THẦN ĐÔ HUYỀN NHIỆM
* CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ RAO GIẢNG, * MẸ MARIA CHĂM SÓC CON CÁI MỚI CỦA GIÁO HỘI Cư dân và du khách khắp Jerusalem sửng sốt vì các biểu hiệu rõ ràng công khai việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Giáo Hội sơ khai. Khi tin tức về các sự việc lạ lùng xảy ra tại Nhà Tiệc Ly được loan truyền, nhiều nhóm người tới để biết thêm sự việc (Tđcv2:6). Vì hôm đó là một ngày trong tuần lễ trọng của người Do Thái đang được cử hành, và vì ân sủng đặc biệt từ thiên đàng, Jerusalem đầy khách hành hương từ khắp các nước khác tụ về. Đấng Tối Cao muốn biểu lộ các điều lạ lùng của việc rao giảng truyền bá Luật Ân Sủng mới, mà Ngôi Lời Nhập Thể, Chúa Cứu Thế Chúa chúng ta, đã ban để cứu chuộc nhân loại. Bừng cháy lửa yêu mến do Ơn Chúa Thánh Thần và biết mọi người ở Jerusalem đang tụ họp trước cửa Nhà Tiệc Ly, các thánh Tông Đồ đã xin Mẹ Maria cho các ngài ra ngoài rao giảng cho những người được Chúa Thánh Thần dẫn tới. Các ngài ước ao rao giảng về Chúa Cứu Thế và Ơn Cứu Chuộc ngõ hầu các ân sủng vĩ đại của Chúa Thánh Thần không bị một giây phút nào không đem lại phúc lộc đầy tràn cho các linh hồn và vinh danh Thiên Chúa. Tất cả các thánh Tông Đồ đều ra khỏi Nhà Tiệc Ly, rao giảng các mầu nhiệm đức tin và sự sống đời đời cho các người tụ họp. Mặc dầu trước kia nhút nhát thầm lặng, bây giờ các ngài hiên ngang tiến ra và hùng hồn nói những lời bốc cháy như tia lửa xuyên thấu tâm hồn người nghe. Tất cả mọi người, gồm nhiều ngôn ngữ khác nhau tụ họp tại Jerusalem ngày đó, đều nghe các thánh Tông Đồ nói thổ ngữ của họ. Việc này cùng với giáo lý các thánh Tông Đồ rao giảng tạo ra sự lạ lùng cao cả. Tuy nhiên tác giả xin lưu ý rằng: do Ơn Chúa Thánh Thần, các thánh Tông Đồ có thể nói ngôn ngữ mọi dân tộc vì nhu cầu rao giảng Phúc Âm, nhưng dịp đó các ngài đều nói tiếng Do Thái. Mặc dầu chỉ nói tiếng Do Thái, lời các thánh Tông Đồ được mọi người thuộc các quốc gia dân tộc khác nhau hiện diện hiểu rõ ràng, chẳng khác gì các ngài nói nhiều ngôn ngữ khác nhau (Tđcv 2:9). Chúa làm phép lạ này để lời các thánh Tông Đồ rao giảng được mọi người thuộc mọi quốc gia chủng tộc nghe hiểu và tin theo. Thánh Phêrô chỉ giảng một lần mà tất cả mọi người hiện diện đều nghe hiểu theo ngôn ngữ của mình, việc này cũng được thể hiện cho các thánh Tông Đồ khác. Những người nghe các thánh Tông Đồ nói đã không hiểu phép lạ này, mặc dầu họ ngạc nhiên vì mỗi người nghe được lời rao giảng bằng chính ngôn ngữ hàng ngày của mình. Nhưng phép lạ và sự ngạc nhiên này tùy theo tâm trạng từng người. Những người sốt sắng lắng nghe nhận được ơn hiểu biết sâu xa về Thiên Chúa và Ơn Cứu Chuộc, đã mau mắn nhiệt thành đáp ứng. Những người này được làm cho tha thiết ước ao hiểu biết chân lý. Nhờ ánh sáng thần linh, họ thực lòng ăn năn thống hối, tha thiết ước ao được Chúa thương xót tha thứ. Những người này xin các thánh Tông Đồ cho biết phải làm gì để được sống đời đời. Những người khác, trái tim chai đá, không xúc động trước chân lý thánh thiêng được rao giảng cho họ, đã phẫn nộ đối với các thánh Tông Đồ, mà thay vì khuất phục, họ gọi các thánh Tông Đồ là những người cải cách phiêu lưu. Nhiều người Do Thái, cuồng tín ngỗ nghịch hơn nữa, vong ân bội bạc