Tiến tŕnh phong thánh được tiến hành như thế nào
đối với ĐHY Nguyễn Văn Thuận
và Cha Trương Bửu Diệp
Từ ngữ: tuyên thánh đúng hơn là phong thánh: Từ phong thánh quen
dùng trong tiếng Việt, nguyên ngữ từ tiếng Hy Lạp “Kanon” có
nghĩa là thước đo hay tiêu chuẩn hay được nh́n nhận là có giá
trị. Ư nghĩa nầy được t́m thấy trong động từ canonizare của
tiếng La tinh, rồi canoniser trong tiếng Pháp và Canonize trong
tiếng Anh
Những tín hữu trong thế kỷ đầu đă phong thánh cho các Tông Đồ
khi gọi các Ngài là Thánh. Những vị tử đạo cũng được gọi là
thánh. Rồi những thế kỷ kế tiếp, những giáo dân có đời sống
thánh thiện, nêu gương sáng và thành mực thước cho người đời
cũng được tuyên bố “đang ở trên thiên đàng” tức là thánh.
Như vậy theo từ Kanon và theo truyền thống, Giáo Hội không hề
phong thánh hay không hề làm cho ai thành thánh cả. Giáo Hội,
qua thời gian cầu nguyện lâu dài và qua những phép lạ được thực
hiện nhờ lời chuyển cầu của những giáo dân đă chết và đă từng có
đời sống thánh thiện, đă tuyên bố là những vị nầy đang ở trên
trời với Chúa, tức họ là Thánh.
Vai tṛ của Giáo Hội là tuyên thánh, tức chính thức tuyên bố
rằng: Ông A, bà B, hay Đức Cha C, hay linh mục D hay tu sĩ G . .
. đă có đời sống thánh thiện khi c̣n sống và đang ở trên trời
với Chúa. Từ nay họ được kanon, tức thành mẫu mực đáng cho chúng
ta kính trọng, bắt chước và được cho vào danh sách phụng vụ chư
thánh.
Tiến tŕnh tuyên thánh
Bài viết dựa theo:
1. Những thông tin được Văn Pḥng báo chí Vatican phổ biến ngày
12.9.1997
nhằm cắt nghĩa những điều lệ liên quan đến vấn đề tuyên thánh
được qui định trong Tông huấn Divinus Perfectionis Magister, do
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.1.1983.
2. “Special Problems in Canon Law III – Canonizations, do linh
mục Roland Jacques, omi. tức Cha Dương Hữu Nhân,
Cha Giáo Sư và Khoa Trưởng Giáo Luật Đại Học St. Paul ở Ottawa
soạn và dạy trong niên khoá 2007-2008.
3. Cha Giáo Dương Hữu Nhân đă có công rất lớn trong việc vận
động tuyên phong Chân Phước cho Thầy Giảng Anrê Phú Yên,
sinh năm 1625, mà Cha Nhân gọi là người Anh cả trong hàng các
Thánh Tử Đại Việt Nam, chết ngày 26.7.1644. Đức Thánh cha Gioan
Phaolô II đă tuyên phong chân phước cho Anrê Phú Yên ngày
5.3.2000 tại quảng trường Thánh Phêrô, Rôma.
Giai đoạn sơ khởi và những yếu tố căn bản cần biết.
1. Ứng viên tuyên thánh phải là một người Công Giáo hay dự ṭng
đă chết,
tức đang ở trên thiên đàng. Không có vấn đề tuyên thánh cho ai
c̣n đang sống.
2. Dư luận thuận lợi,
kéo dài, công khai và mạnh mẽ về đời sống thánh thiện hay gương
anh hùng tử đạo của ứng viên. Nếu có trở ngại và chống đối không
thể vượt qua được, xin sớm huỷ bỏ tiến hành án tuyên thánh. Chỉ
nên bắt đầu sau khi ứng viên đă chết đủ năm năm.
Mẹ Chân Phước Têrêsa thành Calcutta chết ngày 5.9.1997 và được
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước ngày
19.10.2003, tức sau sáu năm 1 tháng và 14 ngày.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chết ngày 2.4.2005 và sẽ được
tuyên phong chân phước ngày 1.5.2011, tức sau sáu năm một tháng.
