Sưu Tập Huấn Quyền Về Đức Maria
Huấn Quyền
Về Đức Maria
Toàn Tập
(Tập 1)
Lưu Hành Nội Bộ CHƯƠNG MỘT
ĐỊA VỊ VÀ VAI TR̉ CỦA ĐỨC TRINH NỮ MARIA TRONG CHƯƠNG TR̀NH CỨU ĐỘ
Đức Giáo Hoàng Piô XII (12/3/1939 – 9/10/1958)
Tông Thư Ad Caeli Reginam Về Việc Tuyên Bố Chức Nữ Vương Của Đức Maria Của Đức Giáo Hoàng Piô XII Ban hành 11/10/1954 Chuyển ngữ Igna.M
Kính gửi Chư Huynh, các Thượng Phụ, Giáo Chủ, Tổng Giám Mục, Giám mục và Các Bản Quyền Địa Phương Trong B́nh An và Hiệp Thông Với Ṭa Thánh. Kính Chúc Chư Huynh Sức Khỏe và Phép Lành Toà Thánh.
1. Từ thời kỳ sơ khai Giáo hội Công giáo, dân Kitô giáo, dù trong lúc thịnh vượng hay đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng, đă dâng những lời cầu khẩn, những bài thánh ca ca ngợi và tôn kính Nữ Vương Thiên Đàng. Niềm trông cậy mà họ đặt nơi Mẹ Vua Trời, Chúa Giêsu Kitô, chưa bao giờ dao động; niềm tin đó cũng chưa từng sa sút nơi những điều chúng ta được dạy rằng Đức Maria, Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, trị v́ toàn thế giới bằng sự quan tâm từ mẫu, cũng như Người được ban thưởng phúc thiên đàng với vinh quang Nữ Vương. 2. Ngay trước mắt tôi, những tai họa khủng khiếp giáng xuống đă làm suy giảm sự hưng thịnh của các thành phố, thị trấn và làng mạc, tôi đau đớn khi thấy nhiều tệ nạn luân lư nghiêm trọng đang lan ra nước ngoài có thể được mô tả như trận lụt dữ dội. Đôi lúc, một mặt tôi thấy công lư nhượng bộ và, mặt khác, thấy các thế lực suy đồi thắng thế. Mối đe dọa của cuộc khủng hoảng đáng sợ này khiến tôi vô cùng khổ tâm, và v́ vậy, với ḷng cậy tin, trông nhờ vào Đức Maria Nữ Vương, tôi bày tỏ với Người những t́nh cảm hiếu kính không phải của riêng tôi, mà của hết thảy những người lấy làm tự hào mang danh Kitô hữu. 3. Thật hài ḷng khi nhớ lại ngày 1 tháng 11 Năm Thánh 1950, chính tôi, trước mặt vô số hồng y, giám mục, linh mục và các tín hữu quy tụ từ mọi miền trên thế giới, đă xác định tín điều Đức Trinh Nữ Maria được đưa lên trời, [1] nơi Người hiện diện cả linh hồn và thể xác, và ngự trị, cùng với Con Duy Nhất [1a] của Người, giữa ca đoàn các thiên thần và các Thánh. Hơn nữa, v́ gần một thế kỷ đă trôi qua kể từ khi vị tiền nhiệm tôi, Đức Piô IX, đă tuyên bố và xác định tín điều Mẹ Thiên Chúa được thụ thai không nhiễm bất kỳ vết nhơ nguyên tội nào, tôi đă mở Năm Thánh Mẫu hiện tại. [2] Và giờ đây thật là niềm an ủi lớn cho tôi khi thấy rất đông người có mặt tại Rôma – và đặc biệt là tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả – biểu lộ chứng cứ nổi bật về đức tin và t́nh yêu mănh liệt họ dành cho Mẹ trên trời. Tôi biết, ở khắp mọi miền trên thế giới, ḷng sùng kính Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa ngày càng nở rộ, và các đền thờ chính của Đức Maria đă và vẫn đang được nhiều người hành hương Công giáo viếng thăm và cầu nguyện. 4. Tôi đă tận dụng mọi cơ hội – qua từng thính giả và chương tŕnh phát thanh – để khích lệ con cái tôi trong Chúa Kitô yêu mến nồng nàn và thắm thiết Người Mẹ rất nhân hậu và cao quư. Về điểm này, thật đặc biệt thích hợp để nhớ lại thông điệp phát thanh mà tôi đă gửi tới người dân Bồ Đào Nha, khi ảnh phép lạ Đức Trinh Nữ Maria được tôn kính tại Fatima có đội vương miện vàng. [3] tôi tự gọi đây là sự truyền bá “vương quyền” của Đức Maria. [4] 5. Và bây giờ, tôi có thể đưa Năm Thánh Đức Maria đến một kết thúc hạnh phúc, và để đáp lại những thỉnh cầu gửi đến tôi từ khắp thế giới, tôi quyết định thiết lập lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương trong phụng vụ. Điều này sẽ đủ sức tạo nên một cao trào, như đă từng, cho các cuộc thể hiện muôn màu về ḷng sùng kính đối với Đức Maria, mà dân Kitô giáo đă ủng hộ nhiệt t́nh như vậy. 6. Trong vấn đề này, tôi không muốn đề xuất một chân lư mới được các Kitô hữu tin tưởng, v́ danh hiệu và những lư lẽ về phẩm giá vương tôn của Đức Maria đă được công bố tỏ tường, và được t́m thấy trong các tài liệu cổ xưa về Giáo hội và trong các sách phụng vụ thánh. 7. Tôi rất vui nhớ lại những điều này trong bức Tông Thư hiện tại, để có thể làm mới những lời ca ngợi Mẹ trên trời, và khơi dậy một ḷng sùng kính nhiệt thành hơn đối với Mẹ, v́ lợi ích thiêng liêng của nhân loại. 8. Ngay từ thời kỳ đầu, các Kitô hữu đă tin, và không phải không có lư do, rằng Đức Maria sinh ra Con của Đấng Tối Cao đă nhận được các đặc ân trên tất mọi thụ tạo khác do Thiên Chúa dựng nên. Ngài “sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp”, [5] “Hoàng Tử Ḥa B́nh”, [6] “Vua các vua và Chúa các chúa.” [7] Và khi các Kitô hữu suy tư về mối liên hệ mật thiết giữa người mẹ và người con, họ dễ dàng thừa nhận phẩm giá vương giả tối cao của Mẹ Thiên Chúa. 9. V́ thế, chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên khi các văn gia thời Giáo hội sơ khai gọi Đức Maria là “Mẹ của Vua” và “Mẹ của Chúa”, dựa trên những lời của tổng lănh thiên thần Gabriel đă báo trước rằng Con của Đức Maria sẽ trị v́ đời đời, [8] và theo lời của bà Elizabeth chào đón Người với ḷng tôn kính gọi Người là “Mẹ của Chúa tôi.” [9] Bởi đó, các vị tuyên bố minh bạch rằng Người có được sự nổi bật nhất định và địa vị cao quư từ phẩm giá vương đế của Con ḿnh. 10. Thế nên thánh Ephrem, bừng lên cảm hứng thi vị, miêu tả Người theo cách nói này: “Hăy để thiên đàng ẵm con trong ṿng tay, bởi con được vinh dự trên thiên đàng. Nhưng với Mẹ, thiên đàng không phải là mẹ của Mẹ, mà Mẹ đă khiến nó thành ngai của Mẹ. Mẹ của thiên đàng c̣n vinh dự và đáng kính biết bao hơn ngai vàng của một vị vua.” [10] Và ở một nơi khác, thánh nhân cầu nguyện với Người: “…Lạy Tớ Nữ, Đức Bà, Nữ Vương Thiên Đàng Uy Nghi, xin bảo vệ và giữ ǵn con dưới cánh của Người kẻo Satan gieo thứ vinh dự hủy diệt trên con, kẻo kẻ thù độc ác đánh bại con.” [11] 11. Thánh Gregory Nazianzen gọi Đức Maria là “Mẹ của Vua Vũ Trụ” và là “Mẹ Đồng Trinh sinh ra Vua toàn thế giới”, [12] trong khi Prudentius (thi sĩ Kitô giáo) khẳng định rằng Mẹ kinh ngạc “sao Người sinh ra Thiên Chúa làm người, và thậm chí là Vua Tối Cao.” [13] 12. Và phẩm giá vương giả của Đức Trinh Nữ Maria được thể hiện khá rơ qua sự khẳng định trực tiếp bởi những kẻ xưng tụng Người là “Đức Bà”, “Đấng Cai Trị” và “Nữ Vương”. 13. Ở một trong những bài giảng được cho là của Origen, bà Elizabeth gọi Đức Maria là “Mẹ của Chúa tôi”, và thậm chí gọi Người là “Đức Bà của tôi.” [14] 14. Điều tương tự cũng được t́m thấy trong các tác phẩm của Thánh Jerome, thánh nhân đưa ra tuyên bố sau đây giữa những cách giải thích khác nhau về danh Đức Maria: “Chúng ta nên nhận ra Đức Maria có nghĩa là Đức Bà trong ngôn ngữ Syria.” [15] Sau khi thánh nhân, thánh Chrysologus nói y như vậy cách rơ ràng hơn trong những lời này: “Từ ‘Maria’ theo tiếng Do thái có nghĩa là 'Bà Chúa.' (Domina) V́ thế, thiên thần xưng hô với Người là 'Thưa Bà' để ngăn ngừa mọi nỗi sợ hăi nô lệ nơi Mẹ của Chúa, Đấng được sinh ra và được gọi là 'Bà' bởi quyền bính và mệnh lệnh của Con ḿnh. “[16] 15. Hơn nữa Epiphanius, giám mục Constantinople, viết thư cho Đức Giáo hoàng Hormisdas, nói chúng ta nên cầu nguyện để sự hiệp nhất của Giáo hội được duy tŕ “nhờ ân sủng của Chúa Ba Ngôi thánh thiện và đồng bản thể, và nhờ lời cầu nguyện của Đức Maria, Đức Bà, Đức Trinh Nữ hiển vinh và Mẹ Thiên Chúa.” [17] 16. Đức Trinh Nữ Diễm Phúc, đang ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu nguyện cho chúng ta được một nhà văn khác cùng thời ca ngợi với những lời này: “Nữ Vương [17a] của người phàm, Mẹ rất thánh của Thiên Chúa.” [18 ] 17. Thánh Andrew Crete thường quy phẩm giá Nữ Vương cho Đức Trinh Nữ Maria. Chẳng hạn, thánh nhân viết: “Hôm nay, Chúa Giêsu đưa Mẹ trọn đời đồng trinh của Ngài rời khỏi nơi cư ngụ trần gian, với tư cách là Nữ Vương của loài người, Đấng từ cung ḷng Người mà Ngài, Thiên Chúa hằng sống, đă mang lấy h́nh hài con người.” [19] 18. Và ở một nơi khác, thánh nhân nói về “Nữ Vương của toàn thể nhân loại trung thành với ư nghĩa chính xác của danh Người, Đấng được nâng cao trên hết mọi sự chỉ ngoại trừ Thiên Chúa.” [20] 19. Tương tự, thánh Germanus thưa với Đức Trinh Nữ khiêm hạ bằng những lời này: “Lạy Đức Bà, xin hăy lên ngôi, bởi Bà ngự trên cao thật là phải lẽ, v́ Bà là Nữ Vương vinh quang trên hết các vị vua.” [21] Thánh nhân c̣n gọi Người là “Nữ Vương của tất cả những kẻ sống trên trái đất.” [22] 20. Người được thánh John Damascene gọi là “Nữ Vương, Đấng cai trị, Đức Bà”, [23] và cũng là “Nữ Vương của mọi thụ tạo.” [24] Một nhà văn cổ khác của Giáo hội Đông phương gọi Người là “Nữ Vương được mến chuộng”, “Nữ Vương đời đời bên cạnh Đức Vua, Con của Người,” Đấng có “lông mày trắng như tuyết đội triều thiên vàng.” [25] 21. Và cuối cùng, thánh Ildephonsus Toledo tập hợp gần như tất cả các tước hiệu danh dự của Người trong lời chào này: “Ôi lạy Đức Bà, Nữ Vương của con, Mẹ điều khiển trên con, Mẹ của Chúa con… lạy Đức Bà giữa các tớ nữ, Nữ Vương giữa các chị em…” [26] 22. Các nhà thần học của Giáo hội, nhận được giáo huấn từ những điều này và gần như vô số bằng chứng khác được lưu truyền từ lâu, đă gọi Đức Trinh Nữ là Nữ Vương các thụ tạo, Nữ Vương thế giới và Đấng Cai Trị muôn người. 23. Các mục tử tối cao của Giáo hội đă coi nghĩa vụ của các vị là thúc đẩy dân Kitô giáo sùng kính Mẹ và Nữ Vương Thiên Đàng bằng lời khuyên và khen ngợi. Bỏ qua các tài liệu của các Giáo hoàng gần đây, thật hữu ích khi nhớ lại ngay từ thế kỷ thứ bảy, vị tiền nhiệm của tôi, thánh Martin I, đă gọi Đức Maria là “Đức Bà Vinh Hiển, trọn đời đồng trinh.” [27] Thánh Agatho, trong thư thượng hội đồng gửi các nghị phụ Công Đồng Đại Kết VI, gọi Người là “Đức Bà, thực sự nghĩa chính xác là Mẹ Thiên Chúa.” [28] Và vào thế kỷ thứ VIII, Đức Gregory II trong bức thư gửi cho thánh Germanus, thượng phụ, và được đọc trong Công Đồng Đại Kết Thứ VII với sự tán thành của tất cả các Nghị phụ, đă gọi Mẹ Thiên Chúa là: “Nữ Vương muôn loài, Mẹ Thiên Chúa đích thực” và cũng là “Nữ Vương của mọi Kitô hữu.” [29] 24. Tôi cũng muốn nhớ về vị tiền nhiệm tôi, Đức Sixtus IV, đă đề cập rất triển vọng giáo lư về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, bắt đầu Tông Thư Cum Praeexcelsa [30] với những từ gọi Đức Maria là “Nữ Vương,” “Đấng luôn tinh tế cầu bầu với vị Vua mà Người sinh ra.” Đức Benedict XIV đă tuyên bố điều tương tự trong Tông Thư Gloriosae Dominae, trong đó Đức Maria được gọi là “Nữ Vương trời đất”, và điều này như nói rằng Vua Tối Cao bằng một cách nào đó đă thông ban cho Người quyền cai trị của Ngài. [31] 25. V́ tất cả những lư do này, thánh Alphonsus Ligouri, khi thu thập chứng ngôn của các thời đại trước, đă viết những lời này với ḷng sùng kính hiển nhiên: “Bởi Đức Trinh Nữ Maria đă được nâng lên phẩm giá cao cả là Mẹ của Vua các vua, nên Giáo hội tôn vinh Người với danh hiệu 'Nữ Vương’ thật xứng đáng và phải lẽ.” [32] 26. Hơn nữa, phụng vụ thánh, cử hành như một phản ánh trung thực giáo lư truyền thống được dân Kitô giáo tin tưởng