ngồi ù lì, bất động, phàn nàn,
chưởi bới, chúng ta hãy THẤY : Nếu chưa có một ngàn, chúng ta
đang có một trăm. Nếu chưa có một trăm, ít nhất chúng ta đang có
mười. Nếu mười chưa có, phải chăng chúng ta đang có một ? Thậm
chí một cũng thiếu vắng, lúc bấy giờ, chúng ta vẫn còn có thể
làm bùn đất, để vun bón một giây khoai, một củ chuối…Đối với một
con người cần cù, lam lũ, Phép lạ luôn luôn có mặt trong bàn
tay của mình.
Hởi người Em, mà tôi đã đặt tên là Lý Minh
Nguyệt trên đây, có nghĩa là Mặt Trăng Sáng. Em đang sợ, sợ đến
độ tê liệt như một đứa bé chung quanh tuổi đời 8-9 tháng. Em
đang muốn bám chặt tà áo của mẹ, và không chịu đựng được tình
huống xa rời mẹ…cho phép mẹ đi chợ, đi thăm ruộng đồng… Em hãy
lắng nghe lời ca dao :
« Ra đi, biết đó, biết đây.
« Ở nhà với Mẹ, biết ngày nào
khôn ? »
Với tuổi đời 69, tôi cũng « khóc nhè » như trẻ
thơ, mỗi lần xa quê hương, xa mẹ. Xa anh chị em bạn bè. Xa khóm
lau, bụi chuối, xa khu vườn trồng rau của mẹ. Xa bờ ao mà ngày
trước, tôi thường ra ngồi câu cá, để đợi mẹ đi chợ trở về. Có
người đã chê cười, gắn cho tôi nhiều nhản hiệu như :« ấu trĩ,
bệnh hoạn, tâm thần… ». Tôi đã ngã bệnh, thoái hóa, tê liệt,
kiệt quệ trong một thời gian. Nhưng, như tôi đã nói trước đây,
phép lạ có mặt trong mỗi người, mỗi cuộc sống. Tôi đã vùng chỗi
dậy. Và tôi đã nghĩ đến thân phận mong manh, yếu mềm của những
đứa em, giống như tôi. Cho nên, tôi đã nghiên cứu, học hỏi… Kết
quả là tôi đả khám phá được kỹ thuật đồng cảm và ý thức hóa
những xúc động, bằng cách từng bước kinh qua bốn giai đoạn vươn
tới.
Hôm nay, sau khi trình bày nỗi lo sợ làn tràn,
lây lất… đang khống chế nội tâm của em, em hỏi tôi : cần làm gì,
để thoát ra ngoài vòng vây hãm độc hại ấy. Tôi xin cám ơn Em, về
lòng tin tưởng và những lời tâm sự ấy. Câu trả lời của tôi :
Phép lạ ở trong em. Em hãy « làm phép lạ » cho mình và cho
người. Tự khắc, phép lạ sẽ đâm chồi, nảy lộc, kết sinh hoa trái.
Em không làm phép lạ, thì không có một ai trên Trời, dưới Đất có
thể làm phép lạ, thay thế cho Em.
Làm phép lạ là biến bệnh hoạn, mặc cảm… thành
sức sống tràn đầy và vươn lên.
- Mặc cảm, như bây giờ em đã biết, xảy ra khi
Siêu Ngã áp chế cho chúng ta những tư duy độc lộ, ép buộc chúng
ta nhắm mắt đi theo những con đường MỘT CHIỀU.
- Mặc cảm là tai họa, gông cùm… khi xung năng
đảo lộn mọi qui luật và thứ tự tất yếu của cuộc đời.
- Khi mặc cảm trấn ngự bản thân, chúng ta bơ
vơ, lạc lỏng, không biết mình là ai. Nhu cầu cơ bản của tôi là
gì ? Nhu cầu của người khác bị tôi khinh thị và đàn áp…
Sinh lực và năng động, trái lại, là hoa trái,
mùa màng, khi chúng ta thực thi những động tác cụ thể như sau :
Chủ động trở thành một Siêu Ngã có khả năng
soi sáng và hướng dẫn người khác, nhất là trẻ em và giới trẻ,
trong môi trường gia đình và xã hội. Thay vì làm Siêu Ngã độc
tài và đàn áp những sức sống hồn nhiên, yêu đời. Hay là tạo bầu
khí ngột ngạt, đầy tố cáo, phê phán, xung đột và hận thù trong
mọi quan hệ trao đổi giữa người với người.