3. Phải có thỉnh nguyện viên yêu cầu lập án tuyên thánh.
Thỉnh nguyên viên có thể là: cá nhân một giáo dân, một nhóm giáo
dân, một tổ chức có tư cách pháp nhân như giáo xứ, địa phận, Hội
Đồng Giám Mục địa phương hay một bộ ở Giáo triều Rôma được thiết
lập bởi Giáo Luật hay bởi Giáo quyền có thẩm quyền.
4. Giám Mục địa phận ex officio tức Giám Mục địa phương đương
quyền.
Tuy nhiên, ngài nên tránh khởi án tuyên thánh v́ Ngài sẽ phải là
chánh án trong toà án địa phận.
5. Cáo thỉnh viên (postulator) thường là một linh mục,
được yêu cầu và được uỷ thác để chuẩn bị và tŕnh bày thỉnh
nguyện tuyên thánh: Phải được thỉnh nguyện viên yêu cầu và Giám
Mục thẩm quyền chấp thuận; Phải thu tập tất cả những ǵ có liên
quan đến ứng viên tuyên thánh: tiểu sử, văn từ, nhân chứng,
chứng từ, h́nh ảnh…. Phải chịu trách nhiệm tài chánh để chi trả
cho tiến tŕnh tuyên thánh. Khi án tuyên thánh tiến sang giai
đoạn ở Roma, cần một tân cáo thỉnh viên thường trú ở Roma để ứng
phó với mọi t́nh huống liên quan đến vụ án.
6. Thường có hai loại nhân chứng:
Nhân chứng de visu tức chứng kiến tận mắt và nhân chứng de
auditu, nhân chứng được nghe từ nhân chứng de visu. Không chấp
nhận nhân chứng de auditu ab audientibu tức nhân chứng nghe lại
từ nhân chứng de auditu. Không giới hạn số nhân chứng, tuy
nhiên, có một số người không được làm nhân chứng được như: Cáo
thỉnh viên hay phó cáo thỉnh viên vụ án, viên chức trong toà án
tuyên thánh cấp địa phận, cha giải tội và cha linh hướng của ứng
viên.
7. Cáo thỉnh viên chính thức đệ tŕnh bằng văn bản với Giám Mục
đương nhiệm
những ǵ có liên quan đến ứng viên: tiểu sử, nhân đức trổi vượt
hay chứng từ tử đạo, dư luận thuận lợi, văn từ đă xuất bản và
chưa xuất bản, danh sách nhân chứng, những “sự lạ” nghĩ là đă
được Chúa nhậm lời qua lời chuyển cầu của ứng viên và cả những
bất lợi nếu có… và xin Ngài cho phép tiến hành án tuyên thánh.
Giai đoạn I:
thiết lập án tuyên thánh cấp địa phận
1.Giám Mục địa phận đương quyền nên hỏi ư kiến của các Giám Mục
địa phận phụ cận, các Giám Mục trong Giáo tỉnh hay ngay cả Hội
Đồng Giám Mục về việc thực hiện tiến tŕnh tuyên thánh. Phổ biến
công khai thỉnh nguyện tuyên thánh cho ứng viên. Sau đó, Ngài
cho thiết lập uỷ ban giám sát (board of inquiry) gồm những linh
mục có kiến thức thần học, giáo luật và lịch sử để bảo đảm cho
tiến tŕnh hợp luật.
2.Sau khi đă có nhận được những xét đoán khôn ngoan thuận lợi,
Giám Mục địa phận cho triệu tập giáo dân, tuyên bố chính thức
thực hiện tiến tŕnh tuyên thánh cho ứng viên được thỉnh nguyện.
3.Những thần học gia được chỉ định để nghiên cứu những văn từ
của ứng viên tuyên thánh liên hệ đến đức tin và luân lư. Những
sử gia và văn khố viên có nhiệm vụ tŕnh bày về sự xác thực, giá
trị của những văn từ và cả nhân cách của ứng viên qua những văn
từ nầy.
