Trường hợp 1:
Một
thiếu nữ Việt Nam có cao học computer. Cô đẹp và thông minh.
Nhận được một việc làm tốt tại một hãng điện tử thuộc thung lũng
Hoa Vàng, California. Trong sở làm của cô, giám đốc cô là một
người Hoa Kỳ. Hào hoa và lịch duyệt. Ngày ngày tặng hoa, và
chiều chiều mời cô đi ăn tối tại các nhà hàng sang trọng. Giầu
có, lịch duyệt và địa vị. Đây là ba điểm làm cô rất đắc ý đến
nỗi những chàng thanh niên Việt Nam làm cùng sở đều bị cô chê là
những thứ mọi rợ và cù lần.
Hôn
nhân cô đã diễn ra một cách hết sức long trọng. Sau đó cô được
đưa về sống tại một lâu đài trên một triền núi. Cô nghỉ việc, và
ngày ngày nhàn hạ với những luống hoa, mảnh vườn đầy hoa thơm,
trái ngọt sau nhà, và tại những thương xá thời trang đắt tiền.
Nhưng rồi chỉ sau 5 năm, người mà cô cho là lịch sự, học rộng,
biết nhiều, tư cách và tưởng như không bao giờ bỏ được cô ấy, đã
lạnh lùng đưa cho cô một tấm giấy ly dị. Lý do rất đơn giản: Dị
biệt không thể hàn gắn giữa hai nền văn hóa và lối sống.
Cô
hận đời và hận người. Cô tưởng như muốn chết. Cô đã gào thét và
chửi rủa sự phản bội ấy. Nhưng rồi cô cũng phải ra đi với tờ
giấy ly dị.
Trường hợp 2:
Một
thiếu nữ Việt Nam với mảnh bằng cao đẳng của 2 năm đại học. Cô
đã quen một người thanh niên Pháp qua mai mối. Vì tự cho mình
hơi quá tuổi so với tuổi lập gia đình của những thiếu nữ Việt
Nam, và cũng có thể vì muốn được qua Pháp, nên cô đã lập gia
đình với người thanh niên Pháp ấy lớn hơn cô 10 tuổi.
Hôn
nhân này đã cho cô 1 người con trai. Dù được chồng cô thương, bố
mẹ chồng cô thương và mến, nhưng qua những tâm sự thường ngày,
cô tự nhận là không có hạnh phúc. Cái mà cô gọi là hạnh phúc
không phải là những thứ mà ông tây, bà đầm cho được. Ngược lại,
những cái mà họ gọi là hạnh phúc và cố đem lại cho cô, chỉ là
những điều làm cô chán ngấy và sợ hãi. Cô tuy không bỏ chồng cô,
nhưng cho tới nay, vẫn chưa tìm được cái yếu tố hòa đồng của văn
hóa, và những cái mà qua nền văn hóa cô muốn tìm thấy nơi một
người chồng Việt Nam như những gì cô vẫn hằng mơ ước.
Trường hợp 3:
Ông
là một thương gia có tên tuổi và giàu có tại Pháp. Tuổi trẻ, ông
đã được gửi qua du học ở Pháp và rồi lấy một người vợ Pháp. Cuộc
hôn nhân của ông đã cho ông hai người con trai lúc này đã thành
đạt.
Nhưng khi con cái thành đạt và trưởng thành, cũng là lúc ông cảm
thấy cô đơn và trống vắng. Cảm tình của người vợ đầm dù là hơn
40 năm nay trở thành lạnh giá. Văn hóa dân tộc, tình tự dân tộc
như sống lại trong tâm tư ông, khiến ông chỉ muốn gần gũi và
trao đổi với những người cùng một ngôn ngữ và văn hóa. Một cách
tương tự, người vợ ông cũng từ từ tìm đến với những người bạn và
đồng hương của bà.
“Trâu ta ăn cỏ đồng ta”. Và rồi kết thúc, cả hai
mỗi người tìm về với cội nguồn và văn hóa của riêng mình.
Hôn nhân dị chủng. Đây là một vấn nạn mà tôi đã
từng gặp thấy nhiều lần trong môi trường và nghề nghiệp của
mình. Một vấn nạn không những làm trăn trở và suy nghĩ nhiều đối
với thành phần phụ huynh là những người đã từng sinh ra, lớn lên
và hít thở bầu khí Việt Nam. Nó cũng là một vấn nạn cho cả những
người trẻ đã sinh ra hoặc lớn lên tại xứ người. Đặc biệt là giới
trẻ sinh ra, lớn lên tại Hoa Kỳ cũng như tại các quốc gia Châu
Âu.
