Người đầu tiên được Thiên Chúa dựng nên là ông
Adam và bà Eva, tức là một người Nam và một người Nữ với mục
đích để hai người ăn ở với nhau và sinh con đẻ cái hầu thờ
phượng, làm sáng danh Chúa (St1-27,28. Mt.19-4). Chúa đã không
chỉ tạo nên hoặc hai người Nam hay hai người Nữ để họ chung sống
với nhau. Sau này khi Chúa Giêsu giáng trần, nói về phép hôn
phối, Chúa cũng đã nói hai người nam và nữ kết hợp với nhau nên
cùng một thân xác, yêu thương gắn bó với nhau để sinh con cái
thờ phượng Chúa. (Mt.19-5,6). Chúa đã quở trách những người
ngoại tình (Mt.5-27,28). Trong cựu ước ta thấy Chúa đã phạt cả
dân thành Sodom vì họ không vâng lời Chúa thờ ngẫu tượng và phạm
tội sodoma (St.18-19).
Vậy
thì theo luật Chúa và luật tự nhiên, để thành vợ chồng phải là
một người Nam và một người Nữ, không thể là hai người Nam hoặc
hai người nữ với nhau.
Qua
nhiều triều đại từ thuở tạo thiên lập địa, tất cả những gì trái
với luật tự nhiên là trái đạo và kỳ quái bất thường không được
xã hội chấp nhận. Nó trái cả với sinh lý bình thường tự nhiên
của con người.
Nhưng ngày nay con người càng văn minh tiến bộ thì người ta lại
càng làm nhiều điều trái lẽ tự nhiên lấy cớ tự do, buông chiều
theo dục tính hay tâm tư mình, cho rằng Chúa dựng nên như vậy.
Vấn đề hôn nhân đồng tính giữa nam với nam hoặc nữ với nữ đã nảy
sinh và phát triển mỗi ngày mỗi rộng, đặc biệt ở Âu Châu và Châu
Mỹ / Hoa Kỳ.
Tại
Hoa Kỳ, hôn nhân đồng tính đã trở thành trọng tâm của mọi cuộc
tranh luận. Mới đây ngày 10-10 2008 Tối Cao Pháp Viện
Connecticut đã đồng ý cho những cặp đồng tính được chính thức
lấy nhau thành vợ chồng, đưa Connecticut lên hàng thứ ba sau
Massachusetts và California.
Chúng ta thử tìm hiểu xem phản ứng của Giáo Hội Công Giáo thế
nào đối với quyết định đó. Tòa Thánh thì dĩ nhiên đã lên tiếng
tỏ thái độ bất đồng từ lâu. Tại Connecticut, Hội Đồng Giám Mục
Connecticut (HĐGM) đã lên tiếng phản đối và trong một tuyên cáo
cùng ngày 10-10-2008 đã đưa ra lời bình luận: “Tối Cao Pháp
Viện đã quên rằng bổn phận của Tòa Án là cắt nghĩa luật và cơ
quan lập pháp mới có quyền làm ra luật”.[1]
Nhưng ở đây Tòa Án lại làm ra luật. Phải chăng có cái gì bất ổn,
không được chỉnh và trái nguyên tắc. Các ngài cho rằng quyết
định đó của TCPV chứng tỏ đã coi thường nguyên tắc Tự Do Tôn
Giáo nếu không muốn nói là đã vi phạm Tự Do Tôn Giáo. Những ưu
tư đó chính là đầu đề của một cuốn sách mới xuất bản nói về hôn
nhân đồng tính:
“HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH VÀ TỰ DO TÔN GIÁO: Những xung đột”.
[2]
Đây
là một cuốn sách gồm một số bài viết của những học giả chuyên
viên về luật đã được trình bày trong một hội nghị dưới sự bảo
trợ của quỹ Tự Do Tôn Giáo Becket mà Douglas Laycock, Anthony R.
Picarello Jr. và Robin Fretwell Wilson đã thu nhặt lại rồi in
thành sách. Hai cộng tác viên Rowman và Litlefield đã đưa ra vấn
đề để thảo luận là khi mà quyền hôn nhân đồng tính được chính
thức công nhận thì sẽ có những xung đột nào xẩy ra.
Marc D. Stern, phụ tá giám đốc hội nghị những người Mỹ gốc Do
Thái đã nêu vấn đề là: Các cơ quan / tổ chức tôn giáo có bổn
phận “rao truyền niềm tin của họ”
cho cả những tín hữu của họ lẫn những người ngoài tôn giáo họ.
Như vậy thì quyền tự do phát biểu, tự do ngôn luận chống lại hôn
nhân đồng tính có tiếp tục được nhà nước lắng nghe hay không?