4.Giám Mục thẩm quyền để cử Công tố Viên (promotor iustitiae) để
xem xét về kết quả những nghiên cứu trên những văn từ của ứng
viên. Công tố Viên có thể nêu những thắc mắc với Uỷ Ban Giám
Sát. Sau khi không thấy có ǵ trở ngại, Đức Giám Mục địa phận
cho phép phổ biến h́nh ảnh cũng như tiểu sử của Ứng Viên tuyên
thánh trong Giáo phận ḿnh.
5.Giám Mục địa phận gửi tất cả những tài liệu, án từ đến Bộ
Tuyên Thánh Roma (Congregation for the Causes of Saints). Tài
liệu phải được uỷ viên thư kư địa phận kư tên và đóng dấu trên
từng trang. Bộ Tuyên Thánh của Rôma sẽ liên hệ với Bộ Giáo Lư
Đức Tin (Congregation for the Doctrine of the Faith) và những
văn pḥng ở Toà Thánh có liên quan. Sau khi không nhận được một
phản kháng nào, bộ tuyên thánh sẽ ra văn thư gọi là Nihil
obstat, tức không có ǵ trở ngại, gửi cho Đức Giám Mục địa phận
và cho phép tiếp tục tiến hành vụ án tuyên thánh.
Giai đoạn II:
Danh hiệu “Đầy Tớ Chúa” và tiến hành
giám sát về nhân đức hay việc tử đạo.
1. Sau khi nhận được Nihil Obstat từ bộ Tuyên Thánh, Giám Mục
đương quyền ra quyết định chính thức:
a) Nh́n nhận và tuyên bố ứng viên là Đấy Tớ Chúa.
b) Thiết lập toà án cấp địa phận gồm có:
chánh án (được hiểu là Giám Mục địa phận, tuy nhiên Ngài nên bổ
nhiệm một linh mục có khả năng thần học, giáo luật và lịch sử
đảm trách thay thế ngài); Công tố viên và vài Lục sự.
c) Thẩm phán có nhiệm vụ thăm viếng mộ phần của Đầy tớ Chúa
và không nên chấp nhận những sùng bái nếu có. Thẩm phán phải
theo những nguyên tắc Giáo Luật qui định về việc phỏng vấn nhân
chứng ở những điều khoản 1548, 1553, 1558 và 1559.
d) Công tố viên:
Phải là một linh mục thông thạo thần học, giáo luật và lịch sử
và được Đức Giám Mục địa phận bổ nhiệm, GL. 1435. Nhiệm vụ: hiện
diện trong tất cả mọi phiên toà, tra xét mọi chứng từ, kư nhận
và bảo đảm tiến hành hợp luật.
e) Lục sự:
có thể là một giáo dân có tiếng tốt được chỉnh định bởi Giám Mục
hay chưởng ấn địa phận. Nhiệm vụ: ghi chép đúng nguyên văn lời
khai, hành động và chứng từ.
f) Thiết lập bản câu hỏi:
Có chuyên viên thiết lập bản câu hỏi và thông qua với uỷ ban
Giám Sát địa phận. Không được trao bản câu hỏi cho nhân chứng
trước. Nên cho nhân chứng thấy tiến tŕnh thời gian cuộc đời của
Đầy Tớ Chúa để theo dơi và cung cấp chứng từ cụ thể.
2. Phiên họp mở màn
(Không nên diễn ra long trọng tại nhà thờ chánh toà nhằm tránh
mọi ngộ nhận rằng: Đầy tờ Chúa đă được tuyên thánh): Giám Mục
địa phận xác định việc bổ nhiệm: Chánh án, công tố viên, lục sự
và uỷ viên giám sát. Giám Mục nhận lời thế của các viên chức toà
án. Chưởng ấn kư nhận. Giới thiệu nhân chứng. Xác định chỗ lấy
chứng từ. Có thể mời gia đ́nh của Đầy tớ Chúa tham dự phiên họp
mở màn nầy.
3. Thể thức sát hạch nhân chứng:
Tất cả đều phải thề nói sự thật và chỉ sự thật. Chỉ có chánh án,
công tố viên, lục sự và nhân chứng hiện diện. Giám Mục (nếu
không là chánh án) và cáo thỉnh viên không được hiện diện. Giữ
Giáo Luật các điều khoản 1539, 1547 và 1574 để có những chứng từ
xác thực. Nhân chứng và công tố viên phải kư nhận trên từng
trang chứng từ. Nếu có sửa chữa, công chứng viên và nhân chứng
phải kư nhận. Sau cùng, lục sự đọc lại chứng từ và kư nhận.