qua tất cả các thời đại ở cả Đông và Tây phương, đă hát những lời ca ngợi Nữ Vương Thiên Đàng và vẫn tiếp tục hát. 27. Những lời nồng nàn từ Đông phương cất lên: “Ôi Mẹ Thiên Chúa, hôm nay Người được đưa về thiên đàng trên xa giá minh thần, luyến thần hầu hạ Người và hàng ngũ thiên binh cúi đầu trước Người.” [33] 28. C̣n nữa: “Ôi, thánh Giuse thật diễm phúc, v́ Người được sinh ra từ ḍng dơi vương giả, được chọn trong số tất cả nhân loại để trở thành phu quân của Đức Nữ Vương thuần khiết, theo cách khôn tả, sẽ sinh ra Chúa Giêsu là Vua.” [34] Ngoài ra: “Lạy Nữ Vương, con sẽ hát một bài thánh ca dâng Mẹ, Đấng con hân hoan đến tán dương, phấn khởi chúc tụng những điều kỳ diệu của Người bằng tiếng hát… Ôi lạy Đức Bà, lưỡi chúng con không xứng ca ngợi Người, v́ Người đă sinh ra Chúa Kitô là Vua được tôn vinh trên luyến thần… Kính chào Nữ Vương thế giới; ôi Maria, kính chào Nữ Vương của tất cả chúng con.” [35] 29. Hơn nữa, chúng ta đă đọc trong Sách lễ Giáo hội Ethiopia: “Ôi Maria, trung tâm của toàn thế giới, ...Mẹ vĩ đại hơn cả minh thần nhiều mắt và luyến thần sáu cánh... Trời và đất chứa chan vinh quang thánh thiện của Mẹ.” [36] 30. Xa hơn nữa, Giáo hội La-tinh hát lời cầu nguyện êm ái cổ xưa: “Kính chào Nữ Vương Thánh Thiện”, và những bài thánh ca đáng yêu “Kính chào Nữ Vương Các Tầng Trời”, “Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Hăy Vui Mừng” và những lời khác mà chúng ta quen đọc trong các ngày lễ Đức Trinh Nữ Maria: “Hoàng Hậu đứng bên hữu Ngài, mặc đồ trang điểm vàng ṛng lộng lẫy” [37]; “Trời đất ca ngợi Người là Nữ Vương quyền năng” [38]; “Hôm nay, Đức Trinh Nữ Maria lên trời: hăy vui mừng v́ Người ngự trị với Chúa Kitô đời đời.” [39] 31. Những lời này và những lời khác nên được thêm vào Kinh Cầu Đức Bà Loreto để hàng ngày mời gọi các tín hữu Kitô kêu lên Người là Nữ Vương. Cũng vậy, trong nhiều thế kỷ qua, các Kitô hữu đă quen với việc suy niệm về quyền cai trị của Đức Maria bao trùm cả trời đất, khi họ đọc Kinh Mân Côi Năm Sự Mừng, mầu nhiệm thứ năm, có thể được gọi là chóp đỉnh mầu nhiệm của Nữ Vương Thiên Đàng. 32. Cuối cùng, dựa trên các nguyên tắc Kitô giáo thể hiện bằng tinh thần như một thứ ǵ đó tŕnh bày cách trung thực ḷng thành và diễn tả tự do niềm sùng kính của các tín hữu, kể từ khi Công Đồng Ephesus tŕnh bày Đức Maria là Nữ Vương và Hoàng Hậu ngự trên ngai vàng vương giả, trang điểm phù hiệu hoàng gia, đội triều thiên vương quyền, có vô số thiên thần và các thánh trên trời vây quanh, và cai trị không chỉ trên thế giới tự nhiên và sức mạnh của nó mà c̣n trên những mưu mô của Satan. Để miêu tả phẩm giá vương giả của Đức Trinh Nữ Maria, nghệ thuật tranh ảnh đă từng đóng góp phong phú với các tác phẩm có giá trị nghệ thuật tuyệt đỉnh và vẻ đẹp vi diệu nhất; nó thậm chí c̣n có h́nh thức tŕnh bày đầy màu sắc Đấng Cứu Chuộc đội vương miện lộng lẫy cho Mẹ của Ngài. 33. Các Giáo hoàng Rôma, ủng hộ những kiểu sùng kính phổ biến như vậy, hoặc đích thân hoặc qua người đại diện, thường đội triều thiên cho các tượng Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa do ḷng tôn kính chung đă nổi bật. 34. Thưa Chư Huynh, như tôi đă đề cập, theo truyền thống cổ xưa và phụng vụ thánh, phẩm giá vương giả của Đức Maria đặt trên nguyên tắc chính chắc chắn đó là chức vị Mẹ Thiên Chúa của Người. Trong Thánh Kinh, liên quan đến Người Con mà Đức Maria sẽ thụ thai, chúng ta đọc thấy câu này: “Người sẽ nên cao cả, và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị v́ nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”, [40] và ngoài ra Đức Maria c̣n được gọi là” Mẹ của Chúa “; [41] từ đó mà dễ dàng kết luận Đức Maria là Nữ Vương vào thời điểm thụ thai Chúa Giêsu, v́ đă sinh ra Người Con, nhờ sự kết hợp ngôi vị của bản tính con người với Ngôi Lời, là con người cũng là Vua và Chúa của vạn vật. V́ vậy, hoàn toàn công bằng, thánh John Damascene có thể viết: “Khi trở thành Mẹ của Đấng Tạo Hóa, Người thực sự trở thành Nữ Vương của mọi tạo vật.” [42] Cũng vậy, có thể nói lời của Đức Tổng lănh thiên thần Gabriel là lời đầu tiên tuyên bố chức vị vương giả của Đức Maria. 35. Nhưng Đức Trinh Nữ Maria nên được gọi là Nữ Vương, không chỉ v́ chức vị Mẹ Thiên Chúa, mà c̣n v́ Thiên Chúa muốn Người giữ một vai tṛ đặc biệt trong công việc cứu rỗi chúng ta. Như vị tiền nhiệm tôi, Đức Piô XI, đă viết: “Chúng ta c̣n ǵ vui hơn, c̣n tư tưởng nào ngọt ngào hơn khi Chúa Kitô là Vua của chúng ta không chỉ bởi quyền tự nhiên, mà c̣n bởi một quyền có được nhờ công ơn cứu chuộc? Bây giờ chúng ta đă quên mất phải trả bao nhiêu cho Cứu Chúa của chúng ta, có lẽ mọi người nên nhớ lại những lời: ‘Anh em hăy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đă được cứu thoát… Nhưng anh em đă được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô. [43] Chúng ta giờ đây đâu c̣n thuộc về ḿnh nữa, v́ Chúa Kitô đă trả ‘giá đắt’ mà chuộc lấy chúng ta.” [44], [45] 36. Bây giờ đây, Đức Trinh Nữ Maria có mối liên hệ rất mật thiết với Chúa Kitô trong việc hoàn tất công tŕnh cứu chuộc này; và v́ thế thật phù hợp để hát trong phụng vụ thánh: “Đức Maria, Nữ Vương Thiên Đàng và là Nữ Vương Thế Giới, đau buồn đứng đó, gần thập giá Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” [46] Do vậy, môn đệ nhiệt thành của thánh Anselm (Eadmer) đă viết vào thời Trung Cổ: “như ...Thiên Chúa, bằng việc dựng nên mọi người nhờ quyền năng của Ngài, nên Ngài là Cha và Chúa của mọi người thế nào, th́ Đức Maria, bằng việc sửa chữa mọi người nhờ công trạng của ḿnh, nên Người là Mẹ và Nữ Vương của mọi người cũng như vậy; v́ Thiên Chúa là Chúa của vạn vật, bởi do lệnh Ngài, Ngài thiết lập bản chất riêng trong mỗi cá thể, và Đức Maria là Nữ Vương muôn loài, bởi Người phục hồi phẩm giá nguyên thủy cho từng cá thể nhờ ân sủng Người đáng được. [47] 37. V́ “như Chúa Kitô, bởi Ngài cứu chuộc chúng ta, là Chúa và Vua chúng ta bằng tước hiệu đặc biệt thế nào, th́ cũng như vậy, Đức Trinh Nữ (là Nữ Vương chúng ta), v́ cách thức độc nhất mà Người đă cộng tác trong việc cứu chuộc chúng ta, bằng cách cho đi bản thể Người, bằng việc tự nguyện hiến trao Ngài cho chúng ta, bằng khát khao và lời cầu khẩn đặc biệt của Người, và quan tâm tích cực đến ơn cứu độ chúng ta. “[48] 38. Từ những suy nghĩ trên, chứng cứ mở rộng theo hướng này: nếu Đức Maria đă liên kết với Chúa Giêsu Kitô là chính nguồn ơn cứu độ khi tham dự tích cực vào công việc cứu độ theo kế hoạch của Thiên Chúa, th́ cũng có thể so sánh điều đó nơi Eva đă liên kết với Adam là nguồn gốc cái chết, để có thể nói công việc cứu độ chúng ta đă được hoàn thành bằng một kiểu “tóm tắt”, [49] trong đó một trinh nữ là công cụ cứu rỗi nhân loại, giống như một trinh nữ đă liên quan chặt chẽ tới cái chết của nhân loại; hơn nữa, nếu có thể nói, Người Nữ hiển vinh này đă được chọn làm Mẹ của Chúa Kitô “để Người có thể trở thành cộng sự trong việc cứu chuộc nhân loại”; [50] và thật ra, nếu “Người là Đấng không mang vết nhơ nguyên tội, và từng gắn bó rất mật thiết với Con ḿnh, trên Golgotha đă dâng Người Con đó cho Cha Hằng Hữu cùng với sự hy sinh hoàn toàn các quyền của người mẹ và t́nh mẫu tử, như một Evà Mới, đối với hết thảy con cái Adam đă bị vấy nhơ bởi sự sa ngă đáng thương của ông,” [51] th́ có thể kết luận một cách chính đáng rằng như Chúa Kitô, Adam Mới, phải được gọi là Vua không chỉ v́ Ngài là Con Thiên Chúa, mà c̣n v́ Ngài là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, do đó, một cách tương tự, Đức Trinh Nữ Rất Diễm Phúc là Nữ Vương không chỉ v́ Người là Mẹ Thiên Chúa, mà c̣n v́, là Evà Mới, Người liên kết với Adam Mới. 39. Chắc chắn, trong ư nghĩa đầy đủ và chặt chẽ của thuật ngữ, chỉ có Chúa Giêsu Kitô, vị Chúa-Người, là Vua; nhưng Đức Maria với tư cách là Mẹ Chúa Kitô, là cộng sự của Ngài trong công cuộc cứu chuộc, trong cuộc đấu tranh của Ngài với các kẻ thù và trong chiến thắng cuối cùng của Ngài trên chúng, cũng có sự chia sẻ trong phẩm giá vương giả của Ngài, mặc dù theo cách hạn chế và tương tự. V́ từ sự kết hợp với Chúa Kitô, Người đă đạt tới địa vị rạng rỡ vượt xa mọi thụ tạo khác; từ sự kết hợp với Chúa Kitô, Người nhận được quyền vương giả để điều phối những kho báu của Vương Quốc Đấng Cứu Chuộc; từ sự kết hợp với Chúa Kitô mà sự can thiệp từ mẫu của Người có được hiệu quả vô tận trước Người Con và Cha của Ngài. 40. V́ thế, chắc chắn Đức Maria Rất Thánh vượt xa tất cả các thụ tạo khác về phẩm giá, và có vị thế ưu việt hơn mọi loài sau Con của Người. Thánh Sophronius hát: “Hỡi Mẹ Đồng Trinh, c̣n điều nào có thể tuyệt vời hơn niềm vui của Mẹ? C̣n điều nào cao quư hơn ân sủng này, mà chỉ ḿnh Mẹ nhận được từ Thiên Chúa?” [52] Với điều này, thánh Germanus thêm: “Danh dự và phẩm giá của Mẹ vượt trên hết mọi thụ tạo; sự vĩ đại của Mẹ đặt Mẹ lên trên các thiên thần.” [53] Và Thánh John Damascene c̣n đi xa đến mức nói: “Sự khác biệt giữa các tôi tớ của Thiên Chúa và Mẹ của Ngài là vô hạn.” [54] 41. Để hiểu rơ hơn phẩm giá cao siêu này của Mẹ Thiên Chúa trên hết mọi thụ tạo, chúng ta hăy nhớ lại Mẹ Thiên Chúa, ngay từ lúc Tượng Thai Vô Nhiễm, đă đầy ân sủng vượt qua ân sủng của tất cả các thánh. Tuy nhiên, như vị tiền nhiệm tôi, Đức Piô IX, đă viết: Thiên Chúa “đă trút xuống trên Người những ơn huệ và ân sủng thiên đàng từ kho tàng thiên tính của Ngài vượt xa những ǵ Ngài ban cho tất cả các thiên thần và các thánh để Người măi thoát khỏi vết nhơ tội lỗi ti tiểu nhất, Người thật xinh đẹp hoàn hảo, đầy thánh thiện và hết sức vô tội, đến mức dưới Thiên Chúa không thể mơ có điều ǵ lớn lao hơn, và chỉ ḿnh Thiên Chúa mới có thể hiểu được vẻ kỳ diệu.” [55] 42. Bên cạnh đó, sau Chúa Kitô, Đức Trinh Nữ không chỉ có được sự tuyệt diệu và hoàn hảo ở mức cao nhất, mà c̣n chia sẻ ảnh hưởng của Con của Người, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, nói đúng ra là ngự trị trên trí khôn và ḷng muốn của con người. V́ nếu qua nhân tính mà Ngôi Lời Thiên Chúa thực hiện phép lạ và ban ân sủng, nếu Ngài dùng các Bí tích và các Thánh của Ngài làm công cụ cứu rỗi con người, vậy sao Ngài lại không sử dụng vai tṛ và công việc của Mẹ rất thánh Ngài để chuyển hoa trái ơn cứu chuộc cho chúng ta? Một lần nữa, vị tiền nhiệm tôi, Đức Piô IX, trích dẫn: “Với trái tim thực sự của người mẹ, Người thao thức vấn đề cứu độ chúng ta, và quan tâm đến toàn thể nhân loại; được Chúa đặt làm Nữ Vương trời đất, được nâng cao trên tất cả các ca đoàn thiên thần và các thánh, và đứng bên hữu Con của Người [55a], Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Người đă can thiệp mạnh mẽ cho chúng ta bằng lời cầu nguyện của một người mẹ, Người có được những ǵ Người xin, và không thể bị từ chối.” [56] Về điểm này, một trong những vị tiền nhiệm khác, Đức Lêô XIII, đă nói một “sức mạnh gần như vô lượng” đă được trao cho Đức Maria trong việc phân phát các ân sủng; [57] thánh Piô X thêm rằng Người giữ chức vụ này “trong tư cách phù hợp với quyền của một người mẹ.” [58] 43. V́ vậy, hết thảy các Kitô hữu hăy tự hào v́ là những con dân của Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, Đấng đang bừng cháy t́nh yêu của một người mẹ khi nắm giữ quyền lực vương giả. 44. Tuy nhiên, các nhà thần học và giảng thuyết, khi bàn về những điều này và những vấn đề tương tự liên quan đến Đức Trinh Nữ, phải tránh đi lạc khỏi tiến tŕnh đúng đắn để ngăn ngừa một lỗi kép, nghĩa là, họ phải cẩn thận với những ư kiến vô căn cứ và những diễn tả cường điệu vượt ra ngoài sự thật, mặt khác, họ phải đề pḥng sự hẹp ḥi quá mức trong việc cân nhắc để sự phi thường, siêu phàm thực sự gần như là phẩm giá thần thánh của Mẹ Thiên Chúa, điều mà Tiến sĩ Thiên thần dạy phải được quy cho Người “v́ ḷng nhân hậu vô hạn của Thiên Chúa.” [59]. 