Điều thắc mắc đòi hỏi đó xem ra có vẻ không vừa lòng phía nhà
nước. Ông đã nêu trường hợp ở Canada, những than phiền phản đối
được đưa lên Ủy Ban Nhân Quyền cấp Tỉnh và Liên Bang đã đưa đến
hậu quả là nhà nước đã ra luật chống lại những mục sư và những
ai đã công khai phê phán chỉ trích đồng tính luyến ái. Tuy nhiên
ông lại cho biết là quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng ở
Hoa Kỳ được tôn trọng hơn ở Âu Châu và những quốc gia khác thì
luật về sách nhiễu phái tính rất dễ dàng đưa tới tình trạng
chống đối hôn nhân đồng tính.
NHỮNG CƠ QUAN CÔNG GIÁO
Stern cũng nêu vấn đề nhân viên của các cơ sở hoặc cơ quan Công
Giáo. Mới đây tòa ra lệnh cho các cơ quan Công Giáo phải cung
cấp bảo hiểm sức khỏe có ngừa thai cho nhân viên. Như vậy các
nhà xứ, nhà thờ sẽ gặp trở ngại lôi thôi khi nhân viên của họ là
những cặp vợ chồng đồng tính. Stern cũng báo động là các cơ quan
tư vấn hôn nhân, các phòng tâm lý và những cơ sở tương tự của
một số nhà xứ, nhà thờ, cơ quan tôn giáo rất có thể sẽ gặp khó
khăn khi xin chính quyền giấy phép hành nghề nếu mà họ có khuynh
hướng chống đối hôn nhân đồng tính. Ngoài ra một số cơ quan của
nhà thờ nhận tài trợ của nhà nước cũng sẽ gặp khó khăn. Stern
kết luận bài viết của ông là chắc chắn những ai chống đối hôn
nhân đồng tính sẽ bị ảnh hưởng một khi hôn nhân đồng tính được
công nhận và hợp pháp hóa, và dựa vào luật hiện hành thì những
ai bất đồng ý kiến hoặc chống đối hôn nhân đồng tính chắc chắn
sẽ khó có thể thoát khỏi hậu quả của pháp luật.
Jonathan Turley, giáo sư đại học George Washington đã lý luận
rằng nguyên tắc luật lệ của Tối Cao Pháp Viện về vấn đề kỳ thị
dựa trên tôn giáo có “những cái mâu thuẫn chõi ngược làm
người ta phân vân không biết khi nào nó đúng khi nào sai”.
Chẳng hạn Tòa cho phép chính quyền phạt những tổ chức tôn giáo
bằng cách từ chối không cho họ được miễn thuế với tư cách là hội
vô vị lợi, trong khi đó lại tuyên bố mọi người đều có quyền tự
do tư tưởng, tự do phát biểu và tự do lập hội. Ông cho rằng hôn
nhân đồng tính lại một lần nữa tạo ra những xung đột trầm trọng
giữa việc thi hành luật tu chính số Một
[3] và luật cấm không đựoc
kỳ thị và phạt những ai phạm luật kỳ thị.
NHỮNG MÂU THUẪN
Turley đã chứng minh cái mâu thuẫn chõi ngược đó là một đàng thì
nói là các tổ chức tôn giáo có quyền phản đối đồng tính luyến ái
trong các giáo huấn của mình, một đàng lại buộc họ phải nhận
những người đồng tính luyến ái vào làm việc trong những cơ sở tổ
chức của họ.
Ngoài chuyện từ chối không cho họ được quyền miễn thuế, Tòa Án
còn có thể phạt những tổ chức, cơ quan nào có tính kỳ thị. Tối
Cao Pháp Viện California đã đồng ý từ chối không cấp loại giường
đặc biệt của hải quân ở Berkeley cho hội Hướng Đạo Nam vì tổ
chức này chống đối đồng tính luyến ái.
Charles J.Reid, Jr., giáo sư luật Đại Học Thánh Thomas đã so
sánh sự tương quan giữa Tôn Giáo, Luật Pháp và Nhà Nước. Luật
pháp chứng tỏ giá trị của nó qua cung cách xử phạt cũng như cách
thức cấm đoán. Kitô giáo đã giữ một vai trò chính yếu trong việc
định đoạt luật lệ về hôn nhân, không phải chỉ ở Âu Châu từ thời
Trung Cổ mà còn ở ngay Hoa Kỳ này. Từ thế kỷ XII cho đến cách
đây mấy thập niên về trước, điều đó đã được đương nhiên công
nhận như là luật về hôn nhân của con người đã được Thiên Chúa
hướng dẫn. Trong nhiều thế kỷ, hôn nhân đã giữ một vai trò tối
quan trọng trong trật tự xã hội và được coi là nền tảng căn bản
của xã hội loài người. Hôn nhân đã được coi như không phải chỉ
là yếu tố tạo thành quốc gia, mà còn là một tổ chức định đoạt
tương lai của quốc gia.
