Mục
đích tiên khởi của việc nghiên cứu tế bào gốc là tìm ra phương
cách chẩn đoán và chữa trị để giúp con người hết bệnh tật, sống
vui khỏe và hạnh phúc. Tuy nhiên, việc nghiên cứu không chỉ dừng
ở đó, nó sẽ biến thiên ra nhiều ngõ ngách khác, có thể tốt có
thể xấu. Nhưng hậu quả xấu đó có đáng và hợp với luân lý đạo đức
không thì ta còn cần phải tìm hiểu và điều nghiên thêm. Biết
trước và phòng ngừa là việc cần thiết và phải làm. Là người công
giáo chúng ta luôn luôn tôn trọng sự sống dù nó còn là hài nhi,
hay vẫn ở tình trạng thai phôi trong bụng mẹ (hoặc trong phòng
thí nghiệm) hay đã sinh ra đời, lớn lên, thành già cả, lẩm cẩm
và bệnh tật.
Mới
đây sau những ngày vui mừng Chúa Giáng Sinh, tại Anh Quốc đã xẩy
ra một cuộc tranh luận về việc phá thai / giết chết hài nhi còn
trong bụng mẹ chỉ vì đứa nhỏ có tính di truyền dị tật bất
thường.
Báo
Guardian ngày 12-1-2009 đã loan tin Trung Tâm nghiên cứu bệnh
Autism thuộc viện đại hoc Cambridge có thể tìm ra lý do một đứa
nhỏ bị autism từ lúc còn trong bụng mẹ. Nghiên cứu một nhóm 235
hài nhi, các bác sĩ đã khám phá thấy có dấu chỉ bệnh autism khi
lượng kích thích tố nam khá cao trong nước lồ ố của người đàn bà
mang thai. Giáo sư Simon Baron-Cohen, giám đốc chương trình
nghiên cứu đã đặt vấn đề trên tờ báo Guardian:
- Nếu chúng ta có một thử nghiệm cho biết một đứa trẻ có bệnh
autism trước khi nó chào đời thì thử hỏi đó là điều vui hay
buồn?
- Chúng ta sẽ mất gì –Giáo sư nêu thắc mắc- nếu một đứa trẻ bị
autism bị loại ra khỏi gia đình và cộng đồng xã hội / nhân
loại?
Bài
báo cho thấy, theo nhận xét của tổ chức autism quốc gia thì một
thử nghiệm cho biết trước đứa trẻ sẽ bị autism có thể đưa lại
một số kết quả tích cực tốt là cha mẹ đứa trẻ có thời giờ sửa
soạn tâm tư mình hầu tìm phương cách yểm trợ, giúp đỡ, an ủi đứa
trẻ khi nó chào đời, hòa nhập với gia đình và cộng đồng xã hội.
Ngược lại, ký giả Charlotte Moore đã nêu ra trường hợp của chính
bà có hai người con bị autism. Bà cho biết gánh nặng hai đứa con
bị autism đã đè nặng chĩu lên vai hai vợ chồng bà, cho nên bà sợ
rằng một khi thử nghiệm được đưa ra thị trường thì nhiều bà mẹ
sẽ cho phá thai khi mà thử nghiệm cho biết con họ bị bệnh autism
cũng như trường hợp những đứa con bị hậu chứng Down’s vậy.
Tuy
nhiên, theo ý kiến của bà, bà sẽ không chủ trương giết con bà.
Bởi vì:
- “Cuộc sống của gia đình chúng tôi –bà nói- cũng giàu
sang và có ý nghĩa như mọi gia đình khác; cuộc sống của con tôi
cũng như của chính chúng tôi cũng không thể vì vậy mà trở nên
thê lương khốn khổ được.”.
Bà
kết luận:
- “Một xã hội mà chỉ nhằm vất bỏ đi tất cả những gì khác
thường khó chịu làm cho mình bực bội thì không phải là là một xã
hội mà tôi ước mong sống”
[1].
ĐỨA TRẺ KHÔNG BỊ UNG THƯ
Tin
đứa trẻ bị autism được loan báo ngay sau khi đứa trẻ đầu tiên
tại Anh Quốc chào đời theo cách thụ thai nhân tạo không có di
truyền ung thư vú. Theo tường trình của tờ báo Scotsman ngày
10-1-2009 thì một cặp vợ chồng bị bệnh hiếm muộn đã đến Đại Học
London để mong có con bằng cách thụ thai nhân tạo. Trong khi
thực thi thụ thai, thai phôi đã phải đi qua nhiều tiến trình thử
nghiệm xem có chứa di tính / gene ung thư vú không (BRCA1) trước
khi cấy phôi đó vào dạ con của người đàn bà.