45. Đối với phần c̣n lại, ở điểm này cũng như trong các điểm khác của giáo lư Kitô giáo, th́ “chuẩn mực gần và phổ quát của chân lư” dành cho tất cả huấn quyền sống của Giáo hội, mà Chúa Kitô đă thiết lập “cũng để minh họa và giải thích những vấn đề được hiểu một cách mơ hồ, và tuyệt đối trong kho tàng đức tin.” [60] 46. Từ các tài liệu Kitô giáo cổ thời, từ những lời nguyện phụng vụ, từ ḷng đạo đức bẩm sinh của dân Kitô giáo, từ các tác phẩm nghệ thuật, từ mọi khía cạnh tôi đă thu thập các chứng cứ cho đến phẩm giá vương giả của Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa; tôi đă cho thấy rằng các lư lẽ được Thần học thánh suy luận từ kho tàng đức tin đă xác nhận hoàn toàn chân lư này. Sự dồi dào chứng cứ như thế tạo nên một điệp khúc vang rền thay cho tính siêu phàm phẩm giá vương giả của Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại, mà mọi thụ tạo đều là con dân, Đấng được “tôn lên ngai thiên đàng, trên ca đoàn các thiên thần”. [61] 47. V́ tôi tin, sau khi suy tư lâu dài và nghiêm túc, điều tốt đẹp lớn lao sẽ đổ dồn về cho Giáo hội nếu chân lư vững chắc này tỏa sáng rạng ngời hơn cho hết mọi người, giống như ngọn đèn được đặt trên cao, bằng quyền Giáo hoàng, tôi truyền thiết lập lễ Đức Maria Nữ Vương, sẽ được cử hành hàng năm trên toàn thế giới vào ngày 31 tháng 5. Tôi cũng truyền rằng cùng ngày đó sẽ lặp lại việc dâng hiến loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Trinh Nữ Maria, với hy vọng qua sự tận hiến như vậy, một kỷ nguyên mới có thể bắt đầu, tràn ngập niềm vui trong b́nh an của Chúa Kitô và chiến thắng của tôn giáo. 48. V́ vậy, mọi người hăy cố gắng vững tin hơn đến gần ngai ân sủng và thương xót của Đức Nữ Vương và là Mẹ của chúng ta, và cầu xin sức mạnh trong nghịch cảnh, ánh sáng trong bóng tối, an ủi trong khổ đau; trên hết hăy nỗ lực giải thoát bản thân khỏi nô lệ tội lỗi và dâng lên niềm tôn kính không ngơi, chứa chan ḷng trung thành hiếu tử, với Mẹ Nữ Vương của ḿnh. Các tín hữu hăy quy tụ đông đảo ở các nhà thờ của Người, vào những ngày lễ tôn vinh Người; ước chi chuỗi Mân Côi luôn có trong tay mọi người; ước chi các Kitô hữu quy tụ lại, dù ít hay nhiều, để hát những lời ca ngợi Người trong nhà thờ, trong gia đ́nh, trong bệnh viện, trong nhà tù. Ước ǵ danh Maria được hết sức kính mến, danh ngọt ngào hơn mật và quư hơn ngọc ngà; ước ǵ không ai thốt ra một lời báng bổ nào, dấu hiệu của một linh hồn ô uế, chống lại danh được ban cho phẩm giá như vậy và được sùng mộ v́ ḷng nhân hậu hiền mẫu; đừng ai liều lĩnh đến mức nói một lời bất kính danh Người. 49. Hết mọi người, tùy hoàn cảnh của ḿnh, nên cố gắng noi theo những nhân đức tuyệt vời của Nữ Vương Thiên Đàng và là Mẹ rất yêu dấu của chúng ta qua nỗ lực kiên tŕ của tâm trí và thái độ. Do đó, điều xảy ra cho hết thảy các Kitô hữu, khi tôn vinh và bắt chước Nữ Vương và Mẹ siêu phàm của họ, là sẽ nhận ra họ thực sự là anh em, tất cả sự ghen tị và tham lam được gạt bỏ, sẽ thúc đẩy t́nh yêu giữa các giai cấp, tôn trọng quyền của kẻ yếu, yêu chuộng ḥa b́nh. Đừng ai nghĩ ḿnh là con Đức Maria nên xứng đáng được nhận sự bảo vệ quyền thế của Người, trừ khi người ấy, giống như Người, công bằng, hiền lành, trong trắng, và thể hiện sự chân thành khát khao t́nh huynh đệ đích thực, không làm thiệt hại hay gây thương tổn nhưng là giúp đỡ và an ủi tha nhân. 50. Ở một số quốc gia trên thế giới, có những người bị bức hại một cách bất công v́ tuyên xưng đức tin Kitô giáo và những người bị tước đoạt quyền tự do thiêng liêng và nhân quyền; cho đến nay các yêu cầu hợp lư và các cuộc biểu t́nh lặp đi lặp lại đă không giúp ích ǵ để loại bỏ các sự dữ này. Cầu mong Nữ Vương uy quyền của tạo vật, với ánh mắt rạng ngời xua tan những cơn dông tố và mang lại bầu trời quang đăng, xin đoái thương nh́n đến những đứa con ngây thơ và đau khổ này; xin Đức Trinh Nữ, Đấng giày đạp bạo lực dưới chân, ban cho họ sớm được hưởng tự do chính đáng để thực hành tôn giáo của ḿnh cách công khai, ngơ hầu trong khi phục vụ sự nghiệp Tin Mừng, họ cũng có thể đóng góp cho sức mạnh và sự tiến bộ của các quốc gia bằng cách cộng tác hài ḥa, bằng việc thực hành những nhân đức phi thường là mẫu gương sáng chói giữa những thử thách cay đắng. 51. Với Tông Thư này, tôi đang lập một lễ để mọi người có thể nhận ra rơ ràng hơn và tôn sùng nhiệt thành hơn thế lực thương xót và từ mẫu của Mẹ Thiên Chúa. Tôi tin lễ này sẽ giúp duy tŕ, củng cố và kéo dài ḥa b́nh giữa các quốc gia mà hàng ngày gần như bị phá hủy bởi các cuộc khủng hoảng đang tái diễn. Người không phải là cầu vồng trên những đám mây hướng về Thiên Chúa, là lời cam kết một giao ước ḥa b́nh sao? [62] “Hăy ngắm cầu vồng mà chúc tụng Đấng làm ra nó, nó thật là xán lạn huy hoàng, uốn quanh bầu trời thành ṿng cung rực rỡ; chính tay Đấng Tối Cao đă giăng lên.” [63] V́ thế, bất cứ ai tôn kính Nữ Vương trời đất – và đừng ai coi ḿnh được miễn trừ tỏ ḷng yêu mến và biết ơn – người ấy hăy cầu khẩn Nữ Vương rất uy thế, Đấng Trung Gian ḥa b́nh; người ấy hăy tôn trọng và ǵn giữ ḥa b́nh, đó không có nghĩa là sự gian ác không bị trừng phạt, cũng không phải là tự do không được kiềm chế, mà là một sự hài ḥa có trật tự dưới sự cai trị của ư muốn Thiên Chúa; ngơ hầu sự bảo vệ, những nài nỉ và mệnh lệnh dịu dàng dồn dập của Đức Trinh Nữ Maria thôi thúc chúng ta. 52. Tôi thành khẩn ước mong Nữ Vương và là Mẹ của dân Kitô giáo đoái nghe những lời nguyện này của tôi, và làm cho thế giới đang bị rung chuyển bởi ḷng thù hận được hạnh phúc nhờ b́nh an của Người, và ước chi sau cuộc lưu đày này Người tỏ cho hết thảy chúng ta thấy Chúa Giêsu, Đấng là ḥa b́nh và niềm vui bất diệt. Thưa Chư Huynh, như lời hứa về sự trợ giúp thiêng liêng của Thiên Chúa và cam kết yêu thương từ trái tim tôi, tôi ban phép lành Ṭa Thánh cho Chư Huynh và đoàn chiên của Chư Huynh. Ban tại Đền thờ thánh Phêrô dịp Lễ Mẫu Trạng Đức Trinh Nữ Maria, Rôma ngày 11 tháng 10 năm 1954, năm thứ mười sáu triều Giáo hoàng của tôi. Piô XII
Tham Khảo: 1. Cf. constitutio apostolica Munificentissirnus Deus: AAS XXXXII 1950, p. 753 sq. 1a. The Latin word is Unigena. - Ed. 2. Cf. litt. enc. Fulgens corona: AAS XXXXV, 1953, p. 577 sq. 3. Cf. AAS XXXVIII, 1946, p. 264 sq. 4. Cf. L'Osservatore Romano, d. 19 Maii, a. 1946. 5. Luc. I, 32. 6. Isai. IX, 6. 7. Apoc. XIX, 16. 8. Cf. Luc. I, 32, 33. 9. Luc. I, 43. 10. S. Ephraem, Hymni de B. Maria, ed. Th. J. Lamy, t. II, Mechliniae, 1886, hymn. XIX, p. 624. 11. Idem, Oratio ad Ssmam Dei Matrem; Opera omnia, Ed. Assemani, t. III (graece), Romae, 1747, pag. 546. 12. S. Gregorius Naz., Poemata dogmatica, XVIII, v. 58; PG XXXVII, 485. 13. Prudentius, Dittochaeum, XXVII: PL LX, 102 A. 14. Hom. in S. Lucam, hom. VII; ed. Rauer, Origenes' Werke, T. IX, p. 48 (ex catena Marcarii Chrysocephali). Cf. PG XIII, 1902 D. 15. S. Hieronymus, Liber de nominibus hebraeis: PL XXIII, 886. 16. S. Petrus Chrysologus, Sermo 142, De Annuntiatione B.M.V.: PL LII, 579 C; cf. etiam 582 B; 584 A: “Regina totius exstitit castitatis.” 17. Relatio Epiphanii Ep. Constantin.: PL LXII, 498 D. 17a. Generally throughout the encyclical the Latin word Regina is used to describe Mary. In this case and a few others the word is Domina. “Queen” seems to be the best English equivalent. “Ruler”, when it occurs, is a rendition of Dominatrix. - Ed. 18. Encomium in Dormitionem Ssmae Deiparae (inter opera S. Modesti): PG LXXXVI, 3306 B. 19. S. Andreas Cretensis, Homilia II in Dormitionem Ssmae Deiparae: PG XCVII, 1079 B. 20. Id., Homilia III in Dormitionem Ssmae Deiparae: PG XCVII, 1099 A. 21. S. Germanus, In Praesentationem Ssmae Deiparae, I: PG XCVIII, 303 A. 22. Id., In Praesentationem Ssmae Deiparae, n PG XCVIII, 315 C. 23. S. Ioannes Damascenus, Homilia I in Dormitionem B.M.V.: P.G. XCVI, 719 A. 24. Id., De fide orthodoxa, I, IV, c. 14: PG XLIV, 1158 B. 25. De laudibus Mariae (inter opera Venantii Fortunati): PL LXXXVIII, 282 B et 283 A. 26. Ildefonsus Toletanus, De virginitate perpetua B.M.V.: PL XCVI, 58 A D. 27. S. Martinus I, Epist. XIV: PL LXXXVII, 199-200 A. 28. S. Agatho: PL LXXXVII, 1221 A. 29. Hardouin, Acta Conciliorum, IV, 234; 238: PL LXXXIX, 508 B. 30. Xystus IV, bulla Cum praeexcelsa. d. d. 28 Febr. a. 1476. 31. Benedictus XIV, bulla Gloriosae Dominae, d. d. 27 Sept. a. 1748. 32. S. Alfonso, Le glone de Maria, p. I, c. I, §1. 33. Ex liturgia Armenorum: in festo Assumptionis, hymnus ad Matutinum. 34. Ex Menaeo (byzantino): Dominica post Natalem, in Canone, ad Matutinum. 35. Officium hymni Axathistos (in ritu byzantino). 36. Missale Aethiopicum, Anaphora Dominae nostrae Mariae, Matris Dei. 37. Brev. Rom., Versiculus sexti Respons. 38. Festum Assumptionis; hymnus Laudum. 39. Ibidem, ad Magnificat II Vesp. 40. Luc. I, 32, 33. 41. Ibid. I, 43. 42. S. Ioannes Damascenus, De fide orthodoxa, 1. IV, c. 14; PL XCIV, 1158 s. B. 43. I Petr. I, 18, 19. 44. I Cor. VI, 20. 45. Piô XI, litt. enc. Quas primas: AAS XVII, 1925, p. 599. 46. Festum septem dolorum B. Mariae Virg., Tractus. 47. Eadmerus, De excellentia Virginis Mariae, c. 11: PL CLIX, 508 A B. 48. F. Suárez, De mysteriis vitae Christi, disp. XXII, sect. II (ed Vivès, XIX, 327). 49. S. Irenaeus, Adv. haer., V, 19, 1: PG VII, 1175 B. 50. Piô XI, epist. Auspicatus profecto: AAS XXV, 1933, p. 80. 51. Piô XII, litt. enc. Mystici Corporis: AAS XXXV, 1943, p. 247. 52. S. Sophronius, In annuntianone Beatae Mariae Virginis: PG LXXXVII, 3238 D; 3242 A. 53. S. Germanus, Hom. II in dormitione Beatae Mariae Virginis: PG XCVIII, 354 B. 54. S. Ioannes Damascenus, Hom. I in Dormitionem Beatae Mariae Virginis: PG XCVI, 715 A. 55. Piô IX, bulla Ineffabilis Deus: Acta Pii IX, I, p. 597-598. 55a.Unigena. - Ed. 56. Ibid. p. 618. 57. Lêô XIII, litt. enc. Adiumcem populi: ASS, XXVIII, 1895-1896, p.130. 58. Piô X, litt enc. Ad diem illum: ASS XXXVI, 1903-1904, p.455. 59. S. Thomas, Summa Theol., I, q. 25, a. 6, ad 4. 60. Piô XII, litt. enc. Humani generis: AAS XLII, 1950, p. 569. 61. Ex Brev. Rom.: Festum Assumptionis Beatae Mariae Virginis. 62. Cf. Gen. IX, 13. 63. Eccl. XLIII, 11-12.
Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI (30/6/1963 – 6/8/1978)
Trích Hiến Chế Tín Lư Về Giáo Hội, Chương 8 (Công Đồng Vaticanô II)
Đức Nữ Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa Trong Mầu Nhiệm Chúa Kitô Và Giáo Hội (phiên họp khoáng đại lần thứ 123 ngày 16/11/1964)
I. Lời Mở Đầu 52. Nhập đề [68*] Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhân hậu và khôn ngoan đă muốn hoàn tất việc cứu chuộc thế giới, nên "khi đến thời viên măn, Ngài đă sai Con Ḿnh đến, sinh bởi người nữ... để chúng ta được nhận làm nghĩa tử" (Gal 4,4-5). "V́ loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đă từ trời xuống thế, bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đă nhập thể trong ḷng Trinh Nữ Maria" [1]. Mầu nhiệm cứu rỗi thần linh này được mạc khải cho chúng ta và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội, Giáo Hội mà Chúa đă lập làm thân thể Người. Trong Giáo Hội ấy, liên kết với Chúa Kitô Thủ Lănh, và hiệp thông với toàn thể các Thánh Người, các tín hữu cũng phải kính nhớ "trước hết đức Maria vinh hiển, trọn đời Đồng Trinh, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" [2]. [69*]
53. Đức Maria và Giáo Hội Thực vậy, khi sứ thần truyền tin, Đức Nữ Trinh Maria đă đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian. Ngài được công nhận và tôn kính là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế. Được cứu chuộc cách kỳ diệu hơn nhờ công nghiệp Con Ngài và hiệp nhất mật thiết và bền chặt với Con, Đức Maria đă lănh nhận sứ mệnh và vinh dự cao cả là được làm Mẹ Con Thiên Chúa, do đó làm ái nữ của Chúa Cha và cung thánh của Chúa Thánh Thần. Nhờ lănh nhận ân sủng vô cùng cao quí này, Ngài đă trổi vượt mọi tạo vật trên trời dưới đất. Nhưng đồng thời, v́ thuộc ḍng dơi Adam, Ngài cũng liên kết với tất cả mọi người cần được cứu rỗi; hơn nữa, "Ngài thật là Mẹ các chi thể (của Chúa Kitô)... v́ đă cộng tác trong đức ái để sinh ra các tín hữu trong Giáo Hội là những chi thể của Đầu ấy"[3]. V́ thế, Ngài cũng được chào kính như chi thể của Giáo Hội tối cao và độc nhất vô nhị, cũng như mẫu mực và gương sáng phi thường của Giáo Hội trên phương diện đức tin và đức ái. Và Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Ngài t́nh con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu. [70*] 54. Ư hướng của Công Đồng Bởi thế, khi tŕnh bày giáo lư về Giáo Hội - trong Giáo Hội này, Chúa Cứu Thế thực hiện cuộc cứu độ - Thánh Công Đồng ân cần mong muốn làm sáng tỏ vai tṛ của Đức Nữ Trinh trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và Nhiệm Thể, cũng như làm sáng tỏ bổn phận những người được cứu chuộc đối với Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ Chúa Kitô và Mẹ nhân loại, cách riêng Mẹ các tín hữu. Tuy nhiên, Công Đồng không có ư đưa ra một học thuyết đầy đủ về Đức Maria và giải quyết các vấn đề mà sự nghiên cứu của các nhà thần học chưa làm sáng tỏ trọn vẹn. Những ư kiến được tự do tŕnh bày trong các trường phái công giáo về Đấng có địa vị cao cả nhất trong Giáo Hội thánh sau Chúa Kitô, và cũng là Đấng rất gần chúng ta [4], những ư kiến ấy đều được duy tŕ cách hợp pháp [71*]. II. Vai Tṛ Đức Nữ Trinh Trong Nhiệm Cuộc Cứu Rỗi [72*] 55. Mẹ Đấng Cứu Thế trong Cựu Ước. Thánh Kinh, Cựu Ước cũng như Tân Ước, và Thánh Truyền đáng kính, tŕnh bày ngày một sáng tỏ hơn vai tṛ của Mẹ Đấng Cứu Thế trong nhiệm cuộc cứu rỗi và đưa vai tṛ ấy ra cho chúng ta chiêm ngắm. Thực vậy, các sách Cựu Ước thuật lại lịch sử cứu rỗi, trong đó ngày Chúa Kitô xuất hiện trên thế giới được chuẩn bị cách tiệm tiến. Các tài liệu tiên khởi này, như Giáo Hội vẫn đọc và về sau hiểu theo ánh sáng mạc khải trọn vẹn, dần dần cho thấy rơ ràng hơn h́nh ảnh người nữ, Mẹ Đấng Cứu Thế. Theo ánh sáng mạc khải ấy, người nữ này đă được phác họa trước trong lời hứa chiến thắng con rắn, lời hứa mà Tổ Tông đă nhận được sau khi phạm tội (x. Stk 3,15). Cũng thế, Ngài là Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai tên là Emmanuel (x. Is 7,14 so sánh với Mik 5,2-3; Mt 1,22-23). Ngài trổi vượt trên các người khiêm hạ và khó nghèo của Chúa, là những người tin tưởng, hy vọng và lănh nhận ơn cứu độ nơi Chúa. Cuối cùng, sau đêm dài mong đợi lời hứa được thực hiện, với Ngài, người Thiếu Nữ cao sang của Sion, thời gian đă nên trọn và Nhiệm Cuộc mới được thiết lập: khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại nơi Ngài để giải thoát con người khỏi tội lỗi nhờ các mầu nhiệm của thân xác Chúa. [73*] 56. Đức Maria trong việc truyền tin. Nhưng Chúa Cha rất nhân từ đă muốn sự ưng thuận của người mẹ được tiền định trước khi Chúa Con nhập thể, để như một người nữ đă hợp tác cho sự chết, th́ cũng một người nữ hợp tác cho sự sống. Điều đó đặc biệt thích hợp với Mẹ Chúa Giêsu, v́ Ngài đem đến cho thế giới chính Nguồn Sống cải tạo mọi sự, và đă được Chúa ban cho nhiều ơn cân xứng với sứ mệnh cao cả như thế. Do đó, không có ǵ lạ, nếu các Thánh Giáo Phụ đă thường xưng tụng Mẹ Thiên Chúa là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành [5]. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc mới được thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên Thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và kính chào là "Đấng đầy ân phúc" (x. Lc 1,28). Và Trinh Nữ đă đáp lời Thiên Sứ rằng: "Này tôi là Tôi Tá Chúa, xin hăy xảy ra cho tôi theo lời Ngài" (Lc 1,38). Như thế, Đức Maria, con cháu Adam, v́ chấp nhận lời Thiên Chúa, đă trở nên Mẹ Chúa Giêsu. Hết ḷng đón lấy ư định cứu rỗi của Thiên Chúa, v́ không một tội nào ngăn trở Ngài, Đức Maria đă tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài. Bởi vậy, các Thánh Giáo Phụ đă nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đă không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đă để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ ḷng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Ireneô nói: "Chính Ngài, nhờ vâng phục, đă trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho ḿnh và cho toàn thể nhân loại" [6]. Và cùng với thánh Ireneô c̣n có rất nhiều Thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: "Nút dây đă bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria; điều mà trinh nữ Evà đă buộc lại bởi cứng ḷng tin, Đức Trinh Nữ Maria đă tháo ra nhờ ḷng tin [7]; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là "Mẹ kẻ sống" [8], và thường quả quyết rằng: "bởi Evà đă có sự chết, th́ nhờ Maria lại được sống" [9]. [74*] 57. Đức Maria và thời thơ ấu Chúa Giêsu Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rơ từ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước hết, Đức Maria vội vă đến thăm bà Elizabeth và được bà ấy chào mừng là người có phúc v́ đă tin vào sự cứu rỗi Chúa đă hứa, trong lúc đó vị tiền hô nhảy trong ḷng mẹ (x. Lc 1, 41-45). Rồi ngày sinh nhật, Mẹ Thiên Chúa đă vui mừng giới thiệu với các mục đồng và các nhà bác học đứa Con đầu ḷng của ḿnh, mà khi sinh ra đă không làm giảm bớt nhưng c̣n thánh hiến sự trinh khiết toàn vẹn của Ngài [10]. Trong đền thánh, sau khi hiến lễ vật ấn định cho người nghèo, Đức Maria dâng Con lên cho Thiên Chúa, và đă nghe Simeon báo trước Con ḿnh sẽ là dấu chỉ sự phản kháng, và một lưỡi gươm sẽ đâm thấu ḷng mẹ, nhờ đó tư tưởng trong ḷng nhiều người sẽ được bày tỏ (x. Lc 2, 34-35). Khi trẻ Giêsu lạc mất, Cha Mẹ đă lo âu t́m kiếm và gặp lại Con trong đền thánh đang bận tâm lo việc của Cha Người. Các Ngài không hiểu lời Con nói; nhưng Mẹ Chúa Giêsu giữ lấy tất cả các điều ấy và suy gẫm trong ḷng (x. Lc 2, 41-51). [75*] 58. Đức Maria và đời sống công khai Chúa Giêsu Trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, Mẹ Người cũng đă xuất hiện rơ ràng, và ngay từ đầu, trong tiệc cưới thành Cana xứ Galilêa, v́ động ḷng thương xót, Ngài đă cầu bầu, khiến Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai, làm phép lạ đầu tiên của Người (x. Gio 2, 1-11). Trong thời gian Chúa truyền đạo, Đức Maria đă đón nhận lời của Con Ngài, những lời nâng cao Nước Trời lên khỏi những lư do và liên hệ huyết nhục, và tuyên bố là có phúc cho những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa (x. Mc 3,35 và song song; Lc 11,27-28) như chính Ngài hằng thực hành những điều đó cách trung tín (x. Lc 2,19 và 51). Như thế Đức Nữ Trinh cũng đă tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập giá, là nơi mà theo ư Thiên Chúa, Ngài đă đứng đó (x. Ga. 19,25). Đức Maria đă đau đớn chịu khổ cực với Con một của ḿnh và dự phần vào hy lễ của Con, với tấm ḷng của một người mẹ hết t́nh ưng thuận hiến tế lễ vật do ḷng ḿnh sinh ra. Và cuối cùng chính Chúa Giêsu Kitô khi hấp hối trên thập giá đă trối Ngài làm Mẹ của môn đệ qua lời này: "Thưa Bà, này là con Bà" (x. Ga. 19,26-27) [11]. [76*] 59. Đức Maria sau khi Chúa lên trời. V́ Thiên Chúa không muốn tỏ bày mầu nhiệm cứu rỗi nhân loại cách long trọng trước khi Ngài đổ tràn Thánh Thần Chúa Kitô đă hứa, nên chúng ta thấy các Tông Đồ trước ngày Hiện Xuống "đă kiên tâm hiệp ư cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và với anh em Người" (CvTđ 1,14). Đức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Đấng đă bao phủ lấy Ngài trong ngày Truyền Tin. Sau cùng, được ǵn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ [12], và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm đă được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác [13], và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (x. Kh 19,16), Đấng đă chiến thắng tội lỗi và sự chết [14]. [77*] III. Đức Nữ Trinh Và Giáo Hội] [78*] 60. Đức Kitô, Đấng trung gian độc nhất và Mẹ Maria. [79*] Chúng ta chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất, như lời Thánh Tông Đồ dạy: "Thực vậy, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, và chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa với nhân loại, đó là Chúa Giêsu Kitô, là Người, đă dâng ḿnh làm giá chuộc mọi người" (1Tm 2,5-6). Nhưng vai tṛ làm mẹ của Đức Maria đối với loài người không làm lu mờ hay giảm bớt vai tṛ trung gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào, trái lại c̣n làm sáng tỏ mănh lực của sự trung gian ấy. V́ mọi ảnh hưởng có sức cứu rỗi của Đức Nữ Trinh trên nhân loại không phát sinh từ một sự cần thiết khách thể nào, nhưng từ ư định nhân lành của Thiên Chúa, và bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô. Ảnh hưởng ấy nương tựa và hoàn toàn tùy thuộc vào sự trung gian của Chúa Kitô, nguồn mạch mọi quyền lực của ảnh hưởng đó. Nhưng ảnh hưởng này không làm cản trở ǵ, trái lại c̣n giúp đỡ các tín hữu kết hiệp trực tiếp với Chúa Kitô. [80*] 61. Cộng tác vào việc cứu chuộc. Từ muôn đời, Đức Nữ Trinh đă được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa. Và theo chương tŕnh của Chúa Quan Pḥng, trên trần gian Ngài đă trở nên Mẹ cao trọng của Đấng Cứu Chuộc thần linh, và cách đặc biệt hơn mọi người khác, Ngài là cộng sự viên quảng đại và tôi tá khiêm hạ của Chúa. V́ đă cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đă dâng Chúa Kitô lên Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với Con ḿnh chết trên thập giá, Đức Maria đă cộng tác cách rất đặc biệt vào công tŕnh của Đấng Cứu Thế, nhờ ḷng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên b́nh diện ân sủng, Ngài thật là Mẹ chúng ta. [81*] 62. Vai tṛ tùy thuộc trong việc cứu rỗi. Nhưng trong nhiệm cuộc ân sủng, Đức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, từ khi Ngài tin tưởng ưng thuận trong ngày Truyền Tin - sự ưng thuận mà Ngài đă không ngần ngại giữ vững bên thập giá - cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn. Thật vậy, sau khi về trời, vai tṛ của Ngài trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời [15]. Với t́nh từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời. V́ thế, trong Giáo Hội, Đức Nữ Trinh được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ và Đấng Trung Gian [16]. Tuy nhiên phải hiểu các tước hiệu ấy thế nào để không thêm bớt ǵ vào vinh dự và quyền năng của Đấng Trung Gian duy nhất [17]. Thực vậy, không bao giờ có thể đặt một tạo vật ngang hàng với Ngôi Lời nhập thể và cứu chuộc; nhưng cũng như chức linh mục của Chúa Kitô được thông ban dưới nhiều h́nh thức cho các thừa tác viên và các giáo dân, và cũng như sự tốt lành duy nhất của Thiên Chúa được ban phát nhiều cách cho các tạo vật, th́ sự trung gian duy nhất của Đấng Cứu Thế không những không loại bỏ mà c̣n khuyến khích các thụ sinh cộng tác, trong sự tùy thuộc vào nguồn mạch duy nhất. Vai tṛ tùy thuộc ấy của Đức Maria, Giáo Hội không ngần ngại tuyên xưng, mà luôn nghiệm thấy, và nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ trong ḷng để nhờ sự nâng đỡ và phù hộ từ mẫu của Ngài, họ gắn bó mật thiết hơn với Đấng Trung Gian và Cứu Thế. [82*] 63. Maria trinh nữ và người mẹ là mẫu mực của Giáo Hội. [83*] Đức Trinh Nữ nhờ ân huệ và sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó Ngài được