4. Kết thúc giai đoạn giám sát nhân chứng cấp địa phận:
a) Gom góp tất cả những dữ kiện, chứng từ,
sửa đổi, ghi chú, duyệt xét, đọc lại và tất cả thành viên toà án
và nhân chứng thề rằng: đă cung cấp chứng từ thật.
b) Chánh án, công tố viên, lục sự đi viếng phần mộ
cũng như những nơi được nhân chứng đề cập có liên quan đến Đầy
tớ Chúa.
c) Hồ sơ, tài liệu được lập thành ba bản:
Nguyên bản (archetypum) được niêm phong và lưu giữ ở văn khố Toà
Giám Mục địa phận. Hai phó bản được lục sự đóng dấu, kư tên và
gửi sang sang Roma. Một bản gọi là transumptum gởi đến bộ tuyên
Thánh và giữ ở văn khố. Bản c̣n lại cũng gửi đến bộ tuyên thánh
nhưng được trao cho cáo thỉnh viên hay những ai đang nghiên cứu
về án tuyên thánh khảo sát.
d) Cáo thỉnh viên có nhiệm vụ mang sang Roma và trao cho bộ
tuyên thánh:
Lá thư gửi cho bộ trưởng bộ tuyên thánh. Hai phó bản do toà án
địa phận thiết lập đă nói. Sách viết, thủ bản, văn thư, chứng từ
của đầy tớ Chúa.. Tất cả được gọi là instrumentum được chứa
trong một hộp, niêm phong gọi là clausurae. Án từ đă gửi đi, kết
thúc giai đoạn tiến tŕnh tuyên thánh cấp địa phận.
Giai đoạn III:
Tiến tŕnh án tuyên thánh ở Roma
Không qua đường bưu điện, nhưng Cáo thỉnh viên phải mang hộp
niêm phong tài liệu từ địa phận sang Roma. Yêu cầu Bộ tuyên
thánh nhận và ra quyết định cho tiếp tục án tuyên thánh ở Roma.
Tân cáo thỉnh viên được thỉnh nguyện viên chỉ định và được bộ
tuyên thánh nh́n nhận. Tân cáo thỉnh viên phải ở Roma.
Cáo thỉnh viên yêu cầu Bộ tuyên thánh ra quyết định nh́n nhận
tiến tŕnh đă thực hiện ở cấp địa phận là hợp luật và thành sự.
Nếu tiến tŕnh sơ khởi ở địa phận hợp luật và thành sự, tân cáo
thỉnh viên yêu cầu bộ tuyên thánh cho nghiên cứu để xúc tiến
việc tuyên thánh.
Sau khi đă ra quyết định nh́n nhận tiến tŕnh sơ khởi của cấp
địa phận, bộ tuyên thánh sẽ bổ nhiệm những viên chức như: Công
tố viên, những nhà nghiên cứu sử học, báo cáo viên (Relator). Về
phía thỉnh nguyện viên, được yêu cầu chọn một người cộng sự gọi
là collaborator. Relator và Collaborator sẽ viết một positio,
tức tiểu sử của đầy tớ Chúa, liên quan đến nhân đức trổi vượt
hoặc việc tử đạo. Đại khái một positio như sau:
Thông tin về bốn điểm:
lịch sử tiến tŕnh sơ khởi - phương pháp thực hiện – tiểu sử đầy
tớ Chúa và dư luận về đời sống nhân đức thánh thiện hay chứng từ
tử đạo.
Trưng dẫn dữ kiện cụ thể, chứng từ và nhân chứng.
Tài liệu:
Giấy rửa tội, chứng từ của gia đ́nh, địa phận hay ḍng tu.
Relato et Vota:
Báo cáo và biểu quyết. Nếu đồng ư, bộ tuyên thánh sẽ để cử sáu
nhà nghiên cứu sử học, mười tư vấn thần học để nghiên cứu trên
positio. Nếu hai phần ba trong số nầy biểu quyết thuận, án tuyên
thánh sẽ được báo cáo với bộ Giáo Lư Đức Tin. Nếu không, yêu cầu
làm lại.