Cho phép trẻ em và giới trẻ phát biểu ý kiến
của mình.
Dạy cho trẻ em và giới trẻ diễn tả xúc động và
ý nguyện của mình một cách cởi mở, bình tĩnh, lịch sự và an
toàn.
Đồng cảm, nghĩa là lắng nghe, tìm hiểu, đón
nhận và nhìn nhận những khó khăn, vấn đề và nỗi lòng ấm ức của
người đối diện.
Tạo những điều kiện thuận lợi, thuộc mức độ
thực tế của mình, để kẻ khác có cơ may thỏa mãn những nhu cầu
chính đáng của họ.
Khi chúng ta có khả năng CHO như vậy, tự khắc
chúng ta sẽ NHẬN lại một quà tặng cao quí : Trở thành NGƯỜI. Khi
chúng ta giúp kẻ khác hóa giải những mặc cảm đang khống chế nội
tâm và làm băng hoại cuộc đời của họ, mặc cảm không còn là trở
ngại. Mặc cảm đã trở nên cho chúng ta một bài học, một kinh
nghiệm. Nhờ đó, chúng ta biết đồng cảm với những người đang khổ
đau, trong cuộc đời. Không can trường đi vào vùng bão tố, làm
sao chúng ta tìm ra cho mình và cho người khác, con đường đi ra
khỏi bão tố ?
4.-
Vượt qua những mặc cảm ngàn đời « Sơn Tinh và Thủy Tinh »
Tinh thần NHỊ NGUYÊN – Tao hơn,
Mầy thua – là nguồn gốc cơ bản đã gây ra những tình huống xung
đột « nồi da xáo thịt », trong lòng Quê hương, từ đời các Vua
Hùng. Thay vì lặp lại những gì có liên hệ đến sơ đồ nội tâm, hay
là những tập tục xúc động đã và đang làm băng hoại những quan hệ
hài hòa, giữa anh chị em Con Rồng Cháu Lạc, từ đời nầy qua đời
khác… tôi thử đặt mình trong vai trò của Vua Hùng thứ mười tám.
Tôi hình dung tâm hồn của Mị Nương, được vua cha yêu thuơng,
chiều chuộng. Tôi hóa thân thành hai anh em ruột thịt Sơn và
Thủy. Từ đó, tôi lắng nghe trong lòng mình những mẫu đối thoại
giữa các nhân vật như sau :
Mẫu đối thoại giữa Vua Hùng và Mị Nương
Lời Vua Hùng : Hỡi nàng công chúa của Ba, ngày
mai Ba sẽ có buổi chuyện trò với hai chàng thanh niên tuấn tú có
nơi cư ngụ ở Núi Tản Viên Ba Vì và Biển Đông. Theo như tin tức
Ba nhận được, cả hai chàng đều có lòng thương con. Họ đến ra
mắt, để cầu hôn… Hình như tài năng của người nào cũng bao la như
Thái Bình Dương và cao cả như Bầu Trời. Một chàng mang tính tình
của người cha. Chàng kia phản ảnh tâm hồn của người mẹ. Vậy, Ba
muốn biết ý kiến của con.
Lời đáp của Mị Nương : Con sung suớng tạ ơn
Ba. Con vừa xúc động, vừa hãnh diện được Ba tham khảo ý kiến,
mỗi lần có một vấn đề to hay nhỏ, có quan hệ đến đời con và
thuộc về trọng trách của Ba. Ba là Trời, con là đất. Thế mà nhờ
Ba, con học được bài học : không Trời, đất sẽ khô cằn. Không
đất, Trời sẽ trống không. Vậy, về sự việc có người đến cầu hôn
con, xin Ba hãy xem xét vấn đề, từ trái tim và bộ óc của một vị
đã sinh thành ra con. Còn con, con sẽ cố gắng tìm hiểu ai là
người thực sự thương yêu và tôn trọng con. Sau đó, con sẽ trình
lại cho Ba nỗi lòng của con.