Bài
báo còn cho biết: Di tính ung thư vú của những người đàn bà cho
trứng có tỷ lệ là 80% . Ký giả Michaela Aston thuộc cơ quan Đời
Sống Bác Ái đã biểu lộ nỗi ưu tư của bà trên tờ Scotsman:
- “Cơ quan chúng tôi –Bà nói- luôn luôn vui mừng sung
sướng mỗi khi hay tin các hài nhi vừa ra đời và hân hoan đón
chào trẻ thơ đầu tiên này gia nhập cộng đồng xã hội và thế giới.
Tuy nhiên bà cũng không khỏi băn khoăn áy náy về những thai phôi
kia đã bị vất bỏ chỉ vì bị coi là có di tính bất thường tàn tật,
không có đời sống đáng giá”.
- “Chúng ta nên nhớ rằng –Bà tiếp tục lên tiếng- chúng
ta còn có nhiều thứ quan trọng và quí giá hơn tất cả những di
tính của chúng ta”.
Bản
tin cũng đánh động mạnh ông W. Saletan, một tay viết có giá của
tạp chí quốc gia trên American online. Ngày 14-1-2009 Saletan đã
lột trần những lời khoa trương lếu láo của báo chí Đại Học
London đưa ra là “Đứa trẻ đầu tiên tại Anh Quốc được thử
nghiệm ung thư vú bằng di tính BRCA1 trước khi cho
thụ thai”.
Tuy
nhiên, theo Saletan, thì thử nghiệm đã được thực hiện nơi đứa
trẻ lúc còn trong tình trạng phôi và đứa trẻ đó là một (1) trong
mười một (11) cái phôi được thử nghiệm, trong đó chin (9) cái đã
bị vất bỏ. Chỉ còn hai (2) cái được cấy vào bụng người đàn bà,
nhưng cuối cùng cũng chỉ có một (1) cái cho kết quả sinh ra đứa
trẻ gọi là “đầu tiên”này. Như vậy để có được một đứa trẻ, người
ta đã giết chết mất mười (10) đứa
CHƠI CHỮ
Saletan đã mỉa mai: Vậy thì bây giờ chúng ta phải gọi những thử
nghiệm đó là thử nghiệm “tiền thụ thai”, và thai phôi vừa
mới đậu là “tiền phôi” để người ta dễ chấp nhận nó làm
vật thí nghiệm. Lúc đó nghĩa của hai tiếng Thụ Thai[2]
cũng được thay đổi.
Như
vậy theo kiểu nói / định nghĩa của những người làm thử nghiệm
thì nếu ta có sáu cái trứng cấy đậu rồi lại loại bỏ, vất đi khi
đã chọn được đứa nhỏ này. Như vậy là trứng đó chưa bao giờ thụ
thai, và chúng cũng không phải là những phôi.
Vậy
thì giả sử đứa trẻ này được thụ thai tự nhiên và có 50% di tính
dị tật. Do đó nếu nó có di tính của người mẹ thì nó sẽ có nguy
cơ ung thư vú từ 50% đến 85%. Vấn đề đặt ra là một khi đã khám
phá ra được bệnh thì cũng có thể chữa được bệnh chứ tại sao lại
hủy bỏ, giết luôn cả con bệnh?
Saletan đã than trời mỉa mai: “Lựa chọn phôi đã tiến bước xa
từ một bệnh trẻ nít nguy hiểm chết người tới bệnh của người lớn
có triển vọng chữa trị và sống còn.”
Việc nghiên cứu để chọn lựa kiểu này hiện đang phát triển rất
mạnh và rộng rãi trong dân chúng. Chỉ ít ngày sau khi có tin đứa
trẻ đầu tiên được chọn và sinh ra mà không có ung thư vú, tin
trên tờ Scotland Chúa Nhật ngày 18 -1- 2009 đã cho biết là có
hàng trăm cặp vợ chồng xin ghi danh để được có con theo ý muốn
kiểu này.
Dịch vụ thử nghiệm sẽ được trung tâm sinh sản y khoa Glasgow (
GCRM) tung ra thị trường vào khoảng cuối năm nay. Di tính sẽ
được thử nghiệm nơi thai phôi là một (1) trong 200 di tính ẩn
náu bên trong cơ thể, trong đó có di tính ung thư và cystic
fibrosis[3].
Sau khi đã nghiên cứu cẩn thận, bác sĩ chỉ cấy những phôi nào
không có di tính bệnh hoan đặc biệt như ý người muốn. Người đặt
hàng sẽ phải trả 5,500 bảng Anh / pounds cho mỗi một vòng thử
nghiệm. Cho đến nay dịch vụ này chỉ có ở Anh, chưa thấy có ở
phía Bắc biên giới.
