Khác biệt tiếng nói - Văn hóa - Triết lý sống
Trong bài “Hôn Nhân Dị Chủng” trước, tôi đã nêu lên 3 vấn nạn
cần thiết và có tầm mức quan trọng như những yếu tố tấu tạo một
cuộc hôn nhân hạnh phúc giữa những người không cùng một nòi
giống. Trong bài này, tôi muốn đi sâu vào những gợi ý ấy, bằng
những dẫn chứng cụ thể qua kinh nghiệm sống thường ngày với cái
nhìn của tâm lý hôn nhân gia đình và xã hội.
KHÁC BIỆT TIẾNG NÓI:
Tiếng nói là một phương tiện chuyên chở của văn hóa và tư tưởng
con người. Những em nhỏ mang hội chứng Autism là những em tuy có
khả năng tri thức, nghe được tiếng nói, nhưng khả năng tiếp nhận
và diễn đạt tư tưởng không được phát triển, nên các em này trở
thành nạn nhân của xã hội, và thế giới chung quanh.
Tâm
lý các em biến đổi bất thường, vui và buồn, bực tức và cau có.
Các em không làm chủ được tình cảm của mình. Tự cảm thấy xa lạ
và lạc loài giữa thế giới chung quanh, vì thiếu khả năng diễn
đạt tư tưởng bằng tiếng nói.
Trong tâm lý học, khả năng diễn tả tư tưởng đi liền với khả năng
của lý trí. Mức độ phát biểu của một người tùy thuộc vào trình
độ hiểu biết và ngôn ngữ của người đó dùng khi nói năng và giao
tiếp. Vì thế, khi đề cập đến vấn đề liên quan đến văn hóa, người
ta đã chia ngôn ngữ thành hai cấp bậc: Ngôn ngữ bình dân dành
cho những người bình dân. Và ngôn ngữ bác học được xử dụng trong
những thành phần trí thức và hiểu biết.
Ngoài ra, khả năng diễn tả tư tưởng và khả năng dùng ngôn ngữ
trong cách thức diễn tả ấy, dưới cái nhìn của tâm lý hôn nhân
gia đình, lại trở thành một điểm hết sức quan trọng và cần thiết
để xây dựng một gia đình hạnh phúc. Phần lớn, những cuộc cãi vã,
chửi bới, và ẩu đả nhau trong gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ và
con cái đều đến từ những bất đồng ý kiến, và hiểu lầm nhau những
cái rất nhỏ mọn. Trong những trường hợp ấy, việc trao đổi và đạo
đạt ý kiến của mình với người mình muốn nói là một cách thức
giải quyết tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không thấu suốt, không lưu
loát, và không hiểu một cách đầy đủ và có khả năng thuyết phục
với ngữ vựng dồi dào, thì sự hiểu lầm kia sẽ ngày càng trở thành
trầm trọng và sẽ đi đến đổ vỡ.
Tóm
lại, nói được tiếng Anh, tiếng Pháp hay một ngôn ngữ nào đó chưa
bảo đảm là mình đã thấu hiểu ngôn ngữ ấy bằng chính văn hóa của
dân tộc ấy. Chính vì vậy, mà người ta thường nói tiếng Anh,
tiếng Pháp, tiếng Việt, tiếng Trung Hoa không phải là tiếng mẹ
đẻ hay ngược lại là tiếng mẹ đẻ của tôi, của anh hay của chị.
Đây là hai điều khác biệt rất lớn lao khi nói về một người Mỹ
nói tiếng Mỹ và một người Việt hiểu và nói tiếng Mỹ. Hoặc một
người Mỹ, người Pháp biết và nói tiếng Việt Nam.
Một
hôm, trên con đường chở con từ trường về nhà. Hai con tôi ngồi
dưới ghế sau. Bỗng một đứa lên tiếng hỏi:
-
Bố! Con kể cho bố nghe một câu truyện vui được không?
-
Được! Con kể đi.
Thế
là con tôi bắt đầu kể một truyện vui nó cho là vui, nhộn, và hài
hước nhất mà nó biết. Cả hai anh em chúng đều cười một cách
khoái chí. Khi thấy tôi không cười, thằng anh mới lên tiếng:
-
Bố! Bố có biết cười không?
- Sao con lại hỏi bố như thế?
-
Bố biết không. Nó tiếp tục giải thích: Con kể truyên vừa qua ở
lớp con, bà giáo và bọn học sinh đều cười lăn ra lớp. Ngay cả em
con nó cũng vừa cười bố thấy không. Vậy tại sao chỉ có mình bố
không cười.