Theo Reid, hôn nhân ngày nay đang bị tục hóa, làm mất đi tính
cách thanh sạch thánh đức của nó để rồi đi đến chỗ ly dị ngày
càng gia tăng và những đứa con ngoại hôn ngày càng nhiều.
NHỮNG BÀI HỌC
Một
hệ quả khác nữa là cách cắt nghĩa luật trong những quyết định
của TCPV Massachusetts khi luật hôn nhân đồng tính được hợp thức
hóa. Nói về tương quan giữa hôn nhân và nhà nước, Tòa phán rằng:
“Nói một cách đơn giản là nhà nước tạo nên hôn nhân dân sự”.
Vậy
thì làm sao mà xã hội có thể tạo ra luật lệ để điều khiển hôn
nhân và những thề hứa của họ được. Làm sao một đứa trẻ nít miệng
còn hoi sữa lại có thể giảng giải về những giá trị của đời sống
ở những khía cạnh thực tế sống động khác nhau. Reid đã kết luận
là cuộc tranh luận hiện nay về hôn nhân là một cuộc tranh đấu
một phần nào cho những bài học chính đáng đã được luật pháp chỉ
bảo.
Trong phần kết thúc của cuốn sách, Douglas Laycok, giáo sư luật
Đại Học Michigan đã đưa ra nhận xét:
- Các tác giả đã có những cái nhìn khác nhau về hôn nhân
đồng tính và tôn giáo, nhưng tất cả đều đồng ý rằng hôn nhân
đồng tính là một đe dọa cho tự do tôn giáo.
Ngoài ra Laycok còn thêm:
- Những người đồng ý ủng hộ hôn nhân đồng tính đòi hỏi
không phải chỉ được luật pháp công nhận, các tổ chức tư nhân dễ
dãi mà còn đòi hỏi cả hai phía nhà nước và tổ chức tư nhân công
nhận và tích cực yểm trợ. Một số người còn đang tìm cách loại bỏ
những ý kiến chống đối và phủ nhận hôn nhân đồng tính.
Laycok nhận xét:
- Kinh nghiệm về những xung đột văn hóa ở quá khứ cho
thấy là một khi có điều gì mới mẻ và quan trọng được công nhận
và bảo đảm thì đồng thời tiếp theo đó lại có những đòi hỏi khác
được đưa ra….
Vì
vậy ông đề nghị là cứ để cho tôn giáo định đoạt về hôn nhân, nhà
nước chỉ nên làm công việc của mình là phần dân sự mà thôi. Tuy
nhiên –ông cho biết- cho dù có chấp nhận giải pháp đó đi nữa thì
vấn đề vẫn không thể giải quyết được tất cả những khúc mắc phức
tạp của nó.
PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT.
Trong khi Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ nhất định không nhân nhượng
những quan niệm của mình về hôn nhân thì ngày 15 tháng 10 vừa
qua Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đưa ra báo chí một tuyên cáo là đã
phối hợp với Hội Hiệp Sĩ Columbus “thành lập một kế
hoạch hành động trên toàn nước để bảo vệ hôn nhân”.
Một
phần của sáng kiến đó là Đức Hồng Y Francis George, chủ tich
HĐGM đã cho thành lập một Ủy Ban đặc trách hôn nhân và chỉ định
Đức TGM Joseph Kurtz của Louisville thuộc tiểu bang Kentucky
làm chủ tịch.
Đức
TGM Kurtz đã tuyên bố khi ra mắt Ủy Ban:
- “Chúng ta phải hết sức cố gắng làm sao cho mọi người
hiểu biết được vẻ đẹp độc nhất của ơn gọi hôn nhân”
[4]
Một
trong những hành động đầu tiên của các Giám Mục là phát động bản
tuyên cáo 2003 của các Giám Mục Hoa Kỳ, xác định rằng hôn nhân
là sợi dây liên kết tương giao duy nhất giữa một người nam và
một người nữ, và như vậy nó là một yếu tố nòng cốt và chính yếu
của những xã hội lành mạnh. Quan niệm như vậy về hôn nhân có
được thực hiện hay không thì còn cần phải quan sát.
[1]
It appears our State Supreme Court has forgotten that courts
should intrepet laws and legislatures should make laws.
[2] Same-Sex
Marriage and Religious Liberty: Emerging Conflicts
[3] Luật Tu
Chính số Một: bảo vệ 5 quyền lợi của người dân là: Tự do Tôn
Giáo (Religion). Tự do ngôn luận (Speech). Tự do Báo chí (Press)
. Tự do Hội họp (Assembly). Tự do Khiếu kiện (Petition).
[4] We must
increase our effort to make known the unique beauty of the
vocation to marriage. |