hiệp nhất với Con là Đấng Cứu Chuộc, và nhờ các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Ngài c̣n kết hiệp mật thiết với Giáo Hội, như thánh Ambrosiô đă dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên b́nh diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô [18]. Thực vậy, trong mầu nhiệm Giáo Hội, chính Giáo Hội cũng được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ, Đức Nữ Trinh Maria đi tiên phong, tỏ ra là một người mẹ và một trinh nữ gương mẫu tuyệt vời và hiếm có [19]. V́, bởi ḷng tin và vâng phục, Ngài đă sinh chính Con Chúa Cha nơi trần gian, mà không hề biết đến người nam, nhưng được Chúa Thánh Thần bao phủ. Như một Evà mới, Ngài đă đặt niềm tin vào sứ giả của Thiên Chúa, chứ không đặt vào con rắn xưa, một niềm tin không bị một nghi ngờ nào làm phai nhạt. Nhưng Người Con mà Ngài đă sinh ra, Thiên Chúa đă đặt làm Trưởng Tử trong nhiều anh em (x. Rm 8,29), nghĩa là các tín hữu, mà Ngài cộng tác vào việc sinh hạ và giáo dục với t́nh thương của một người mẹ. [84*] 64. Giáo Hội là trinh nữ và là mẹ. Tuy nhiên, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện kỳ bí và noi gương đức ái của Đức Maria, và khi trung thành chu toàn thánh ư Chúa Cha, Giáo Hội cũng được làm mẹ nhờ lời Thiên Chúa mà Giáo Hội trung thành lănh nhận: thực vậy, nhờ việc rao giảng và ban phép Thánh Tẩy, Giáo Hội sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh ra do Thiên Chúa để họ lănh nhận một đời sống mới và bất diệt. Giáo Hội cũng là trinh nữ đă giữ ǵn toàn vẹn và tinh tuyền ḷng trung nghĩa đă hiến cho Phu Quân; và noi gương Mẹ Chúa ḿnh, nhờ thần lực của Thánh Thần, Giáo Hội bảo tồn cho tinh tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy bền vững và một đức mến chân thành [20]. [85*] 65. Giáo Hội phải bắt chước nhân đức của Mẹ Maria. Tuy nhiên, Giáo Hội, qua con người của Đức Nữ Trinh, đă đạt tới sự toàn thiện làm cho ḿnh nên thanh sạch và vẹn tuyền (x. Eph 5,27), nhưng Kitô hữu vẫn c̣n phải cố gắng chiến thắng tội lỗi để tiến trên đường thánh thiện. V́ thế, họ ngước mắt nh́n lên Đức Maria là một mẫu gương nhân đức sáng ngời cho toàn thể cộng đoàn những người được chọn. Nhờ thành kính tưởng nhớ Đức Maria và chiêm ngưỡng Ngài dưới ánh sáng của Ngôi Lời nhập thể, Giáo Hội cung kính tiến sâu hơn vào mầu nhiệm cao thẳm, tức là mầu nhiệm nhập thể, và nên giống Phu Quân ḿnh ngày một hơn. Thực vậy, Đức Maria đă mật thiết gắn liền với lịch sử cứu rỗi, và có thể nói là Ngài đă qui tụ và phản chiếu nơi ḿnh những đ̣i hỏi cao cả nhất của đức tin, và khi các tín hữu nghe rao giảng về Ngài và tôn sùng Ngài, họ được Ngài mời gọi đến kết hiệp với hy lễ của Con Ngài và yêu mến Chúa Cha. Phần Giáo Hội càng t́m kiếm vinh quang Chúa Kitô càng nên giống Khuôn Mẫu cao cả của ḿnh, nhờ luôn tiến tới trong đức tin, đức cậy, đức mến, và t́m kiếm cùng vâng theo thánh ư Thiên Chúa trong mọi sự. Do đó, trong công cuộc tông đồ, Giáo Hội có lư để nh́n lên Đấng đă sinh Chúa Kitô là người được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và được Đức Nữ Trinh sinh ra để, nhờ Giáo Hội, cũng sinh ra và lớn lên trong ḷng các tín hữu. Đời sống của Đức Nữ Trinh là một gương sáng của t́nh mẫu tử thắm thiết. T́nh mẫu tử ấy phải là động lực của tất cả những ai cộng tác vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội để tái sinh nhân loại. [86*] IV. Việc Tôn Kính Đức Nữ Trinh Trong Giáo Hội [87*] 66. Bản tính và nền tảng của việc tôn kính Đức Mẹ. Nhờ hồng ân Thiên Chúa, Đức Maria được tôn vinh, sau Chúa Con, vượt trên hết các thiên thần và loài người, v́ Ngài là Mẹ rất thánh của Thiên Chúa và đă tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa Kitô; do đó Ngài đáng được Giáo Hội tôn vinh và đặc biệt sùng kính. Thực vậy, từ những thời rất xa xưa, Đức Nữ Trinh đă được tôn kính dưới tước hiệu "Mẹ Thiên Chúa", và các tín hữu đă khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Ngài trong mọi cơn gian nan khốn khó [21]. Nhất là từ công đồng Ephêsô, Dân Thiên Chúa đă gia tăng ḷng tôn kính Đức Maria cách lạ lùng: họ sùng kính mến yêu, cầu khẩn và noi gương đúng như lời Ngài đă tiên báo: "Muôn đời sẽ khen tôi có phúc, v́ Đấng toàn năng đă làm cho tôi những việc trọng đại" (Lc 1,48-49). Sự tôn kính ấy, như vẫn luôn có trong Giáo Hội, tuy hoàn toàn đặc biệt, nhưng tự bản chất vẫn khác biệt với sự thờ phượng dâng lên Ngôi Lời nhập thể và lên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; việc tôn kính Đức Maria khuyến khích thêm việc thờ phượng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo Hội đă chấp nhận nhiều h́nh thức tôn sùng Mẹ Thiên Chúa, trong giới hạn của giáo lư lành mạnh và chính thống, tùy theo hoàn cảnh, thời gian và nơi chốn, hợp với tính khí cùng tinh thần của tín hữu; những h́nh thức ấy, qua việc tôn vinh Mẹ, cũng làm cho tín hữu nhận biết đúng đắn, yêu mến, làm vinh danh, và tuân giữ giới răn Chúa Con, v́ Người mà muôn vật được tạo thành (x. Col 1,15-16) và nơi Người, Chúa Cha hằng hữu "muốn có đầy đủ mọi sự" (Col 1,19). [88*] 67. Chiều hướng mục vụ Thánh Công Đồng cố ư dạy giáo lư công giáo ấy, đồng thời Giáo Hội cũng khuyến khích hết mọi con cái hăy nhiệt tâm phát huy ḷng sùng kính Đức Nữ Trinh, nhất là trong phụng vụ, hăy coi trọng những việc thực hành và việc đạo đức nhằm suy tôn ngài và đă được quyền Giáo Huấn Giáo Hội cổ vơ qua các thế kỷ, cũng như hăy kính cẩn tuân giữ những quyết định của các thời đại trước liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Chúa Kitô, Đức Nữ Trinh và các Thánh [22]. Công Đồng cũng hết ḷng khuyến khích các nhà thần học và những người rao giảng lời Chúa, khi xét đến phẩm chức phi thường của Mẹ Thiên Chúa, hăy cẩn thận tránh mọi tư tưởng phóng đại sai lầm cũng như mọi tư tưởng hẹp ḥi quá đáng [23]. Nhờ học hỏi Thánh Kinh, các Thánh Giáo Phụ, các tiến sĩ và học hỏi các phụng vụ trong Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của quyền Giáo Huấn, họ hăy làm sáng tỏ đúng mức những chức vụ và đặc ân của Đức Trinh Nữ; những chức vụ và đặc ân này luôn qui hướng về Chúa Kitô, nguồn mạch toàn thể chân lư, thánh thiện và đạo đức. Họ phải cẩn thận tránh xa mọi lời nói hay việc làm có thể làm cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác hiểu sai giáo lư đích thực của Giáo Hội. Phần các tín hữu, hăy nhớ rằng, ḷng tôn sùng chân chính không hệ tại t́nh cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nh́n nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy t́nh con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta. [89*] V. Đức Maria, Dấu Chỉ Ḷng Cậy Trông Vững Vàng Và Niềm An Ủi Cho Dân Chúa Đang Lữ Hành [90*] 68. Đức Maria, dấu chỉ của Dân Thiên Chúa. Ngày nay Mẹ Chúa Giêsu đă được vinh hiển hồn xác trên trời, là h́nh ảnh và khởi thủy của Giáo Hội sẽ hoàn thành đời sau; cũng thế, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (x. 2P 3,10), Ngài chiếu sáng như dấu chỉ ḷng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành. [91*] 69. Đức Maria chuyển cầu cho sự hiệp nhất các Kitô hữu. Thánh Công Đồng rất vui mừng và được an ủi khi thấy ngay giữa các anh em ly khai không thiếu những người dâng lên Mẹ Chúa Cứu Thế vinh dự Ngài đáng được, nhất là các anh em Đông Phương, những người nhiệt thành và hết ḷng sùng kính Mẹ Thiên Chúa trọn đời đồng trinh [24]. Tất cả mọi Kitô hữu hăy thiết tha khẩn nguyện Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ loài người, để như Ngài đă trợ giúp Giáo Hội sơ khai bằng lời cầu nguyện của ḿnh, th́ ngày nay được tôn vinh vượt trên các Thần Thánh trên trời, Ngài cũng cầu bầu cùng Con Ngài trong sự hiệp thông toàn thể các Thánh cho tới khi mọi gia đ́nh dân tộc hoặc đă mang danh hiệu Kitô hữu, hoặc chưa biết Đấng Cứu Chuộc ḿnh, đều hân hoan đoàn tụ trong an b́nh và ḥa thuận, hợp thành một dân Thiên Chúa duy nhất, hầu vinh danh Ba Ngôi Thiên Chúa rất thánh và không phân chia. [92*]. Tất cả và từng điều đă được ban bố trong Hiến Chế tín lư này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và, dùng quyền Tông Đồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những ǵ đă được Thánh Công Đồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng. Roma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 21 tháng 11 năm 1964. Tôi, Phaolô Giám Mục Giáo Hội Công Giáo. Tiếp theo là chữ kư của các Nghị Phụ. Thông Tri Do vị Tổng Thư Kư của Thánh Công Đồng trong phiên họp khoáng đại lần thứ 123 ngày 16-11-1964.
Chú thích [67*] Đây là một trong những chương được tranh luận nhiều nhất. Việc khai sinh ra nó cũng gây nhiều sôi nổi. Trong số những lược đồ được đệ tŕnh, có một lược đồ về Đức Maria. V́ những lư do có tính cách hoặc thần học hoặc mục vụ hoặc hiệp nhất, một vài Nghị Phụ muốn cho lược đồ về Đức Maria xen vào Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội. Ngày 29-10-1963, các Nghị Phụ đứng trước một câu hỏi như sau: "Các Nghị Phụ Công Đồng có muốn lược đồ về Đức Trinh Nữ Mẹ Giáo Hội đổi thành chương cuối cùng của lược đồ về Giáo Hội chăng?" Trước khi bỏ phiếu, có hai bản phúc tŕnh chính thức về vấn đề này: Hồng Y Konig, người muốn cho xen vào hiến chế, và Hồng Y Santos muốn làm một lược đồ riêng. Cả hai dùng những luận chứng dồi dào và vững chắc để tŕnh bày trước các Nghị Phụ và sự thích hợp của quan điểm ḿnh. Kết quả cuộc đầu phiếu thật sát nút: với 2,193 Nghị Phụ có mặt th́ 1,114 vị bỏ phiếu thuận, 1,074 phiếu chống. Phiếu thuận chỉ hơn có 40 phiếu và Công Đồng chấp nhận việc xen lược đồ vào trong Hiến Chế. Một vấn đề thứ hai được đặt ra: nếu xen th́ xen vào chỗ nào? Mẹ Thiên Chúa liên kết khắng khít với mầu nhiệm Giáo Hội, nhưng muốn giải thích sự liên kết này, cần quan niệm vai tṛ của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Đối với khía cạnh này, giáo lư về Đức Maria vượt quá giáo lư về Giáo Hội. Do đó chỉ có thể đặt vào phần cuối Hiến Chế. Đấy là lư do tại sao có chương VIII và vị trí của nó trong Hiến Chế. Bố cục của chương này như sau: trong phần nhập đề (các số 52-54), Công Đồng xác định địa vị của Đức Maria trong Giáo Hội và những nguyên tắc giáo lư làm kim chỉ nam cho việc tŕnh bày về Đức Maria. Đồng thời Công Đồng cũng cho biết chủ đích của ḿnh. Phần nhất (các số 55-59) giải thích địa vị của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Phần hai (các số 60-65) tŕnh bày địa vị đó trong viễn tượng Giáo Hội, nói lên những liên lạc của Đức Maria với Giáo Hội. Phần ba (các số 66-67) đề cập những bổn phận Kitô hữu đối với Đức Maria. Phần kết luận vắn tắt (các số 68-69) tŕnh bày Mẹ Thiên Chúa như dấu hiệu hy vọng và sự liên quan của Ngài với việc hiệp nhất các Kitô hữu. [68*] Các số 52-54: Nhập đề. Các số này thống nhất với nhau (trong lần soạn thảo đầu chúng ở trong cùng một số) có mục đích tŕnh bày đối tượng của chương VIII. Ư tưởng chính rất đơn giản: mạc khải đă minh nhiên làm nổi bật địa vị của Mẹ Thiên Chúa, trong ư định cứu rỗi từ đời đời của Chúa, trong sự thực hiện ư định ấy do Chúa Giêsu Kitô, bởi v́ có sự liên tục (chương VII) giữa công việc dưới đất và công việc trên trời của Chúa Kitô và ngày nay Đức Mẹ cũng vẫn c̣n giữ nguyên địa vị này (số 52). Maria là phần tử đặc biệt và là khuôn mẫu Giáo Hội (số 53). Chủ đích của Công Đồng là: tŕnh bày vai tṛ của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội và những bổn phận của Kitô hữu đối với Mẹ (số 54). [1] Kinh tin kính của CĐ Constantinopla: Mansi 3, 566. Xem CĐ Ephesô, n.v.t., 4, 1130 (và n.v.t., 2, 665 và 4, 1071). Xem CĐ Calcedonia, n.v.t., 7, 111-116. CĐ Constantinopla II n.v.t., 9, 375-396. Sách lễ Roma, kinh tin kính. [2] Sách lễ Roma, lễ qui. [69*] Số 52. Việc cứu thế được thực hiện nhờ Thiên Chúa đă gửi Con Ngài đến, sinh bởi người nữ. Đó là nền tảng của cả khoa Thánh Mẫu học. Đức Nữ Đồng Trinh Maria liên kết mật thiết với việc Nhập Thể Cứu Chuộc đó. [3] T. Augustinô, De S. Virginitate, 6 : PL 40, 399. [70*] Số 53. Số này đặt Mẹ Chúa Kitô Cứu Thế trong tương quan với Giáo Hội. Đầu tiên là quả quyết Đức Maria đă tự ư chấp nhận lời thiên thần báo tin sẽ sinh Đấng Cứu Thế. Câu chuyện báo tin được đặt nổi bật. Sau đó Công Đồng nghiên cứu sâu xa những mối liên hệ giữa Maria và Ba Ngôi Thiên Chúa trong viễn tượng Giáo Hội theo một đề tài quen thuộc với Hiến Chế như đề tài Giáo Hội từ mầu nhiệm Ba Ngôi. V́ trách vụ được Chúa trao phó nên Mẹ được cứu chuộc kỳ diệu hơn, do công nghiệp Con Mẹ, Đấng mà Mẹ đă kết hiệp mật thiết và bền chặt. Trong chiều hướng ấy, Công Đồng không ngần ngại liên tiếp tŕnh bày Đức Trinh Nữ như là Mẹ của Con Thiên Chúa, là ái nữ của Chúa Cha, là cung thánh của Chúa Thánh Thần. Cả ba danh hiệu hoàn toàn theo truyền thống. Nhưng tâm điểm của số này ở chỗ Công Đồng quả quyết rằng Maria vừa có các danh hiệu đó, nhưng đồng thời, v́ thuộc ḍng dơi Adam, Mẹ cũng liên kết với tất cả mọi người, và Mẹ đă cộng tác vào công việc cứu thế. Do đó, Mẹ Chúa Kitô vẫn là phần tử Giáo Hội, dù là phần tử tuyệt hảo và đặc biệt, một trật cũng là khuôn mẫu của Giáo Hội. Bởi vậy Giáo Hội tôn kính Mẹ như Mẹ thật với t́nh con thảo. [4] Xem Phaolô VI, Diễn văn trong Công Đồng, ngày 4-12-1963 : AAS 56 (1964), trg 37. [71*] Số 54. Công Đồng giải thích vắn tắt về vai tṛ Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và về các bổn phận của tín hữu đối với Mẹ. Công Đồng tự giới hạn trong viễn tượng này chứ không nhằm tŕnh bày đầy đủ giáo lư về Đức Maria, cũng không nhằm giải quyết các vấn đề mà các nhà thần học tranh luận. [72*] Các số 55-59: Phần I - Địa vị và vai tṛ của Đức Maria trong nhiệm cuộc cứu rỗi. Bố cục phần này rất rơ ràng, v́ dựa theo các dữ kiện lịch sử mạc khải về Mẹ Thiên Chúa trong Thánh Kinh, bắt đầu từ Cựu Ước tới thời kỳ Giáo Hội, qua sự kiện truyền tin, tới cuộc đời thơ ấu và công khai của Chúa Giêsu. Cứ như bản phúc tŕnh chính thức đă nói, đây là phần chính yếu nhất trong Chương VIII. [73*] Số 55: Trong Cựu Ước. Thứ tự của số này theo sát lịch sử cứu rỗi như thấy trong Cựu Ước, để chúng ta thấy rằng người phụ nữ làm Mẹ Chúa Kitô trong Phúc Âm cũng là Mẹ Thiên Chúa mà chúng ta nhận biết qua thần học và qua việc tôn kính nơi các dân Kitô giáo. Như thế là Công Đồng cho biết sự tiến triển của mạc khải về Đức Maria và không ngần ngại chấp thuận phương pháp lịch sử cứu rỗi, một phương pháp mà một số người chuyên về Thánh Mẫu học không mấy tin tưởng. Không muốn gây ra cuộc bút chiến, nên Công Đồng chỉ nhằm tŕnh bày một "bản tiểu sử" về người Phụ Nữ, dựa trên toàn thể chứng từ được linh ứng của Mạc Khải trọn vẹn và trên chứng từ của đời sống Giáo Hội. [5] Xem T. Germanô, Const. Hom. in Annunt. Deiparae: PG 98, 328 A; In Dorm. 2: 357 Anatasiô thành Antiokia, Serm. 2 de Annunt. 