Khi nêu lên vấn nạn về hôn nhân dị chủng, ta sẽ
phải đối diện với ít nhất hai luồng tư tưởng khác nhau, nếu
không muốn nói là chống đối lẫn nhau: Tư tưởng chấp nhận, khích
lệ, và cổ võ. Ngược lại, tư tưởng phản đối, phê bình, và không
chấp nhận. Và trong những trao đổi ấy, mỗi thành phần, mỗi tư
tưởng đều có những nhận xét và phán đoán lợi cho lập trường của
mình. Tuy nhiên, với cái nhìn của tâm lý phát triển, tâm lý xã
hội, và tâm lý giáo dục, việc hòa nhập đời sống của mình với một
người khác mầu da, chủng tộc, và văn hóa không phải là một việc
dễ làm, và có nhiều cơ may thành công. Đây không phải là hành
động kỳ thị hoặc phân biệt mầu da, chủng tộc, văn hóa, mà là một
cái nhìn đứng đắn và có tính cách khảo cứu.
Nhớ lại năm 1982, khi tôi học một khóa về tâm lý
xã hội tại Đại Học Long Beach, California, sinh viên chúng tôi
trong khóa học này được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm đại diện
cho một số quốc gia trên thế giới và phải nghiên cứu về đề tài
“hôn nhân dị chủng”. Tôi được chia vào nhóm Á Đông, tức gồm một
số quốc gia như Nhật, Phi Luật Tân, Trung Hoa và Việt Nam. Và
bản đúc kết của chúng tôi cũng như của các nhóm sắc dân khác đã
mang lại một kết quả bất ngờ: 80% đều công nhận hôn nhân dị
chủng không có yếu tố vững để đem lại một đời sống hôn nhân gia
đình hạnh phúc. Còn lại 20% thì tùy thuộc vào trình độ văn hóa,
khả năng hội nhập, và ảnh hưởng giáo dục. Dĩ nhiên, trong nhưng
yếu tố chủ quan ấy, vẫn không loại bỏ những yếu tố khác có tính
cách phụ thuộc, thí dụ, những nước tiếp cận với nhau bằng những
luồng tư tưởng và văn hóa gần kề nhau. Đó là những quốc gia có
cùng một nguồn gốc văn hóa như Trung Hoa và Việt Nam, Đại Hàn và
Nhật Bản, Phi Luật Tân và những nước Nam Dương, Mã Lai, hay Thái
Lan. Những quốc gia thuộc khối Đông Âu, Phi Châu, Mỹ Châu, Úc
Châu và Âu Châu.
Tuy đã có dịp nghe và nghiên cứu về tâm lý, đặc
biệt là tâm lý hôn nhân, gia đình, tôi lúc đầu cũng nghĩ rằng
mình có thể dễ dãi hòa nhập với một luồng tư tưởng và văn hóa
khác. Và như thế, việc tiến tới hôn nhân với một người khác
chủng tộc không phải là một vấn đề gây nhiều phức tạp. Nhưng khi
đi sâu vào những khó khăn của đời sống hôn nhân, càng có dịp
nhận diện những dị biệt của các nền văn hóa khác nhau, tôi mới
nhận ra rằng hôn nhân dị chủng không phải là một việc làm dễ
dàng, và cái may mắn đem lại hạnh phúc cho những cuộc hôn nhân
ấy không phải là dễ kiếm và có nhiều.
Thống kê chung cho thấy, hiện tại có hơn 50% các
gia đình đã đi đến tan vỡ, và ly dị. Con số này nếu xét chung đã
là một con số cao vì đạt tới quá bán, nhung nếu đi sâu và nghiên
cứu kỹ hơn về từng trường hợp đổ vỡ ấy, hẳn là những cuộc hôn
nhân dị chủng trong số những đổ vỡ này còn có sác xuất cao hơn.
Điều này dễ hiểu vì nó liên quan không những đến cá tính của con
người, sự khác biệt tâm lý nam nữ, mà chìm lắng trong tâm thức,
sự khác biệt về văn hóa và triết lý sống là những yếu tố hết sức
quan trọng.
Vậy văn hóa là cái gì? Chúng ta hãy bỏ ngoài
những định nghĩa có tính cách triết lý, hoặc văn chương về văn
hóa, nhưng hãy nhìn văn hóa bằng một nhận xét thực tế đó là
những gì “làm cho tôi là người Việt Nam thành người Việt Nam”
hay những gì “làm cho tôi là người Mỹ thành người Mỹ” thì ta sẽ
thấy ngay việc hòa đồng là một điều khó khăn hầu như cảm tình
nhất thời, cái nóng bỏng của tình yêu, và sự hấp dẫn của tính
dục vẫn không đủ mạnh để thắng vượt. Thí dụ, người Việt Nam nào
cũng có sằn trong tâm tư mình một hình ảnh về quê hương, về quê
cha đất tổ, về những lề thói, phong tục và tập quán Việt Nam.