Mẫu đối thoại giữa Sơn và Thủy
Lời của Thủy : Kính thưa Anh, sau bao nhiêu
ngày bôn ba xuôi ngược, trên những chân trời gốc biển của Thái
Bình Dương, em đã xin phép Ba ghé về đây, thăm Mẹ và thăm Anh,
trong một vài ngày. Ba cũng bảo em hãy về bàn với Anh, xin Anh
góp ý kiến về việc lập gia đình của em. Ở Biển Đông, nhiều cô
gái cũng mặn mà, kiều diễm… như ở quê nhà Lạc Việt nầy. Nhưng Ba
và Em lại ước muốn có cây nhà lá vườn, tìm kiếm ai đó có bóng
hình, đường nét của Mẹ. Ba còn cụ thể hơn nữa, gợi ý, nhờ Anh
đến cầu hôn nàng Mị Nương, người con gái độc nhất của Vua Hùng,
cho em. Em mong biết ý kiến của Anh.
Lời đáp của Sơn : Anh cám ơn em đã về thăm Mẹ
và Anh. Đáp lại câu hỏi của em, Anh cũng thú thật với em : Nàng
Mị Nương mà em nói tới, không phải là người xa lạ. Nàng có tới
thăm Mẹ một đôi lần. Mẹ cũng tỏ ra yêu quí nàng rất nhiều. Mẹ
cũng gợi ý, muốn mời nàng về đây, hôm sớm bên Mẹ và Anh. Nhưng
tất cả đang là dự tính, chưa có gì là hiện thực cả. Nghe em
trình bày ý kiến của Ba và của em, Anh cũng chạnh lòng, thương
Ba và em muốn có cây nhà, lá vườn. Vậy Anh đề nghị : cả hai
chúng ta đến gặp mặt nàng, cho em làm quen nàng luôn thể. Chúng
ta hãy trực tiếp diễn bày tấm lòng thành thực của chúng ta cho
Cha nàng và nàng. Tùy vào nỗi lòng trung thực của nàng, hai anh
em chúng mình sẽ cùng nhau trao đổi và quyết định. Anh còn muốn
nói thêm cho em biết : Ngoài Mị Nương, Quê hương Lạc Việt có
trăm hoa đua nở, trên khắp mọi cánh đồng…Mỗi người trong chúng
ta đều được thương yêu và kính trọng. Mỗi người đều có tiếng nói
và chỗ đứng thích hợp, theo nhu cầu và nguyện vọng của mình.
Câu chuyện đối thoại còn tiếp tục kéo dài…
Tinh thần trao đổi và trung thực đã bắt đầu có mặt giữa những
người có thể chất khác nhau, nhưng biết lắng nghe và tôn trọng
nhau. Họ đang hội nhập khả năng đồng cảm, trong nội tâm của
mình.
Đến đây, tôi xin tự nguyện rút lui… Mỗi
độc giả hãy sáng tạo những mẫu đối thoại khác, trong đáy sâu của
lòng mình.
Sách Tham Khảo
1.- Tara BENNET-Goleman -
Emotional Alchemy –Rider,London 2001, 341 tr.
2.- NGUYỄN VĂN THÀNH - Đường vào Nội Tâm
với Phân Tâm Học - Tủ Sách Tình Người, Lausanne 1997, 250 tr.
3.- NGUYỄN VĂN THÀNH - Đối Thoại : Quê Hương
Tình Người - TN, Lausanne 1999,145 tr.
4.- NGUYỄN VĂN THÀNH - Đồng Cảm để Đồng
Hành - TN, Lausanne 2003, 276 tr.
5.- HOÀNG TRỌNG MIÊN – VN Văn Học Toàn Thư
- Tiếng Đông Phương, Sài gòn 1973, 665 tr. |