2: PG 89, 1377 AB: Serm. 3, 2 : 1388 C. T. Anrê Cret., Can. in B.V. Nat. 4 : PG 97, 1321 B; in B.V. Nat. 1: 812 A; Hom. in dorm. 1: 1068 C. T. Sophroniô, Or. 2 in Annunt. 18: PG 87 (3), 3237 BD. [6] T. Ireneô, Adv. Haer. III, 22, 4: PG 7, 959 A; Harvey 2, 123. [7] T. Ireneô, n.v.t., Harvey, 2, 124. [8] T. Epiphaniô, Haer. 78, 18 : PG 42, 728 CD-729 AB. [9] T. Hieronimô, Epist. 22, 21: PL 22, 408. Xem T. Augustinô, Serm. 51, 2, 3 : PL 38, 335; Serm. 232, 2: 1108. T. Cyrillô Jerusalem. Catech., 12, 15: PG 33, 741, AB. T. Gioan Kim Khẩu, In Ps. 44, 7: PG 55, 193. T. Gio Damascenô, Hom. 2 in dorm. BMV. 3: PG 96, 728. [74*] Số 56: Truyền tin. Công Đồng theo vết các Giáo Phụ, coi câu chuyện truyền tin rất quan trọng, v́ nh́n thấy ở đó thái độ căn bản của mọi Kitô hữu. Giáo Hội thuở đầu đă bày tỏ ḷng tin của họ vào thái độ chấp nhận này của Đức Maria, v́ là kết quả của đức tin và t́nh yêu của Mẹ. "Chấp nhận" không những là tiếng nói then chốt trong cả câu chuyện nhưng đồng thời c̣n là tiếng nói lược tóm tất cả viễn ảnh đời sống của Kitô hữu: ưng thuận khi Chúa đến và để ư định cứu rỗi hoàn tất trong ta, vừa biết quảng đại phục vụ cho công cuộc cứu thế; cũng như Đứa Maria, chúng ta tích cực cộng tác mà không tự măn, và qua việc chấp nhận ấy, ân sủng đem lại sự sống: trong Chúa Kitô, Đức Maria đă ban cho thế giới Nguồn Sống đổi mới mọi sự. [10] Xem CĐ Lateranô, năm 649, đ. th. 3: Mansi 10, 1151. T. Leô Cả, Epist. ad Flav.: PL 54. 759. CĐ Calcedonia: Mansi 7, 462. T. Ambrosiô, De inst. Virg.: PL 16, 320. [75*] Số 57: Đức Maria và cuộc đời thơ ấu Chúa Giêsu. Câu đầu tiên của số này nêu lên ư tưởng chỉ dẫn: Đức Maria liên kết với Chúa Con trong công cuộc cứu thế từ lúc thụ thai Chúa Giêsu mà vẫn đồng trinh cho tới mầu nhiệm cuộc tử nạn của Chúa. Công Đồng tŕnh bày chân lư này rơ ràng hơn bao giờ hết. Chủ đề trở lại ba lần: lần Đức Maria đi thăm bà Elizabeth, lần sinh Chúa ở Bêlem và lần dâng Chúa trong đền thờ. Câu chuyện t́m thấy Chúa trong đền thờ giúp chúng ta hiểu rơ hơn về sự liên kết ấy. [11] Xem Piô XII, Tđ. Mystici Corporis, 29-6-1943: AAS 35 (1943), trg 247-248. [76*] Số 58: Đức Maria và cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Một cách vắn tắt, Công Đồng đóng khung hoạt động của Đức Maria trong cuộc đời công khai của Chúa, v́ theo thánh Gioan, lúc khởi đầu và kết thúc sứ vụ công khai đều có sự hiện diện của Đức Maria. Trong hai lúc này Đức Maria mới chỉ được gọi là "Bà". Đó là lúc ở tiệc cưới Cana và khi đứng dưới chân Thánh Giá. Hai lời Chúa nói xem ra như hất hủi Đức Maria. Việc can thiệp của Đức Maria có nhiều ư nghĩa, nhưng lại nằm trong văn mạch mới đầu có thể coi là kỳ lạ. Ư tưởng chính là: Nước Thiên Chúa vượt quá mọi mối liên hệ xác thịt và hoàn toàn ở trên sự tính toán của con người. Câu chính trong số này tŕnh bày một ư tưởng ít quen thuộc hơn: Đức Maria cũng tiến tới trong cuộc hành tŕnh Đức Tin qua đau khổ và u tối. [12] Xem Piô IX, sắc chỉ Ineffabilis, 8-12-1854 : văn kiện của Đức Piô IX, 1, I, trg 616; Dz 1641 (2803). [13] Xem Piô XII, Tông hiến Munificentissimus, 1-11-1950: AAS 42 (1950); Dz 2333 (3903). Xem T. Gio Damascenô, Enc. in dorm. Dei Genitricis, bài giảng 2 và 3: PG 96, 721-761. nhất là cột 728B. T. Germanô Constantinopla, In S. Dei gen. Dorm. bài giảng 1: PG 98 (6); 340-348; bài giảng 3: cột 361. T. Modestô Jerusalem, In dorm. SS. Deiparae: PG 86 (2) 3277-3312. [14] Xem Piô XII, Tđ. Ad caeli Reginam, 11-10-1954: AAS 46 (1954), trg 633-636; Dz 3913tt. Xem T. Anrê Gret., Hom. 3 in dorm. SS. Deiparae: PG 97, 1089-1109. T. Gioan Damascenô, De fide orth., IV, 14: PG 94, 1153-1161. [77*] Số 59: Đức Maria sau khi Chúa lên trời. Có hai vấn đề nói ở đây: 1) Lời cầu nguyện của Đức Maria trước lễ Hiện Xuống cùng với các Tông Đồ, các phụ nữ và các anh em Chúa. Đức Maria ở giữa dân chúng chứ không ở trong số những người điều khiển cộng đoàn. Mẹ tham dự vào kinh nguyện chung. Mẹ thuộc thành phần Giáo Hội cầu nguyện đang chuẩn bị thi hành sứ mệnh của ḿnh, và Mẹ cầu nguyện với tước hiệu duy nhất là Mẹ Chúa Giêsu (CvTđ 1,14). 2) Công Đồng tái xác nhận hai tín điều đă được Giáo Hội tuyên bố khi lập lại những lời của các câu định tín liên hệ. Hai tín điều này có liên quan mật thiết với nhau. Đức Maria được suy tôn làm Nữ Vương của vũ trụ, để trở nên giống với Con Mẹ là Chúa các Chúa một cách hoàn toàn hợn, và được suy tôn là Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết. [78*] Các số 60-65: Phần II - Sự liên lạc giữa Mẹ Thiên Chúa và Giáo Hội. Phần này trực tiếp bàn về sự liên lạc giữa Đức Maria và Giáo Hội. Trước hết, Công Đồng nhấn mạnh tới sự đồng công cứu chuộc của Đức Maria do sự tự ư chấp thuận việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa, do việc dâng hy tế trên Thánh giá và do việc cầu bầu liên lỉ trên trời. Trong văn mạch này, giữa những tước hiệu khác nhau Công Đồng đề cập đến tước hiệu Đấng Trung Gian. Một số người trong Ủy ban thần học chưa nh́n thấy rơ tước hiệu này nên Công Đồng giải thích cho biết tước hiệu này vẫn không làm lu mờ sự tuyệt hảo Đấng Trung Gian duy nhất là Chúa Kitô (các số 60-62). Sau đó (trong các số 63-64) Công Đồng giải thích lư do khiến Đức Maria, là Trinh Nữ và là Mẹ, lại là h́nh bóng của Giáo Hội. Giáo lư này có tầm quan trọng đặc biệt, v́ Công Đồng rất lưu tâm đến những khía cạnh trổi vượt của mầu nhiệm Giáo Hội. Sau cùng (số 65), Đức Maria được coi như gương mẫu các nhân đức. [79*] Các số 60-62: Đức Maria trong công tŕnh cứu chuộc. [80*] Số 60: Những nguyên tắc giáo lư. Số này tóm lược các nguyên tắc giáo lư và chỉ dẫn cho biết giáo lư tŕnh bày trong những số kế tiếp phải được hiểu theo những nguyên tắc này. Mọi nỗ lực và hành động của Đức Maria đều do vị Trung Gian duy nhất là Chúa Kitô, Đấng đă muốn cho Đức Maria cộng tác vào công tŕnh cứu chuộc. Sự trung gian của Đức Maria biểu lộ rơ rệt hơn và c̣n giúp cho sự trung gian của Chúa Kitô nữa. Chỉ v́ ư muốn hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa nhân từ và quyền năng, Đấng Cứu Thế đă thông truyền ảnh hưởng cứu rỗi cho các chi thể và đặc biệt cho Mẹ Người, là Đấng ngay từ đầu đă cộng tác với Người và với công việc Người. Đó chính là nguyên tắc của kế hoạch cứu rỗi hay nguyên tắc ban phát đời sống thần linh. Giáo Hội sẽ trở nên bí tích để ban phát đời sống đó. C̣n Đức Maria, là chi thể trổi vượt đầu tiên, sẽ là khuôn mẫu cho Giáo Hội. [81*] Số 61: Trong cuộc đời trần gian. Số này nói rất vắn tắt đến trọng tâm việc cộng tác của Đức Maria. Là mẹ Thiên Chúa, là tôi tớ khiêm hạ của Chúa, Mẹ là cộng sự viên quảng đại của Đấng Cứu Thế và là Mẹ chúng ta trên b́nh diện ân sủng. Bản văn theo sát với sự thể hiện của nhiệm vụ này. Nhờ hoàn toàn sẵn sàng tuân theo ư Chúa, Đức Trinh Nữ đă mang thai Chúa Giêsu, Đấng sẽ xóa hết tội lỗi Dân Người. Đức Maria đă sinh con và đă nuôi nấng. Mẹ đă dâng Con cho Chúa Cha trong Đền Thánh, đă đau khổ với cái chết của Con trên Thánh Giá. Mẹ đă cụ thể hóa việc cộng tác tuyệt đối duy nhất này trong sự tuân phục vô điều kiện, sự tuân phục thấm nhuần đức tin, đức cậy và đức mến hăng nồng. Sự trung thành của Mẹ trong việc chấp thuận chương tŕnh cứu rỗi là then chốt cho việc quảng diễn các ư tưởng khác (x. các số 53, 56, 63 và 64). [15] Xem Kleutgen, ch. IV bản đă sửa: De Mysterio Verbi incarnati: Mansi 53, 290. Xem T. Anrê Gret. In nat. Mariae, bài giảng 4: PG 97, 865A. T. Germanô Constantinopla, In annunt., Deiparae: PG 98, 321 BC; In dorm. Deiparae III, 361D. T. Gio Damascenô, In dorm. BV. Mariae, bài giảng 1, 8 : PG 90, 712BC-713A. [16] Xem Leô XIII, Tđ. Adjutricem populi, 5-9-1895: ASS 28 (1895-96), trg 229. T. Piô X, Tđ. Ad diem illum, 2-2-1904, văn kiện I, trg 154; Dz 1978a (3370). Piô XI, Tđ. Miserentissimus, 8-5-1928: AAS 20 (1929), trg 178. Piô XII, sứ điệp truyền thanh, 13-5-1946: AAS 38 (1946), trg 266. [17] Xem T. Ambrosiô, Epist. 63 : PL 16, 1218. [82*] Số 62: Trên trời. Là Mẹ ban ân sủng, ở trên trời Đức Maria tiếp tục một địa vị khác trong công tŕnh cứu rỗi. T́nh mẫu tử của Mẹ tiếp tục hoạt động. Chắc chắn Mẹ không ban phát ân sủng riêng, nhưng là ân sủng Chúa Kitô, v́ không có ân sủng nào khác. Sứ mệnh của Đức Maria là liên kết Chúa Kitô với những phần tử làm thành Giáo Hội. Đó là ư nghĩa của tiếng Maria, Mẹ đầy ơn. Mẹ thực hiện sứ mệnh qua việc bầu cử cho nhân loại. Do đó, mà Giáo Hội gọi Mẹ bằng các danh hiệu: Đấng Bảo Vệ, Đấng Phù Trợ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đấng Trung Gian. Các nhà thần học tranh luận về ư nghĩa gán cho các tước hiệu ấy, nhất là tước hiệu sau cùng. Công Đồng không muốn giải quyết cuộc tranh luận, nhưng chỉ quả quyết một thực tại hoàn toàn được toàn thể Giáo Hội chấp nhận, mà không bận tâm đến những điều xác định rơ rệt có tính cách kỹ thuật. Công Đồng cũng nói thêm là tước hiệu này không làm mất cũng không thêm thắt ǵ vào địa vị và hành động của Chúa Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, v́ không tạo vật nào có thể đóng vai tṛ trên cùng một b́nh diện như Chúa Cứu Thế. [83*] Các số 63-64: Đức Maria là mẫu mực Giáo Hội. Tính cách song đối giữa Đức Maria và Giáo Hội đưa ra một chủ đề hoàn toàn mới mẻ trong khoa thần học hiện thời. Quả thực được liên kết với Con ḿnh trong công tŕnh cứu chuộc, Đức Trinh Nữ Maria đă vượt trên mọi người khác và trở nên mẫu mực Giáo Hội. Đó chính là một phần tử trong nhóm đang h́nh thành, gây ảnh hưởng trên người khác, lôi cuốn và làm gương cho họ. Ở đây Công Đồng khai triển vắn tắt chủ đề này về Đức Maria là h́nh bóng Giáo Hội, không phải h́nh bóng hay mẫu mực theo nghĩa thiết lập phẩm trật hay bí tích, nhưng như người cổ xúy đời sống thiêng liêng trong đó sự đồng trinh nẩy nở thành t́nh mẫu tử. [18] Xem T. Ambrosiô, Expos. Lc II. 7; PL 15, 1555. [19] Xem Phêrô Dam. Giả, Serm. 63: PL 144, 861 AB. Godefridus a S. Victore, in nat. BM., Ms. Paris, Mazarine, 1002, tờ 109c. Gerhohus Reich., De gloria et honore Filii hominis, 10 : PL 194, 1105 AB. [84*] Số 63: Đức Maria là mẫu mực Giáo Hội, như một Trinh Nữ và một người Mẹ. Trước hết là đức đồng trinh, nhưng hiểu theo chiều hướng thiêng liêng. Nó hệ tại đức tin và đức cậy nhờ đó Đức Maria đă sinh Con Chúa do quyền phép Chúa Thánh Thần mà không có sự liên lạc xác thịt nào với người nam, và như vậy đă trở thành người Mẹ. Đức Maria đă thụ thai Ngôi Lời trong tâm hồn trước khi thụ thai trong ḷng. Đức đồng trinh tương quan với sự chấp thuận bất khả khuyết của đức tin. Đức Maria đi trước Giáo Hội ở điểm này; chính do Mẹ mà Chúa Kitô được sinh ra, Đấng sẽ làm cho Giáo Hội thành thân thể của Người. [20] Xem Ambrosiô, Expos. Lc.II,7 và X,24-25; PL 15, 1555 và 1810. T. Augustinô, In Jo Tr. 13,12: PL 35, 1499. Xem Serm. 191, 2,3: PL 38, 1010; v.v... Cũng xem chân phước Beda, In Lc. Expos. I, ch. 2 : PL 92, 330. Isaac de Stella, Serm. 51: PL 194, 1863A. [85*] Số 64: Giáo Hội là Mẹ và là Trinh Nữ. H́nh thức song đối đă nói trên kết thúc ở đây: tính cách làm Mẹ đồng trinh của Đức Maria chính là bí tích, dấu hiệu hoặc h́nh ảnh của Giáo Hội đồng trinh, cũng thụ thai và sinh dưỡng các con cái ḿnh. Tính cách làm mẹ của Giáo Hội, noi theo Đức Maria, là việc đón nhận Lời Chúa trong tâm hồn. Đón nhận có nghĩa là thực hành. Như thế Giáo Hội trở thành mẹ của một cuộc sống