và đố kị, công kích các thánh Tông Đồ, họ nói các ngài say rượu và điên khùng (Tđcv 2:13). Ba ngàn người, trong số những du khách thuộc nhiều quốc gia từ khắp thế giới tụ về Jerusalem dịp đó, đã tin Chúa Cứu Thế nhờ lời rao giảng của thánh Phêrô. Mọi dân tộc có thể được dự phần các kết quả Ơn Cứu Chuộc, tất cả có thể được qui tụ trong Giáo Hội; tất cả mọi người có thể được hưởng Ơn Chúa Thánh Thần; vì Giáo Hội phải qui tụ bao gồm mọi quốc gia dân tộc. Trong số này, nhiều người Do Thái đã xót thương chứng kiến Chúa chịu khổ hình và một số, từng góp phần vào Khổ Hình của Chúa, cũng đã trở lại, tuy nhiên rất ít, vì nhiều người không chịu thay đổi tâm tình. Nếu tất cả những người đó đều thay đổi tâm tình, hẳn họ đã được Chúa thương xót tha thứ. Sau khi giảng thuyết, các thánh Tông Đồ lui về Nhà Tiệc Ly tường trình mọi việc với Đức Hiền Mẫu Maria. Rất đông con cái mới của Giáo Hội theo các thánh Tông Đồ vào Nhà Tiệc Ly để có thể nhận và tôn kính Đức Hiền Mẫu. Mẹ Maria biết rõ mọi việc xảy ra. Từ phòng tĩnh tâm, Mẹ nghe rõ lời các thánh Tông Đồ giảng, Mẹ biết rõ tinh thần và tư tưởng thầm kín của tất cả những người nghe giảng. Suốt thời gian này, Đức Hiền Mẫu phủ phục trên đất tha thiết cầu nguyện cho việc trở lại của tất cả những người tin theo Chúa Cứu Thế, cho toàn thể các người khác, nếu họ thuận cộng tác với ơn trợ giúp và thánh sủng. Để giúp các thánh Tông Đồ rao giảng, và cho những người nghe lời các thánh Tông Đồ được đức tin, Mẹ Maria gởi nhiều thiên thần đem những ơn thúc đẩy khuyến khích tới cho các thánh Tông Đồ, cho các ngài sức mạnh để làm sáng tỏ hơn nữa các mầu nhiệm về nhân tính và Thiên Tính Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Khi các thánh Tông Đồ trở lại bên Mẹ dẫn theo những hoa trái đầu tiên của Ơn Chúa Thánh Thần và lời các ngài rao giảng, Mẹ Maria đón tiếp mọi người với niềm vui vẻ dịu dàng nhân từ của hiền mẫu. Thánh Phêrô nói với những người mới trở lại: “Thưa anh chị em, đây là Đức Hiền Mẫu Chúa Cứu Thế, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng là Thiên Chúa thực và là người thực. Đức Hiền Mẫu đã cho Chúa hình hài nhân loại, đã cưu mang và sinh ra Chúa mà vẫn nguyên vẹn là Trinh Nữ trước khi, trong khi và sau khi sinh Chúa. Anh chị em hãy nhận Mẹ là Hiền Mẫu, là Nơi Nương Náu, là Đấng Bầu Cử anh chị em, vì qua Đức Hiền Mẫu, anh chị em và chúng tôi nhận được ơn soi sáng, chỉ dạy, được cứu khỏi tội lỗi và những khốn khổ của chúng ta.” Nghe lời thánh Tông Đồ và nhìn thấy Mẹ Maria, các tín hữu mới này được muôn vàn ơn soi sáng và an ủi. Tất cả các tân tòng đến quì trước mặt Mẹ, tha thiết xin Mẹ giúp đỡ và chúc lành. Mẹ Maria tránh việc mọi người quì nơi chân Mẹ xin Mẹ chúc lành. Vì thế thánh Phêrô nói với Mẹ Maria: “Thưa Đức Hiền Mẫu, xin Mẹ đừng từ chối các tín hữu này điều họ tha thiết xin cho sự an ủi linh hồn.” Mẹ Maria khiêm tốn thi hành lời Vị Thủ Lãnh Giáo Hội. Tình yêu tràn đầy tâm hồn các tín hữu tân tòng khiến họ ước ao nghe chính Đức Hiền Mẫu nói lời khích lệ. Vì họ thấy Mẹ Maria đã nhún nhường tuân phục đối với thánh Phêrô, mọi người hướng sang thánh Phêrô yêu cầu ngài xin Mẹ Maria đừng để họ ra về mà không được nghe lời Mẹ. Thánh Phêrô cho rằng đặc ân này rất thích hợp cho các linh hồn mới được