Một
phát ngôn viên ẩn danh của Giáo Hội Công Giáo ở Scotland đã nói
với báo chí: “Đây tuyệt nhiên không phải là một phương cách
chữa bệnh mà chỉ là một hình thức giết người từ trong trứng
nước, ngay từ khi sự sống vừa mới xuất hiện. Nó hoàn toàn trái
với luân lý đạo đức, không thể chấp nhận được.”
TUỘT DỐC KHÔNG PHANH
Một
bài viết về loại thử nghiệm như vậy được làm trên một thai phôi
/ hài nhi còn trong bụng mẹ đã gây kinh hoàng trong dân chúng vì
nạn giết hài nhi chưa được diễm phúc nhìn đời. Tờ Sunday Times
ngày 25-1-2009 kể lại những thử nghiệm DNA trong phòng thí
nghiệm để tìm di tính người cha được thực hiện ở những đứa trẻ
vẫn còn trong bụng mẹ.
Tác
giả bài báo cho rằng những loại thử nghiệm như vậy sẽ là cơ hội
rất dễ dàng giúp người mẹ giết con mình chỉ vì thử nghiệm cho
biết con mình là con ngoại hôn.
Vẫn
theo bài viết về DNA này thì dịch vụ thử nghiệm lớn nhất tại Anh
Quốc hiện nay đã thực hiện cả 500 thử nghiệm mỗi năm để tìm di
tính người cha. Tờ Sunday Times cho biết một số bà yêu cầu làm
loại thử nghiệm là để phá thai nếu thử nghiệm cho biết con mình
không phải do ông chồng chính thức.
Josephine Quintavalle, sáng lập viên Trung Tâm Bình Luận về Đạo
Đức Sinh Sản đã nói: “ Đây là một vấn đề rất đáng lo ngại cần
phải quan tâm. Hiển nhiên là khi muốn làm thử nghiệm này là đã
chủ tâm có ý phá thai; người đề nghị thử nghiệm cũng là kẻ
khuyến khích ‘giải pháp’ giết người đó vậy”.
Những người đàn bà / bà mẹ muốn làm thử nghiệm để biết di tính
của người cha của con mình có lẽ cũng có cùng một tâm trạng với
bà Victoria Lambert là người đã viết trên tờ Daily Mail ngày 3 /
5 -1-2009 cảm nghĩ của mình khi phá thai vì đứa nhỏ bị dị tật.
Bác sĩ đã khám phá ra con bà lúc mới được 3 tháng bị trisomy 13
hay còn gọi là hậu chứng Patau’s[4].
Nhiều đứa trẻ bị bệnh này chết khi vừa sinh ra hay ít lâu sau
đó, nhưng có đứa cũng sống được đến tuổi trưởng thành.
Phá
thai, giết con -bà viết- vẫn là những ám ảnh để lại trong lòng
bà những áy náy sầu muộn khôn nguôi. Nói gọn lại:
“Quyết định của tôi -bà viết- đã đưa tới những hậu quả
trầm trọng là hối hận, dằn vặt đã hành hạ cả tâm can lẫn thể xác
tôi suốt 9 năm trời”.
Sau
đó bà Lambert tiếp tục tả lại quãng đời của bà. Sau lần phá thai
đó, ít năm sau bà lại mang thai trở lại, lúc đó bà đã gần 40
tuổi. Nhà thương đề nghị bà thử nghiệm thai nhưng bà đã từ chối.
Bà nói:
- Khi tôi quyết định không thử nghiệm thai, dù để xem có
phải là hậu chứng Down’s hay gì khác, lòng tôi hết lo lắng thắc
mắc về đứa con của mình nó sẽ thế nào. Nhưng có điều chắc chắn
nó sẽ là con của chúng tôi. Chừng nào nó sinh ra mà còn sống cho
dù có bất cứ cái gì không may xẩy ra, chúng tôi cũng vẫn có thể
đương đầu được”.
Bà
kết luận:
- Trong khi có nhiều thử nghiệm thai làm các nhà khoa
hoc hứng chí bao nhiêu thì lại càng có nhiều nguy hiểm trầm
trọng xẩy ra bấy nhiêu. Các thử nghiệm càng đơn giản và dễ thực
hiện thì lại càng giúp người ta quyết định giữa sống và chết
càng dễ dàng và rồi cũng càng…dễ đi tới ăn năn hối hận.”.
KẾT LUẬN:
Điều răn thứ 5 Chúa dạy “Chớ Giết Người”. Kẻ
sát nhân và những ai cố ý cộng tác với hành vi giết người đều
phạm một tội như nhau. Tội giết trẻ thơ,……..cũng là một tội
nặng. Những tính toán về giống tốt hoặc về y tế công cộng cũng
không thể biện minh cho bất cứ một tội sát nhân nào được, dù nó
được nhà cầm quyền ra lệnh hay cho phép. (Sách Giáo lý CG
câu 2268).