Rồi nó ngồi thừ người ra chiều bất mãn. Nhưng cuối cùng thì nó
cũng tỏ ra thông cảm với tôi bằng một câu nói mà tôi không bao
giờ quên mỗi lần sau này khi phải nói truyện với hai con tôi về
sự khác biệt văn hóa:
-
Con biết rồi. Bố không cười vì bố là người Việt Nam.
Còn con cười vì con là người Mỹ. Bố đẻ ở Việt
Nam, con đẻ ở Mỹ. Bố cười khi người Việt Nam nói chuyện vui cho
bố nghe. Con cười khi người Mỹ nói chuyện vui cho con nghe, hay
khi con kể truyện vui cho họ nghe.
KHÁC BIỆT VĂN HÓA:
Đúng thế, sẽ có người nêu lên câu hỏi và cho
rằng, vậy nếu tôi nói tiếng Pháp, tiếng Mỹ, tiếng Trung Hoa trôi
chảy. Hoặc nếu tôi sinh ra ở Mỹ, ở Pháp, hay ở Hồng Kông thì như
vậy sự khác biệt về tiếng nói đâu có là một trở ngại cho việc
hôn nhân của tôi với một người bản xứ?
Như tôi đã trình bày ở bài trước bằng một định
nghĩa về văn hóa, theo đó cái làm cho tôi là người Việt Nam là
văn hóa Việt Nam, và cái làm cho bạn là người Mỹ là văn hóa Mỹ.
Và cái làm cho anh, cho chị là người Pháp là văn hóa Pháp. Đó là
cơm ăn, nước uống, áo mặc, khí trời, khung cảnh gia đình, dòng
tộc và huyết thống. Những cái đó quyện lẫn với nhau và vào nhau
để làm nên một con người như tôi, như anh, như chị hiện nay. Vì
thế, ảnh hưởng văn hóa Việt Nam trong tôi là cái mà không thể
tìm thấy nơi một người Hoa Kỳ, Pháp, anh Trung Hoa.
Trước năm 1975, tôi có gặp một sĩ quan người Hoa
Kỳ. Anh đã tình nguyện ở lại Việt Nam sau thời gian quân ngũ.
Anh học tiếng Việt và có bằng cử nhân Văn Chương Việt Ngữ. Anh
nói tiếng Việt một cách sành sõi và biết nhiều tiếng lóng. Anh
đọc và cắt nghĩa thơ Hồ Xuân Hương một cách rất mùi mẫm. Một lần
anh tâm sự với tôi là để làm quen với món ăn Việt Nam, nhất là
tiết canh, lòng lợn, và thịt chó, anh đã tự ép mình ăn những món
ấy. Kết quả, anh đã phải vào nhà thương nằm 3 tháng vì kiết lỵ,
một chút là bỏ mạng. Đó là cái gía để làm quen với văn hóa Việt
Nam mà anh đã trả.
Nhưng rồi càng ngày, trong những câu truyện anh
càng tỏ ra cho biết là anh vẵn không thể nào ăn cơm, canh, và
rau muống chấm tương hay cà pháo thay bánh mì, thịt bò. Anh cũng
chưa thể làm quen với nước chè, nước dừa hay rượu đế như anh vẫn
thường thích uống Coca-Cola, 7Up, hoặc bia. Anh yêu tiếng Việt,
nhưng anh vẫn thấy ngọt ngào, và thoải mái hơn khi nói truyện
với người đồng hương của anh bằng Anh ngữ, dù người đó là một
người Mỹ da mầu.
Một người thiếu nữ Việt Nam mặc chiếc áo dài,
với chiếc nón trong tay là một tác phẩm tuyệt vời mà chỉ tìm
thấy ở quê hương và con người Việt Nam. Nhưng nếu một người phụ
nữ Hoa Kỳ, Pháp, Anh mặc chiếc áo dài và đội chiếc nón lá thì
đấy chỉ là một thời trang và kiểu cách vay mượn. Cũng thế một
người Hoa Kỳ, Pháp, hay Anh với bộ râu quai nón mặc một bộ vét
và đi giầy trông đẹp và lịch sự khác hẳn với một người Việt Nam
mặc bộ vét, đi giầy với bộ râu chòm phất phơ trước gió.