tái sinh trở về với Chúa Kitô, ngài cũng ý thức rằng Mẹ Khôn Ngoan biết rõ việc gì cần phải làm, nên ngài mạo muội vắn tắt nói: “Thưa Đức Hiền Mẫu, xin Mẹ nghe các lời khẩn khoản của các con cái Mẹ.” Mẹ Maria vâng lời, nói với các tân tòng: “Anh chị em hết sức yêu quí trong Chúa, xin anh chị em hết lòng cảm tạ và chúc tụng Thiên Chúa Toàn Năng. Giữa muôn người, Thiên Chúa đã kêu gọi và dẫn anh chị em tới con đường đích thực của cuộc sống vĩnh cửu trong ơn nhận biết đức tin thánh mà anh chị em mới nhận được. Xin anh chị em kiên trì thành tâm tuyên xưng đức tin, tin theo mọi điều bao gồm trong Luật Ân Sủng đã được Chúa Giêsu rao giảng và ấn định. Chúa Giêsu là Con và là Chúa Cứu Chuộc tôi. Xin anh chị em nhiệt thành nghe và vâng theo các Tông Đồ của Chúa, các vị này giảng dạy, chỉ bảo anh chị em, ngõ hầu anh chị em được niêm ấn trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Nhiệm Tích Thanh Tẩy. Tôi tự nguyện làm nữ tì giúp đỡ anh chị em trong mọi điều để an ủi khích lệ anh chị em. Tôi sẽ xin Chúa là Cha nhân từ nhìn nhận anh chị em, cho anh chị em hạnh phúc hưởng thánh nhan Chúa.” Nhờ lời Mẹ Maria, các con cái mới của Giáo Hội được an ủi; được ơn soi sáng, tôn kính ngưỡng mộ Mẹ. Các tân tòng lại xin Mẹ chúc lành. Các tân tòng ra về được canh tân và tràn đầy ân sủng Đấng Tối Cao. Từ ngày đó trở đi các thánh Tông Đồ, các môn đệ, tiếp tục rao giảng và làm phép lạ. Suốt tám ngày sau ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống, các ngài không phải chỉ dạy dỗ ba ngàn người trở lại trong ngày Lễ Hiện Xuống, mà còn giảng dạy cho vô số người khác ngày lại ngày tiếp thêm nhận được đức tin Chúa Cứu Thế. Những người này từ khắp nơi trên thế giới tụ về nên các thánh Tông Đồ và môn đệ nói với họ bằng ngôn ngữ riêng từng người. Ơn nói nhiều thứ tiếng khác nhau được ban cho tất cả mọi người hiện diện tại Nhà Tiệc Ly khi Chúa Thánh Thần ngự xuống, tuy nhiên ơn này đầy đủ và mạnh mẽ hơn nơi các thánh Tông Đồ. Vì số người trở lại rất đông, đặc ân nói nhiều ngôn ngữ rất cần thiết cho giai đoạn này. Mặc dầu tất cả mọi người đến với các thánh Tông Đồ, nhiều phụ nữ, sau khi nghe các thánh Tông Đồ giảng, đã đến với thánh Maria Magdalena và các bạn của bà. Các bà dạy giáo lý, huấn dụ họ. Nhiều người khác trở lại do chứng kiến phép lạ các nữ môn đệ thánh thiện này đã làm. Đặc ân làm phép lạ cũng được ban cho các nữ môn đệ. Các bà đã chữa lành mọi bệnh tật, làm cho người mù sáng mắt, người câm nói được, người tật nguyền đi đứng cử động bình thường, và cho nhiều người chết sống lại. Những phép lạ do các thánh Tông Đồ, các môn đệ nam nữ, thực hiện đã tạo ra sự ngạc nhiên lạ lùng khắp Jerusalem, đến độ khắp nơi người ta chỉ nói đến những sự lạ lùng và việc rao giảng của các Tông Đồ, các môn đệ và những người theo giáo lý Chúa Kitô. Đây là bước khởi đầu hạnh phúc, thời kỳ vàng son của Giáo Hội truyền giáo. Dòng ân sủng và đặc ân Chúa Thánh Thần vun tưới địa đàng mới được chính Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc, gieo trồng, và cây trường sinh là Mẹ Maria rất thánh đứng ở giữa vườn. Khi đó đức tin sống động, cậy trông vững chắc, bác ái yêu thương nồng nàn, chân thành chính trung, khiêm nhượng thực lòng, công bằng ngay thẳng nhất, các tín hữu không