Giai đoạn hai ở Roma:
Nâng Đấy tớ Chúa lên Venerable, Bậc đáng kính.
Các hồng Y và Giám Mục trong và ngoài Rôma được triệu tập và
được cáo thỉnh viên yêu cầu chấp nhận án tuyên thánh. Một
Ponens, tứ báo cáo viên được chọn từ các hồng y hay giám mục,
thành viên của bộ tuyên thánh được bổ nhiệm để chấp nhận án
tuyên thánh và báo cáo với Đức Giáo Hoàng. Một khi Đức Thánh Cha
đă nh́n nhận những nhân đức siêu vượt hay cái chết anh hùng của
dầy tớ Chúa là xác thực, Ngài ra quyết định cho nâng Đầy tớ Chúa
lên Bậc đáng kính. Giờ đây, người ta được quyền làm Holy Card,
tức thiệp thánh, có h́nh của Bậc Đáng Kính và kinh nguyện xin
Chúa thực hiện dấu lạ qua sự chuyển cầu của Bậc đáng kính.
Đến đây, tiến tŕnh tuyên thánh đă trăi qua hai giai đoạn rất
khó khăn:
Thiết lập toà án cấp địa phận để thu thập tài liệu, chứng từ và
sát hạch chứng nhân và đề xuất sang Rôma để nhận Nihil obstat và
ứng viên được gọi là: Đầy tớ Chúa.
Mang án tuyên thánh sang Roma và chịu sự làm việc rất tỉ mỉ và
tốn kém của bộ tuyên thánh để đầy tớ Chúa được nh́n nhận là bậc
đáng kính.
Giai đoạn IV:
Phép lạ và tuyên phong chân phước
Phép lạ:
Được coi như sự chuẩn nhận của Chúa trên ứng viên tuyên thánh
đang ở trên Trời. Ngay từ thế kỷ thứ 13, dưới thời Đức Giáo
Hoàng Innocent III, Giáo Hội đ̣i buộc phải có phép lạ thực hiện
nhờ lời chuyển cầu của những Bậc Đáng Kính, những ứng viên tuyên
thánh về đời sống đạo đức. Tuy nhiên, phép lạ được miễn trừ nơi
những ứng viên tuyên thánh tử đạo.
Phép lạ phải là phép lạ thể lư, chứ không phải luân lư, tức kết
quả những việc lạ phải được cảm nhận, được nh́n thấy, được minh
chứng và giảo nghiệm y khoa. Và phải đă xảy ra một năm rồi.
Khi có việc lạ xảy ra, cáo thỉnh viên phải viết đơn xin Giám Mục
thẩm quyền thiết lập ban giám sát. Sau khi xét đoán khôn ngoan
có thể là phép lạ, Giám Mục địa phận để cử hai bác sĩ xét
nghiệm, chuyên viên thu thập tài liệu, chứng từ và yêu cầu toà
án địa phận thiết lập việc sát hạch nhân chứng.
Hồ sơ kết quả thẩm định, có thể là phép lạ,
sẽ lập thành ba bản. Bản gốc giữ ở Toà Giám Mục địa phương. Hai
bản c̣n lại gửi sang bộ tuyên Thánh Rôma để duyện xét và thẩm
định.
Bộ tuyên thánh duyệt xét phép lạ trên ba tiêu chuẩn:
Y khoa:
Đây là một chửa trị xác thực và lạ lùng mà y khoa b́nh thường
không làm được.
Thần học:
Nhân chứng đă khẩn cầu với Bậc Đáng Kính và nhận được phép lạ.
Ḷng đạo:
Hồng Y và các Giám Mục quyết định là rất hữu ích cho ḷng sốt
sắng của Giáo Hội hoàn vũ nếu ứng viên được tôn phong chân
phước.
Tất cả được đệ tŕnh lên Đức Thánh cha và để Ngài có quyết định
sau cùng là có tiến tới tuyên thánh hay không. Nếu có, cũng
chính Đức Thánh Cha sẽ công bố ngày giờ, nơi chốn cử hành việc
tuyên phong Chân Phước.