bất tử, nhờ Thần Khí của việc sáng tạo mới. Sự đồng trinh của Giáo Hội - là điều kiện để sinh nhiều con cái - hệ tại việc trung thành thực thi các nhân đức đối thần, theo gương Đức Maria và nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần. [86*] Số 65: Giáo Hội và việc noi theo các nhân đức của Đức Maria. Ở đây, Công Đồng tŕnh bày Đức Maria như gương mẫu các nhân đức mà Giáo Hội phải noi theo. Việc kính nhớ Mẹ Thiên Chúa làm cho tín hữu thâm hiểu mầu nhiệm Nhập Thể hơn v́ có nhiều khía cạnh của mầu nhiệm này biểu hiện nơi Mẹ Thiên Chúa. Ngay từ thời xa xưa, Giáo Hội đă cầu khẩn với Đức Maria, nhờ thế mà Giáo Hội tiến tới trên con đường đức tin và trên đường sứ mệnh tông đồ, trở nên giống với mẫu mực của ḿnh hơn. [87*] Các số 66-67: Phần III - Việc tôn kính Đức Trinh Nữ trong Giáo Hội. Phần này trực tiếp nói đến sự áp dụng giáo lư vào công việc giảng thuyết và tôn kính. Mối bận tâm mục vụ của Công Đồng được biểu lộ rơ rệt. Công Đồng muốn rằng, trong Giáo Hội, việc tôn kính và sùng mộ Đức Maria phải chừng mực và chính đáng; không trễ nải v́ những ngờ vực vô ích hay sợ sệt; không quá khai thác những t́nh cảm, tưởng tượng hoặc những điều thần học c̣n mơ hồ. [21] Xem Sách Nhật Tụng Roma, xướng khúc "Sub tuum..." ở kinh chiều I của Tiểu tụng Đức Mẹ. [88*] Số 66: Bản tính và nền tảng việc tôn kính Đức Trinh Nữ. Nền tảng việc tôn kính Đức Maria là do việc Mẹ Thiên Chúa được gắn liền với mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Kitô. V́ Đức Maria được dự phần vào mầu nhiệm này hơn bất cứ ai khác, nên Giáo Hội đặc biệt tôn kính Mẹ. Việc tôn kính - bản chất của việc sùng mộ - được gọi là đặc biệt (so sánh với việc tôn kính các Thánh), nhưng xét theo yếu tính th́ hoàn toàn khác biệt với việc tôn thờ chỉ dành riêng cho một ḿnh Thiên Chúa. Tiêu chuẩn của việc tôn kính là phải phù hợp với giáo lư chính thống. Việc tôn kính chỉ có bảo đảm khi trung thành với ơn linh ứng riêng và phải hoàn toàn hướng về Con duy nhất mà trong Người, Chúa Cha tác thành mọi sự. Việc sùng mộ sẽ trở nên ảo tưởng nếu không đưa đến việc tuân giữ các giới răn Chúa. Giả thiết như thế rồi, cũng c̣n phải lưu ư đến những h́nh thức tôn kính khác nhau nhưng vẫn hợp pháp, do hoàn cảnh thời gian và nơi chốn tạo ra, hay do những tâm t́nh khác nhau của mỗi dân tộc. Vậy phải thận trọng nhưng đừng có đầu óc thiển cận. Việc tôn kính với cùng một h́nh thức như nhau sẽ trở nên nghèo nàn; phải để quyền cho công giáo tính. [22] CĐ Nicea II, năm 787: Mansi 13, 378-379 ; Dz 302 (600-601). CĐ Trentô, khóa 25: Mansi 33, 171-172. [23] Xem Piô XII, sứ điệp truyền thanh, 24-10-1954: AAS 46 (1954), trg 679. Tđ. Ad caeli Reginam, 11-10-1954: AAS (1954), trg 637. [89*] Số 67: Tinh thần giảng thuyết và tôn kính Đức Trinh Nữ. Sau cùng, Công Đồng ban bố một vài qui tắc mục vụ cho việc giảng thuyết và tôn kính Đức Maria. Công Đồng giới thiệu đặc biệt việc tôn kính có tính cách phụng vụ, nhưng cũng không quên những h́nh thức, những việc thực hành đạo đức không đi ngược với những nguyên tắc đă đề ra. Việc tôn kính theo phụng vụ được chú trọng hơn là v́ có sự chỉ dẫn trực tiếp của Giáo Hội. Những h́nh thức tôn sùng cũng như Công Đồng cổ vơ, dù không bàn đến chi tiết. Những tiêu chuẩn để giảng thuyết rất đơn giản: đừng tán tụng thái quá, không hẹp ḥi thiển cận, hoàn toàn tuân theo chỉ thị của Giáo Hội, biết dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền. Như vậy Công Đồng muốn ngay cả việc giảng thuyết về Đức Mẹ cũng phải qui về Chúa Kitô. Kết luận của số này là vài lời khuyên tổng quát về việc sùng mộ đích thực nhằm gửi tới Dân Chúa (không chỉ bằng t́nh cảm nhất thời, không phải niềm tin viễn vông, nhưng là sự thực hành sâu xa của một đức tin chính thực, lấy t́nh yêu hàm chứa ḷng biết ơn mà tuyên xưng sự cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và đức tin đó c̣n làm cho chúng ta biết quảng đại noi theo sự hiệp nhất giữa Mẹ với Thiên Chúa). [90*] Các số 68-69: Kết luận. Hai vấn đề được đặt ra ở Đức Maria như dấu hiệu cậy trông và như dấu hiệu hiệp nhất. [91*] Số 68: Đức Maria như dấu hiệu cậy trông. Số này bàn đến một ư tưởng quan trọng: ư nghĩa địa vị được tôn vinh của Mẹ Chúa Giêsu đối với toàn thể Giáo Hội. Đức Maria là h́nh ảnh cánh chung của Giáo Hội. Mẹ là dấu hiệu cậy trông. Mẹ cũng đă phải chịu thử thách nên do kinh nghiệm riêng mà biết được gánh nặng của chúng ta. T́nh thương Mẹ dành cho chúng ta sẽ khuyến khích chúng ta cố gắng không ngừng. [24] Xem Piô XI, Tđ. Ecclesiam Dei, 12-11-1923: AAS 15 (1923), trg 581. Piô XII, Tđ. Fulgen corona, 8-9-1953: AAS 45 (1953), trg 590-591. [92*] Số 69: Đức Maria và sự hiệp nhất các Kitô hữu. Đây là một điểm tế nhị. Nhiều người nghĩ dường như Đức Maria là một trở ngại trên con đường hiệp nhất các Kitô hữu. Công Đồng đă đề cập vấn đề theo khía cạnh tích cực: Công Đồng nhận định một sự kiện không ai chối căi: trong số những anh em ly khai, cũng có người kêu cầu đến Trinh Nữ hèn mọn thành Nazareth. Như vậy vẫn c̣n hy vọng. Công Đồng muốn mọi Kitô hữu cầu xin Đức Maria cho việc hiệp nhất, v́ Mẹ bầu cử cho mọi người tuyên xưng Con Mẹ là Đấng Cứu Thế, và cho cả những ai chưa biết Mẹ. Mẹ vẫn luôn giữ vai tṛ làm mẹ. Như thế sẽ có ánh sáng làm rạng ngời vinh quang Ba Ngôi Thiên Chúa. Hiến Chế tín lư về Giáo Hội khởi đầu và kết thúc bằng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Từ Thiên Chúa, do t́nh yêu mà có mọi sự, và trong t́nh yêu mọi sự qui về Ngài. Hiến Chế này là một lời tuyên xưng đức tin không lay chuyển và sẽ không chịu sự hao ṃn của thời gian.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
Tông Huấn Signum Magnum Dấu Hiệu Vĩ Đại Gửi Các Giám Mục Công Giáo Thế Giới Của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI Ban hành 13/5/1967 Chuyển ngữ Igna.M
Chúc Sức Khỏe và Phép Lành Ṭa Thánh đến Chư Huynh.
Giới Thiệu Dấu hiệu vĩ đại mà thánh Gioan Tông đồ đă thấy trên trời, “một người Phụ Nữ, ḿnh khoác mặt trời,” (1) được Phụng vụ thánh diễn giải, (2) không phải không có nền tảng, khi quy cho Đức Maria, mẹ của hết mọi người bởi ân sủng của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc. Thưa Chư Huynh, kư ức vẫn c̣n sống động trong tâm trí tôi về cảm xúc sâu sắc khi tôi tuyên bố Mẹ Thiên Chúa uy quyền là Mẹ thiêng liêng của Giáo hội, nghĩa là, của tất cả các tín hữu và các mục tử, như đỉnh cao của kỳ họp thứ ba Công Đồng Vatican II, sau khi đă long trọng ban bố Hiến Chế Tín Lư về Giáo hội. (3) Đó thật là niềm hạnh phúc tuyệt vời của rất nhiều Nghị phụ Công Đồng, cũng như của các tín hữu, những người có mặt trong nghi thức thánh thiêng tại Đại Thánh Đường Thánh Phêrô và toàn thể người Kitô giáo rải rác khắp thế giới. Kư ức xuất hiện bộc phát trong tâm trí nhiều người về chiến thắng vĩ đại đầu tiên của “người tớ nữ khiêm hạ của Chúa” (4) khi các Nghị Phụ từ Đông chí Tây, quy tụ trong Công Đồng Đại Kết tại Êphêsô năm 431, chào kính Đức Maria là “Theotokos” – Mẹ Thiên Chúa. Dân Kitô giáo của thành phố thời danh được đức tin hồ hởi thúc đẩy đă ḥa vào niềm vui của các Nghị Phụ mà cầm đuốc sáng cùng đi về tới nơi các vị ở. Với sự hài ḷng của người mẹ, Đức Trinh Nữ Maria hẳn đă nh́n các mục tử và tín hữu trong giờ vinh quang lịch sử đó của Giáo hội, mà thấy nơi những bài tụng ca ngợi khen, được cất lên chính là để tỏ ḷng tôn kính Người Con và sau đó là Mẹ, âm vang của thánh ca tiên tri mà bản thân Người theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần đă dâng lên Đấng Tối Cao; “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” thần trí tôi hớn hở vui mừng v́ Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nh́n tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đă làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (5) Nhân dịp các nghi lễ tôn giáo đang diễn ra vào thời điểm này để tôn vinh Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa ở Fatima, Bồ Đào Nha, là nơi Người được vô số tín hữu tôn kính v́ tấm ḷng nhân ái và từ bi của Người, (6) tôi muốn kêu gọi tất cả con cái Giáo hội một lần nữa lưu tâm tới mối liên kết bất khả phân ly giữa t́nh mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria, được làm sáng tỏ trong Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội (7) và bổn phận của những kẻ được cứu chuộc đối với Người, Mẹ Giáo Hội. Một khi nó được thừa nhận, nhờ vào nhiều chứng từ của Kinh Thánh và các Đức Giáo Hoàng, và được ghi trong Hiến Chế đă đề cập ở trên, rằng “Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Đấng Cứu Chuộc” (8) đă được “hợp nhất mật thiết và bền chặt với Ngài” (9) và Người có vai tṛ rất phi thường trong “mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và Nhiệm Thể”, nghĩa là trong “nhiệm cuộc cứu độ,” (11) có vẻ hiển nhiên rằng Đức Trinh Nữ “được Giáo hội tôn vinh và đặc biệt sùng kính, (12) “nhất là trong phụng vụ”, (13) không chỉ là “Mẹ Rất Thánh của Thiên Chúa và tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa Kitô,” (14) mà c̣n “là Mẹ của Giáo hội.” (15) Cũng không cần lo ngại cải cách phụng vụ, nếu đưa vào thực hành theo công thức “luật đức tin phải thiết lập luật cầu nguyện” (16), có thể gây bất lợi cho sự “biệt kính” (17) Đức Trinh Nữ Maria v́ các đặc ân của Người, mà trước hết trong số đó là địa vị Mẹ Thiên Chúa. Cũng không cần e ngại việc sùng kính Người sâu nặng hơn, phụng vụ cũng như riêng tư, có thể che khuất hoặc làm giảm bớt “việc tôn thờ được dâng lên Ngôi Lời Nhập Thể, cũng như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.” (18) Theo đó, thưa Chư Huynh, không muốn tŕnh bày lại ở đây giáo lư truyền thống của Giáo hội về chức năng của Mẹ Thiên Chúa trên b́nh diện cứu rỗi và mối liên hệ của Người với Giáo hội, tôi tin rằng, nếu chúng ta chăm chú vào việc suy xét về hai chân lư rất quan trọng cho sự đổi mới đời sống Kitô hữu, th́ chúng ta sẽ làm được một điều ǵ đó rất hữu ích cho linh hồn các tín hữu.
Phần I Sự thật đầu tiên là đây: Đức Maria là Mẹ Giáo Hội không chỉ bởi Người là Mẹ Chúa Kitô và liên kết rất mật thiết với Ngài trong “nhiệm cục cứu độ mới khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại nơi Người, để giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi nhờ các mầu nhiệm của thân xác Ngài” (19), mà c̣n v́ “Người là mẫu gương nhân đức cho toàn thể cộng đoàn những kẻ được chọn.” (20) Thật vậy, không người mẹ nhân loại nào hạn chế nhiệm vụ của ḿnh với thế hệ mới nhưng sẽ mở rộng chức năng nuôi dưỡng và giáo dục con cháu, v́ thế, Đức Trinh Nữ Maria, sau khi tham dự vào hy lễ cứu chuộc của Con ḿnh, và tham dự cách chặt chẽ để xứng đáng được Ngài tuyên bố là Mẹ không chỉ của Gioan môn đệ Ngài mà – chúng ta có thể được phép khẳng định điều đó – của cả loài người, theo cách nào đó Gioan là đại diện, (21) giờ đây, từ thiên đàng, tiếp tục thực hiện chức năng làm mẹ của Người với tư cách là người cộng tác trong việc sinh ra và phát triển sự sống thiêng liêng trong linh hồn những người được cứu chuộc. Đây là sự thật rất an ủi, nhờ sự cho phép quảng đại của Thiên Chúa Toàn Năng, là sự phối hợp của mầu nhiệm cứu độ con người; do đó các Kitô hữu phải nắm giữ như là đức tin. Nhưng Đức Maria cộng tác theo cách nào để phát triển các chi thể của Nhiệm Thể trong đời sống ân sủng? Trước hết, bằng những lời cầu nguyện không ngớt của Người được thúc đẩy bởi đức ái hết sức nồng nàn. Thật thế, Đức Thánh Trinh Nữ mặc dù hoan hỉ trong sự kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi quyền uy, nhưng không quên sự phát triển mỗi ngày của Con ḿnh, như chính Người lớn dần trong “cuộc lữ hành đức tin”. (22) Quả thực, khi nh́n họ trong Thiên Chúa và thấy rơ nhu cầu hiệp thông của họ với Chúa Giêsu Kitô, “do đó, Người măi tiếp tục và có thể chuyển cầu cho họ mọi lúc.” (23), Người tự biến ḿnh thành Trạng Sư, Đấng Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ và Đấng Trung Gian của họ. (24) Sự can thiệp này của Người với Chúa Con cho Dân Chúa, Giáo hội tin chắc như vậy, kể từ những thế kỷ đầu, được chứng thực bởi điệp ca rất cổ xưa này, với một chút khác biệt nhỏ, h́nh thành một phần lời nguyện phụng vụ ở Đông cũng như Tây phương: “Lạy Mẹ Thiên Chúa, chúng con t́m nơi nương ẩn dưới sự bảo vệ của t́nh thương Mẹ, xin đừng từ chối lời cầu xin của chúng con, nhưng xin cứu chúng con khỏi diệt vong. Ôi, chỉ ḿnh Mẹ có phúc.” (25) Cũng không ai tin sự can thiệp từ mẫu của Đức Maria sẽ làm phương hại đến hiệu quả ưu việt không thể thay thế của Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta. Trái lại, sự trung gian ấy rút ra được sức mạnh từ sự trung gian của Chúa Kitô mà tự thân là bằng chứng sáng ngời. (26) Nhưng sự cộng tác của Mẹ Giáo Hội trong việc phát triển đời sống thiêng liêng của các linh hồn không kết thúc ở việc nài xin Chúa Con. Người thể hiện nơi kẻ được cứu chuộc một ảnh hưởng khác: đó là gương mẫu. Một ảnh hưởng thực sự rất quan trọng, theo châm ngôn nổi tiếng: “Verba movent, exempla trahunt” (Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo). Trên