tham lam cũng không theo đuổi phù vân. Mọi người chà đạp dưới chân các phù hoa hư ảo, không ai mắc phải lòng thèm khát trần tục, kiêu căng và cao vọng. Trong phần này tác giả chỉ xin kể lại một phần hết sức nhỏ các việc lạ lùng vĩ đại mà Mẹ Maria đã thực hiện nơi Giáo Hội sơ khai. Mẹ đã không hề nghỉ ngơi hoặc bỏ một giây phút hoặc cơ hội nào để ban đặc ân cho toàn Giáo Hội hoặc cho con cái Giáo Hội. Mẹ khuyến khích, chỉ dạy, khuyên bảo, và phân phát mọi ân sủng Thiên Chúa cách quảng đại cho mọi con cái Giáo Hội. Sự may mắn của những người sống trong thời kỳ đại hạnh phúc, những năm tháng Mẹ Maria còn ở trần gian sau khi Chúa Giêsu về thiên đàng, có thể tạo ra lòng ganh đua thánh thiện nơi những người sống trong ánh sáng đức tin thuộc các thời đại về sau và ít được ưu ái hơn. Sự thực là chúng ta không được hạnh phúc sống đồng thời với Mẹ Maria, không được thấy Mẹ, không được nói chuyện với Mẹ và nghe Mẹ nói bằng chính những giác quan thân xác chúng ta. Tuy nhiên chúng ta cần nhớ rằng trong kiến thức và tình yêu thương của Đức Hiền Mẫu Maria yêu dấu, tất cả chúng ta đều hiện diện với Mẹ, ngay trong những ngày đó. Mẹ thấy và biết tất cả chúng ta theo trật tự và sự nối tiếp theo đó chúng ta sinh ra trong Giáo Hội. Mẹ cầu bầu cho chúng ta cùng mức độ Mẹ cầu nguyện cho những người sống đồng thời với Mẹ. Bây giờ trên thiên đàng Mẹ không kém thế lực hơn khi còn ở trần gian. Mẹ cũng không kém là mẹ đối với chúng ta như đối với các con cái đầu tiên của Giáo Hội. Nhưng tiếc thay, đức tin, lòng sốt mến và tận hiến của chúng ta lại quá khác biệt! Không phải Mẹ Maria thay đổi, tình yêu của Mẹ không bớt nồng nàn, chúng ta được hưởng lời Mẹ cầu bầu và bảo vệ không kém các tín hữu thời giáo hội sơ khai. Nếu trong những lúc khó khăn chúng ta mau mắn chạy đến Mẹ cũng với lòng khiêm tốn, sốt mến, xin Mẹ cầu bầu và thực tâm ký thác trông cậy Mẹ giúp đỡ như các Kitô hữu nhiệt thành trong thời kỳ đầu, chắc chắn không thể hoài nghi toàn thể Giáo Hội Công Giáo sẽ lập tức được hưởng cũng sự trợ giúp mạnh mẽ vô biên của Mẹ Maria. Nhiều người trong số các tân tòng xúc động vì sự cao cả của Mẹ Maria đã trở lại dâng cho Mẹ nữ trang và tặng vật quí giá. Nhiều phụ nữ nhiệt thành đã tự ý trút bỏ y phục lộng lẫy, đặt các thứ đó nơi chân Mẹ. Nhưng Mẹ Maria không nhận một thứ nào trong các tặng vật này. Khi Mẹ thấy không tiện từ chối toàn thể các thứ này, Mẹ gợi ý các nữ tín hữu hảo tâm đem các tặng vật đó tới cho các thánh Tông Đồ, để các ngài phân phát cách công bằng chính đáng trong công tác bác ái cho các tín hữu nghèo khó nhất. Mẹ Maria khiêm tốn thành tâm cảm tạ những người này chẳng khác gì họ đã cho chính Mẹ. Các người nghèo khó và đau yếu được Mẹ Maria đón tiếp với lòng nhân từ bao la. Mẹ chữa nhiều người khỏi những tật bệnh thâm căn cố đế họ phải chịu lâu ngày. Qua thánh Gioan, Mẹ cung cấp cho họ nhiều ơn bề trong. Mẹ không bao giờ bỏ sót một điểm nhỏ thánh đức nào. Trong khi các thánh Tông Đồ và môn đệ bận bịu suốt ngày rao giảng đức tin, Mẹ Maria đích thân chuẩn bị lương thực và tiện nghi cho các ngài. Khi tới giờ ăn, Mẹ quì gối phục vụ cơm nước cho các linh mục (thánh Tông Đồ); với lòng khiêm nhượng kính trọng thẳm sâu Mẹ hôn tay các ngài. Việc kính trọng này Mẹ đặc biệt dành cho các thánh Tông Đồ vì Mẹ biết và thấy linh hồn các ngài được củng cố bằng thánh sủng, được phú cho mọi ơn Chúa Thánh Thần, được ca ngợi do địa vị là linh mục thượng tế, là những người gầy dựng Giáo Hội (Eph 2:20). Đôi khi Mẹ Maria thấy các thánh Tông Đồ được bao bọc trong hào quang rực rỡ. LỜI MẸ MARIA