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận
Đức
Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận từ trần ngày 16.9.2002.
Rất may mắn, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cho phép Hội Đồng Công
Lư và Hoà B́nh của Ngài khởi án tuyên thánh ngày 16.9.2007. Ngài
đă có Holy Card và Kinh Xin Ơn được Đức Giám Mục Giampietro
Crepaldi, tổng thư kư Hội Đồng Công Lư và Hoà B́nh lúc ấy chuẩn
nhận và cho phép phổ biến ngày 16.9.2007.
Theo tiến tŕnh tuyên thánh của Giáo hội Công giáo Rôma, Đức
Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đang ở bậc Tôi tớ Chúa
(một trong bốn bậc phong thánh: Tôi tớ Chúa, Đấng Đáng kính,
Chân phước và Thánh). Ngày 16 tháng 1 năm 2009, Hồng Y Agostino
Valini, Giám Quản Toà Rôma ban Án lệnh chính thức vận động thu
thập những chứng cứ, tài liệu, tác phẩm của/về Đức Hồng Y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận để phục vụ cho án phong chân
phước. Ngày 22 tháng 10 năm 2010, án phong chân phước cho Hồng y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đă được chính thức khởi sự.
Ngày 15 tháng 11 năm 2010, VietCatholic đưa tin về một chủng
sinh người Việt Nam sinh ra ở Mỹ bị hôn mê 32 ngày và hai lần
Bác sĩ đă tuyên bố là chết. Nhưng ba mẹ chủng sinh nầy và chính
Thầy Giuse đă kêu cầu Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn
Thuận. Thầy Giuse đă thấy Đức Hồng Y trong thị kiến hai lần đến
tận giường bệnh thăm viếng Thầy. Hiện tại thầy đă b́nh phục hẵn.
Văn pḥng cáo thỉnh ở Rôma đang đ̣i những chứng từ minh chứng
cho phép lạ chữa bệnh nầy. Nếu Thầy Giuse có đủ bằng chứng về sự
b́nh phục lạ lùng của Thầy. Chắc chắn Đức Hồng Y sẽ được tuyên
phong chân phước sớm.

Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp
Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp sinh ngày 01-01-1897, được
Cha Giuse Sớm rửa tội ngày 2-2-1897 tại họ đạo Cồn Phước, làng
Tấn Đức, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xă Mỹ Luông, quận Chợ Mới, Tỉnh
An-Giang. Ngày 12-3-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 người
giáo dân tại họ Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt chung với bổn đạo tại
lẫm lúa của ông giáo Sự ở Cây Dừa. Do sự tranh chấp giữa các
giáo phái, v́ bênh vực quyền lợi của giáo dân, ngài đă chết thay
thế cho những người bị bắt chung.
Ở
Việt Nam và hải ngoại, cả lương giáo, không ai không biết Cha
Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Vô số những phép lạ được truyền
khẩu và được ghi chép thành văn bản. Việc lập án tuyên thánh cho
Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp có nhiều thuận lợi: Ngài bị
giết chết trong khi thi hành nhiệm vụ mục tử, Ngài chết v́ đạo.
Chúa đă thực hiện nhiều phép lạ qua sự chuyển cầu của Ngài.
Nhiều và rất nhiều nhân chứng “de visu”, là người thọ ơn Cha.
Những người đă từng tiếp xúc với Cha thời sinh tiền vẫn c̣n sống
như Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm minh Mẫn.
Thời gian chuẩn bị đă lâu, nhiều người đang nức ḷng và sẵn sàng
làm chứng cũng như rộng răi ủng hộ chương tŕnh tuyên thánh cho
Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Chương tŕnh vinh danh Cha
Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, vị mục tử dũng cảm đă dám chết
v́ đàn chiên, giống như Chúa Kitô, thầy chí Thánh, vị mục tử
nhân hậu, tốt lành và mẫu mực đă đến lúc chín mùi. Xin trao vào
tay Chúa nguyện ước thánh thiện nầy. V́ không điều ǵ là không
có thể với Thiên Chúa! Xin cầu nguyện và ủng hộ!
Kiến thức Công Giáo, 2/2011, Liên Tu sĩ Canad
Nguồn: Conggiao.info |