Khi nói về văn hóa, hay văn chương Việt Nam,
chúng ta cũng đã có dịp đọc một số hồi ký của các tác gỉa ngoại
quốc. Dường như nội dung các tác phẩm ấy nói lên một điều là đó
chỉ là lối nhìn và phán đoán của một người Pháp, người Mỹ, hay
người Anh về Việt Nam. Nó giống như câu truyện 5 người mù xem
voi mà nhiều người đã có dịp đọc ngay khi còn ngồi ở ghế nhà
trường bên quê nhà.
Tóm lại, khác biệt về văn hóa là một cái gì mà
khả năng ngôn ngữ hay tiếng nói vẫn không thể hóa giải. Và như
tôi đã trình bày ở bài trước, không phải là bây giờ, mà đến đời
con, cháu chúng ta, những khác biệt ấy mới là một câu hỏi và trở
thành một đề tài nhức nhối.
KHÁC BIỆT
TRONG TRIẾT LÝ SỐNG:
Xã hội Việt Nam, và xã hội tại các nước Âu Mỹ
với những cấu trúc khác nhau về địa lý, phong thủy, kinh tế, xã
hội. Truyền thống gia đình và luân lý gia đình tuy vẫn là cái gì
mà mọi nền văn hóa đều tôn trọng, nhưng ở mỗi nền văn hóa đều có
những nét khác nhau và đặc thù. Cấu trúc gia đình người Việt ảnh
hưởng sâu đậm truyền thống đại gia đình, mà mặc dù ngày nay một
số đang sống tại hải ngoại vẫn không sao quên được. Ngược lại,
phần lớn các quốc gia Âu Mỹ theo chế độ tiểu gia đình. Sự khác
biệt ở quan niệm và triết lý sống ấy là đối với người Việt Nam
việc lấy vợ, lấy chồng là một việc trọng đại liên quan đến cả
giòng họ. Nhưng đối với đa số người Âu Mỹ, việc này chỉ là hành
động có tính cách cá nhân.
Triết lý sống của một dân tộc, do đó, là hậu quả
tất yếu của nền văn hóa và triết lý của dân tộc ấy. Khác biệt
này dẫn đến những khác biệt về vũ trụ quan và nhân sinh quan của
mỗi người. Một người con rể hay con dâu ngoại quốc sẽ không hoặc
khó lòng cảm nhận được sự gần gũi, gắn bó của truyền thống gia
đình người Việt. Ngược lại, một người con dâu hay con rể Việt
Nam cũng sẽ không thoải mái khi giao tiếp với những người trong
gia đình của chồng hay vợ mình là người ngoại quốc. Đó là chưa
nói tới những hình thức cảm nhận tình tự dân tộc liên quan đến
những phong tục, tập quán về hôn nhân, gia đình.
Người Việt Nam, nhất là cha mẹ Việt Nam thường lấy việc săn sóc
và lo lắng cho con cái như một lẽ sống của mình. Phải hỏi, phải
lo lắng không những vấn đề công ăn, việc làm, việc học hành,
việc vợ chồng mà còn cả khả năng sinh sống của con. Nhưng dường
như sự khác biệt văn hóa và triết lý sống ấy đang gặp phải những
ngãng trở lớn lao khi con trai hay con gái họ lập gia đình với
một người ngoại quốc, hoặc đang cố bắt chước lối sống vọng ngoại
của những người bản xứ. Vì hành động ấy của họ lúc này là một lo
lắng thái quá, và là một xúc phạm đến đời tư của con mình.
Người Việt Nam, nhất là những bậc cao niên gần đây tại hải ngoại
vẫn thường kể cho nhau những câu truyện cười ra nước mắt về con
dâu, con rể hay cháu nội, cháu ngoại của mình là người ngoại
quốc hoặc mang hai dòng máu. Đối với các vị cao niên này thì
không bao giờ có thể hiểu được rằng họ phải xin phép trước để
mới được phép đến thăm cháu. Hoặc phải rửa tay sạch sẽ trước mới
được bế cháu. Văn hóa, văn minh hay là một sự xỉ nhục cho các
cụ.
Triết lý sống của người Việt còn đặt nặng trên tình tự dân tộc,
quê hương như triết lý Trống Đồng, huyền thoại Lạc Long Quân và
Âu Cơ, huyền thoại các vua Hùng dựng nước. Những chiến thắng anh
dũng của tiền nhân trải qua các thời đại lịch sử. Những cái này
đã thẩm thấu, đi vào xương tủy của ta và tạo nên con người Việt
Nam của chính chúng ta.