Con của Mẹ, trong những điều con đã được cho biết về những biến cố kể lại trong chương này, con sẽ nhận thấy nhiều điều huyền nhiệm trong ơn tiền định cho các linh hồn. Con hãy tin rằng Ơn Cứu Chuộc hết sức phong phú, đủ để cứu chuộc cả loài người (Rom 5:20). Chân lý được tỏ hiện cho mọi người, cho những người nghe lời rao giảng hoặc nhìn thấy các hiệu lực của việc Thiên Chúa Làm Người đến trần gian. Không kể việc rao giảng và sự hiểu biết về phương dược cứu chuộc, mọi người nhận được ơn thúc đẩy trợ giúp ngõ hầu tìm kiếm và chấp nhận phương tiện cứu chuộc. Con ngạc nhiên rằng, mặc dầu được ơn trợ giúp này, trong vô số người tại Jerusalem chỉ có ba ngàn người được ơn trở lại nhờ bài giảng thứ nhất của thánh Tông Đồ. Điều đáng ngạc nhiên hơn là ngày nay quá ít người trở lại theo con đường hằng sống, mặc dù Phúc Âm được phổ biến rộng rãi hơn, việc rao giảng thường xuyên hơn, thừa tác đông số hơn, ánh sáng của Giáo Hội rõ ràng hơn, sự hiểu biết về các mầu nhiệm Thiên Chúa khẳng định hơn. Vì nhân loại đui mù đối với tất cả các ơn này, trái tim họ chai đá hơn, kiêu căng ngạo mạn hơn, tham lam ngoan cố hơn; người ta thực hành mọi tật xấu ác độc mà không chút kính sợ Thiên Chúa và không chút suy nghĩ. Nhân loại không thể kêu ca sự an bài tối cao và công bằng vô cùng của Chúa, Đấng ban cho mọi người và cho từng người lòng nhân từ hiền phụ. Chúa chỉ rõ cho người ta thấy cả hai con đường sống và chết. Nếu người nào làm cho trái tim họ chai đá, Thiên Chúa có thể cho phép việc đó xảy ra theo đức công bằng khe khắt nhất. Những người bị trầm luân không thể đổ lỗi cho ai ngoại trừ chính họ. Nếu về sau, khi không còn chút thời gian nào, họ mới luyến tiếc những ân huệ dành cho họ thì đã quá trễ. Thời gian ngắn ngủi trong cuộc đời chuyển tiếp này được ban cho để họ làm cho mình đáng được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng họ đã bưng mắt bịt tai trước chân lý và ánh sáng. Họ nghe theo ma quỉ, tự nguyện theo mọi điều xúi giục ác độc của nó. Họ giày xéo lòng nhân từ đại lượng của Chúa. Họ lấy cớ gì để chối tội? Họ không biết tha thứ điều làm thương tổn họ mà lập tức tìm cách báo thù việc xúc phạm nhỏ bé nhất. Để làm giàu thêm, họ xuyên tạc đảo lộn toàn thể trật tự lý luận và tình huynh đệ tự nhiên. Vì khoái lạc mau qua, họ quên đi những đau khổ đời đời. Để thêm vào điều này, họ khinh thường những lời cảnh cáo, những trợ giúp và răn dạy được Thiên Chúa gởi tới để đánh động lòng lo sợ hình phạt trầm luân đời đời, thúc giục họ xa lánh hình phạt đó. Làm sao họ có thể đổ lỗi cho lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa được? Hỡi nhân loại, những kẻ phạm tội chống lại Thiên Chúa, hãy thức tỉnh. Không ăn năn thống hối thì không có ân sủng. Không cải đổi thì không có tha thứ. Không có tha thứ thì không có vinh quang. Chúa luôn sẵn sàng ban các ơn này cho người xứng đáng. Thiên Chúa luôn sẵn sàng ban lòng nhân từ thương xót cho bất cứ ai tìm kiếm. |