Rồi cơm ăn, nước uống, rồi áo mặc, rồi tiếng nói. Làm sao cắt
nghĩa cho một người Mỹ hay Pháp biết được cái thú hút thuốc lào.
Cái thú ăn cà ghém mắm tôm, canh chua, cá kho tộ, cái mùi vị của
bát canh rau đay, canh mồng tơi. Cái cảm tình thiêng liêng của
xóm làng, của anh chị em trong cùng một huyết tộc.
Một
người Mỹ hay Pháp dù có thương người Việt Nam mấy đi nữa, thì
việc chấp nhận ngồi vào bàn ăn với những món quốc hồn, quốc túy
trên vẫn không thoải mái. Hoặc những cảm tình ràng buộc từ gia
đình đến gia tộc và chòm xóm kia vẫn là một cái gì mà anh ta
hoặc cô ta dù muốn hay không muốn vẫn không thể lột tả được qua
những nét đặc thù mà chỉ nền văn hóa Việt Nam mới có. Những cái
dệt nên tinh hoa và văn hóa Việt Nam. Cũng một hình thức tương
tự, một thanh niên Việt Nam hay một thiếu nữ Việt Nam khi cố
khuôn mình vào một nền văn hóa Pháp, hay Mỹ chẳng hạn, họ vẫn
không thể nào lột tả một cách đầy đủ, thoải mái với văn hóa của
người bạn đường mình.
Nhận xét trên đã được chứng minh bằng tâm lý xã hội và hội nhập.
Theo tâm lý xã hội, thì không phải là đời thứ nhất của lớp người
tỵ nạn gặp phải khó khăn với nền văn hóa mới mẻ hay nền văn hóa
riêng mình khi hội nhập vào dòng chính. Người của thế hệ thứ
nhất trong tiến trình hội nhập vì phải tranh đấu để sống còn,
nên tư tưởng và ý nghĩ về văn hóa tạm như quên lãng. Nhưng rồi
khi đến đời thứ hai hoặc thứ ba của lớp người di dân như chúng
ta, con và cháu chúng ta sẽ trở lại câu hỏi tự ban đầu mà chúng
ta quên sót ấy, đó là “Tôi là ai? Tại sao tôi có mặt ở miền đất
này? Cha tôi, mẹ tôi, ông tôi, bà tôi từ đâu tới, và họ là những
ai?” Lúc đó, con cháu chúng ta sẽ tự động tìm về với cội nguồn
của mình. Và cũng lúc đó, cái mà chúng ta gọi là văn minh, hội
nhập, và hôn nhân dị chủng sẽ tạo nên một phiền phức lớn lao cho
thế hệ mai sau.
Nhưng đừng vội nghĩ đến hậu quả của những thế hệ tương lại,
chúng ta hãy trực diện với những gì mình đang nhìn thấy trước
mắt, đó là nhiều chị, nhiều cô, nhiều bà Việt Nam đã từng có gia
đình với một số người Mỹ hoặc Pháp, thì hầu như đa số chỉ tồn
tại được một số ít thời gian. Con số những thiếu nữ, các bà Việt
Nam thành công với những người chồng Mỹ hay Pháp đã là hiếm,
càng hiếm hơn nếu muốn tìm một thanh niên hay một ông Việt Nam
thành công và hạnh phúc với người vợ đầm hay Mỹ của họ. Ngay
trong những cuộc hôn nhân của người Mỹ trắng với người Mỹ da mầu
hoặc một người Pháp trằng với người Pháp da mầu đã là ít oi,
việc tìm được những cặp hôn nhân khác mầu da ấy hạnh phúc lại
càng ít hơn nữa.
Tóm
lại, tùy vào nhận định mỗi người và mỗi hoàn cảnh, chúng ta
không khẳng định rằng hôn nhân dị chủng hạnh phúc hay không hạnh
phúc, nên hay không nên. Nhưng trước khi tiến đến một cuộc sống
hôn nhân trong trường hợp này, có ít nhất 3 vấn nạn mà ai cũng
cần phải đối diện. Đó là, sự khác biệt về ngôn ngữ. Sự khác biệt
về văn hóa. Và sự khác biệt về triết lý sống đến từ những khác
nhau của nhiều nền văn hóa. Vậy nếu phải đối diện với những
thách đố hầu như khó lòng vượt qua ấy, thì cách tốt nhất vẫn là:
“Trâu ta ăn cỏ đồng ta”.