thực tế, như lời dạy của bậc cha mẹ sẽ hiệu quả hơn rất nhiều nếu nó được củng cố bằng gương sáng từ cuộc sống tuân theo các quy tắc khôn ngoan con người và Kitô giáo, v́ vậy sự dịu dàng và mê hoặc tỏa ra từ những nhân đức siêu phàm của Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm thu hút các linh hồn trong cách không thể cưỡng lại để bắt chước gương Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà Người là h́nh ảnh trung thực nhất. V́ vậy, Công Đồng tuyên bố: “Nhờ thành kính tưởng nhớ Đức Maria và chiêm ngưỡng Người dưới ánh sáng của Ngôi Lời Nhập Thể, Giáo hội cung kính tiến sâu hơn vào mầu nhiệm cao thẳm, tức là mầu nhiệm Nhập Thể, và nên giống Phu Quân ḿnh ngày một hơn” (27). Hơn nữa, cũng nên nhớ sự thánh thiện cao vời của Đức Maria không chỉ là một món quà phi thường do ḷng rộng răi của Thiên Chúa. Đó c̣n là kết quả do Người cộng tác không ngừng và quảng đại với ư chí tự do vào những khơi động bên trong của Chúa Thánh Thần. Chính v́ sự hài ḥa hoàn hảo giữa ân sủng của Thiên Chúa với hoạt động của bản tính con người Đức Maria mà Người đă mang lại vinh quang tối cao cho Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh và trở thành niềm vinh dự rỡ ràng của Giáo hội, từ đó mà Phụng vụ thánh chào kính Người: “Mẹ là vinh quang của Giêrusalem, niềm vui của Israel, danh dự của dân tộc chúng con” (28). Chúng ta hăy suy ngắm trong các trang Phúc Âm những chứng cứ về sự ḥa hợp tuyệt vời như vậy. Ngay khi được sứ thần Gabriel trấn an rằng Thiên Chúa đă chọn Người làm mẹ tinh tuyền của Con duy nhất Ngài, Đức Maria đă không ngần ngại thưa lời ưng thuận một công việc có lẽ bằng tất cả nghị lực thuộc bản chất mong manh mà tŕnh bày: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (29). Kể từ giây phút đó, Người đă hiến trọn bản thân để phục vụ không chỉ Cha trên trời và Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng đă trở thành Con của Người, mà c̣n cho cả nhân loại, hiểu rơ rằng Chúa Giêsu, ngoài việc cứu dân Ngài khỏi nô lệ tội lỗi, c̣n trở thành Vua của Vương quốc mêsia, phổ quát và vĩnh cửu (30). Do đó, cuộc sống người phối ngẫu thuần khiết của thánh Giuse, người vẫn đồng trinh “khi sinh con và sau khi sinh con” – như Giáo hội Công giáo luôn tin tưởng và tuyên xưng (31) và phù hợp với Người, Đấng được nâng lên phẩm giá vô song từ chức vị Mẹ Thiên Chúa ( 32) – là một cuộc sống kết hợp hoàn hảo với Chúa Con mà Người đă chia sẻ trong niềm vui, nỗi buồn và chiến thắng của Ngài. Và ngay cả sau khi Chúa Kitô lên trời, Người vẫn kết hiệp với Ngài bằng một t́nh yêu mănh liệt nhất đang khi trung thành chu toàn sứ mạng mới là Mẹ thiêng liêng của người môn đệ yêu dấu và Giáo hội non trẻ. Có thể khẳng định rằng trọn cả cuộc đời người tớ nữ khiêm hạ của Chúa, từ khi được Thiên thần chào kính, cho đến lúc hồn-xác được đưa về vinh quang trên trời, là một cuộc đời phục vụ yêu thương. V́ vậy, tôi, hợp cùng các Thánh Sử, các Giáo Phụ và các Tiến sĩ Giáo hội, được gợi lại trong Hiến Chế Tín Lư “Lumen Gentium” (chương VIII), với ḷng đầy ngưỡng mộ, chiêm ngưỡng Đức Maria kiên định trong đức tin, mau mắn trong vâng lời, đơn giản trong khiêm nhường, hân hoan trong lời ca ngợi Chúa, nhiệt thành trong đức ái, mạnh mẽ và liên lỉ trong việc hoàn thành sứ mạng đến mức hy sinh bản thân, trong hiệp thông trọn vẹn cảm nghĩ với Con của Người đă hiến ḿnh trên Thập giá để ban cho con người sự sống mới. Trước nhân đức rạng ngời như vậy, bổn phận đầu tiên của tất cả những ai nhận Mẹ Chúa Kitô là mẫu mực của Giáo hội, là kết hiệp với Người để tạ ơn Đấng Tối Cao đă làm những việc trọng đại nơi Đức Maria v́ lợi ích của nhân loại. Nhưng điều này là không đủ. C̣n một bổn phận nữa của tất cả các tín hữu là tỏ ḷng tôn kính tớ nữ rất trung thành của Chúa, một niềm tôn kính ca ngợi, biết ơn và yêu mến v́, nhờ sự quan pḥng khôn ngoan và dịu dàng của Thiên Chúa, sự ưng thuận tự do và cộng tác quảng đại của Người vào các kế hoạch của Thiên Chúa đă và vẫn c̣n có ảnh hưởng lớn trong việc đạt được sự cứu độ con người (33). V́ thế, mọi Kitô hữu phải biến lời cầu nguyện của thánh Ansenmô thành lời nguyện của ḿnh: “Ôi Mẹ vinh quang, nhờ Mẹ mà chúng con có thể đáng được nâng lên tới Chúa Giêsu, Con của Mẹ, Đấng mà qua Mẹ đă hạ cố để xuống giữa chúng con”. (34)
Phần II Sốt Sắng Bắt Chước Các Nhân Đức Của Đức Maria Rất Thánh 1. Ḷng sùng kính đích thực đối với Đức Maria Rất Thánh phản ánh các nhân đức của Người Không phải ân sủng của Đấng Cứu Chuộc, cũng không phải là sự can thiệp mạnh mẽ của Mẹ Ngài và Mẹ thiêng liêng của chúng ta, cũng không phải là sự thánh thiện siêu vời của Người, có thể dẫn chúng ta đến bến cảng cứu độ nếu chúng ta không đáp ứng lại bằng ư chí kiên tŕ để tôn vinh Chúa Giêsu Kitô và Đức Trinh Nữ với ḷng sốt sắng noi theo các nhân đức cao cả của Các Ngài. Do đó, nhiệm vụ của tất cả các Kitô hữu là bắt chước trong tinh thần tôn kính những tấm gương về sự tốt lành Mẹ trên trời để lại cho họ. Thưa Chư Huynh, đây là một sự thật khác mà tôi rất vui mừng kêu gọi Chư Huynh và các tín hữu được giao phó cho sự chăm sóc mục vụ của Chư Huynh lưu ư, để họ đồng ḷng nghe theo lời khuyên của các Nghị phụ Công Đồng Vatican II: “Phần các tín hữu, hăy nhớ rằng, ḷng tôn sùng chân chính không hệ tại t́nh cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nh́n nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy t́nh con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Người.” (35) Bắt chước Chúa Giêsu Kitô chắc chắn là cách thực hiện thích hợp để đạt được sự thánh thiện và tự mô phỏng sự hoàn hảo tuyệt đối của Cha trên trời, theo sức lực của chúng ta. Nhưng trong khi Giáo hội Công giáo luôn tuyên bố một sự thật rất thánh thiêng, th́ cũng đă khẳng định việc bắt chước Đức Trinh Nữ Maria, không hề làm các tín hữu xao lăng việc trung thành theo Chúa Kitô, nhưng giúp họ vui vẻ và dễ dàng bắt chước hơn. V́, từ lúc luôn thi hành ư Chúa, Đức Maria đă là người đầu tiên xứng đáng với lời ca ngợi mà Chúa Kitô đă nói với các môn đệ Ngài: “Những ai thi hành ư muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” (36 ) 2. “Nhờ Đức Maria đến với Chúa Giêsu” V́ thế, quy tắc chung là “Nhờ Đức Maria đến với Chúa Giêsu” cũng có giá trị đối với việc bắt chước Chúa Kitô. Dù vậy, đừng để đức tin chúng ta bị xáo trộn, như thể có một thụ tạo xen vào chúng ta bằng mọi cách tương tự, ngoại trừ về tội lỗi, xúc phạm phẩm giá cá nhân chúng ta và ngăn cản sự gắn bó thân thiết trong mối tương quan tôn thờ và t́nh bạn của chúng ta với Con Thiên Chúa. Đúng hơn là chúng ta hăy nhận ra “ḷng nhân hậu và t́nh yêu thương của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta” (37), Đấng, để hạ ḿnh xuống tới sự khốn cùng của chúng ta, đă rũ bỏ uy nghiêm vô hạn của Ngài, chỉ mong làm sao để chúng ta dễ bắt chước hơn bằng cách ban cho chúng ta một kiểu mẫu con người là Mẹ của Ngài. Thật vậy, trong số loài người, Đức Maria đưa ra một tấm gương rất ngời sáng và gần gũi nhất với chúng ta, về sự vâng phục trọn hảo, nhờ đó chúng ta yêu mến và dễ dàng tuân theo ư muốn của Cha Hằng Hữu. Như chúng ta biết, chính Chúa Kitô đă tạo nên sự gần gũi hoàn toàn này với sự chấp thuận của Chúa Cha, lư tưởng tối cao trong hành vi con người của Ngài. Ngài tuyên bố: “Tôi hằng làm những điều đẹp ư Cha.” (38) 3. Đức Maria, Evà Mới, Hừng Đông của Tân Ước Nếu chiêm ngưỡng Đức Trinh Nữ Nazareth trong vầng hào quang đặc ân và các nhân đức của Người, chúng ta sẽ thấy Người tỏa sáng trước mắt chúng ta như “Evà Mới”, (39) được ca ngợi là Nữ Tử Sion, đỉnh cao của Cựu Ước và hừng đông của Tân Ước, trong đó “thời gian viên măn” (40) đă điểm, thời gian mà Thiên Chúa đă quyết định trước cho sứ mạng trong thế giới của Con Duy Nhất Ngài. Thật ra, Đức Trinh Nữ Maria, hơn tất cả các tổ phụ và tiên tri, hơn cả cụ Simeon “công chính và sùng đạo” đă chờ đợi và cầu khẩn “niềm an ủi của Israel... Đấng Kitô của Đức Chúa” (41), đă chào đón sự giáng thế của Ngài với bài thánh ca “Magnificat” khi Ngài ngự xuống cung ḷng rất trong sạch của Người để mặc lấy xác phàm của chúng ta. V́ vậy, Giáo hội Chúa Kitô chỉ ra nơi Đức Maria mẫu gương tiêu biểu nhất về cách tiếp nhận Ngôi Lời Thiên Chúa vào tinh thần chúng ta, theo ư kiến rơ ràng của Thánh Augustinô: “Đức Maria có phúc v́ đón nhận niềm tin vào Chúa Kitô hơn là việc thụ thai thân xác Chúa Kitô. Theo đó, t́nh huyết thống mẫu tử không mang lại lợi ích ǵ cho Đức Maria nếu Người không cảm thấy có phúc hơn khi được Chúa Kitô ở trong ḷng ḿnh.” (42) Và vẫn nơi Đức Maria, các Kitô hữu có thể ngưỡng mộ tấm gương về cách thực hiện, với sự khiêm nhường đồng thời với ḷng cao thượng, sứ mệnh mà Thiên Chúa giao phó cho mỗi người trong thế giới này, liên quan đến ơn cứu rỗi của chính họ và của đồng loại. “Vậy tôi khuyên anh em: hăy bắt chước tôi như tôi đă bắt chước Đức Kitô.” (43) Những lời này, và với lư do quan trọng hơn tông đồ Phaolô nêu ra cho các Kitô hữu thành Côrintô, có thể được Mẹ Giáo Hội nói với mọi tín hữu, những người, trong một bản ḥa âm đức tin và t́nh yêu với các thế hệ trong nhiều thế kỷ qua, đă ca ngợi Người có phúc. (44) Đó là một lời mời mà người tín hữu có nghĩa vụ hết ḷng lưu tâm. 4. Sứ điệp của Đức Maria về lời mời cầu nguyện, đền tội và kính sợ Thiên Chúa Một sứ điệp hết sức thiết thực dường như ngày nay gửi đến các tín hữu từ Đấng Vô Nhiễm, Đấng thánh, Đấng cộng tác với Chúa Con trong việc tái lập sự sống siêu nhiên trong các linh hồn. (45) Thật ra, khi sốt sắng chiêm ngưỡng Đức Maria, họ rút ra từ Người một sự khích lệ cho lời cầu nguyện tín thác, một sự thúc đẩy thực hành sám hối và niềm kính sợ Thiên Chúa. Tương tự như vậy, chính trong sự cao nâng Đức Maria này, họ càng thường nghe hơn những lời Chúa Giêsu Kitô đă tuyên bố Nước trời đến gần: “Hăy sám hối và tin vào Tin Mừng” (46); và lời cảnh báo nghiêm khắc của Ngài: “Nếu các ông không chịu sám hối, th́ các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.” (47) Do vậy, được thúc đẩy bởi t́nh yêu và mong muốn làm nguôi ngoai Thiên Chúa v́ những xúc phạm đến sự thánh thiện và công chính của Ngài, đồng thời, cảm động v́ tín thác vào ḷng thương xót vô hạn của Ngài, chúng ta phải chịu đựng những đau khổ tinh thần và thể xác để có thể đền tội chúng ta và đồng loại, và như vậy tránh được h́nh phạt hoặc “tổn hại” kép và về “ư nghĩa”, tức là mất Thiên Chúa – sự thiện tối cao – và sự sống vĩnh cửu. (48) 5. Chính Chúa Kitô cho biết Đức Maria là mẫu mực của Giáo Hội Điều hẳn kích thích các tín hữu hơn nữa để noi gương Đức Trinh Nữ Rất Thánh là chính Chúa Giêsu, bằng cách trao Đức Maria cho chúng ta với tư cách là Mẹ của chúng ta, đă ngầm cho biết Người là mẫu mực cần noi theo. Thực ra, con cái có cùng cảm nghĩ về mẹ của chúng và phản ánh nơi phẩm chất và nhân đức của chúng đó là điều tự nhiên. Do đó, mỗi người chúng ta có thể lặp lại với Thánh Phaolô: “Con Thiên Chúa yêu thương tôi và đă hiến ḿnh v́ tôi” (49) nên trong tất cả niềm tín thác, thánh Phaolô tin rằng Đấng Cứu Thế cũng đă để lại cho ông di sản tinh thần, Mẹ của Ngài, cùng với tất cả các kho tàng ân sủng và nhân đức mà Ngài đă ban cho Người, để Người đổ xuống trên chúng ta qua ảnh hưởng của lời cầu bầu quyền thế của Người và sự bắt chước nhiệt t́nh của chúng ta. Đây là lư do thánh Bernard khẳng định một cách đúng đắn: “Chúa Thánh Thần đến đổ đầy ân sủng cho Người, khi cùng một Thánh Thần tràn ngập Người một lần nữa, th́ Người cũng trở nên siêu phàm và mang lại ân sủng cho chúng ta.” (50) 6. Lịch sử Giáo hội luôn được soi sáng bởi sự hiện diện khai trí của Đức Maria Từ những ǵ tôi đă giải thích dưới ánh sáng Phúc Âm và truyền thống Công giáo, rơ ràng là t́nh mẫu tử thiêng liêng của Đức Maria vượt không gian và thời gian và thuộc về lịch sử Giáo hội hoàn vũ, bởi Người luôn hiện diện trong Giáo hội với sự trợ giúp từ mẫu. Cũng vậy, ư nghĩa lời khẳng định đă tỏ tường, điều này thường được lặp lại: kỷ nguyên của chúng ta có thể được gọi là kỷ nguyên Maria. Thực tế, nếu đúng là vậy, nhờ ân sủng cao trọng của Chúa, th́ vai tṛ được an bài của Đức Maria Rất Thánh trong lịch sử cứu độ đă được nhiều giai tầng Kitô hữu hiểu sâu sắc hơn, tuy nhiên, đừng nên để điều này khiến chúng ta cho rằng trong các thời đại trước chúng ta không có khả năng trực giác bất cứ điều ǵ về sự thật này hay những người trong tương lai sẽ bỏ qua nó. Đúng là tất cả các giai đoạn lịch sử của Giáo hội đă được và sẽ được hưởng lợi từ sự hiện diện của Mẹ Thiên Chúa v́ luôn gắn bó bền chặt với mầu nhiệm của Nhiệm Thể, mà Đầu của Nhiệm Thể được viết: “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy măi đến muôn đời.” (51) 7. Mẹ Giáo Hội, biểu ngữ hiệp nhất, kích thích t́nh huynh đệ hoàn hảo giữa tất cả các Kitô hữu Thưa Chư Huynh, chắc chắn tư tưởng của Giáo hội liên quan đến ḷng tôn kính ca ngợi, biết ơn và yêu mến Đức Trinh Nữ diễm phúc hoàn toàn phù hợp với giáo lư Phúc Âm, v́ nó được hiểu và giải thích chính xác hơn bởi truyền thống Đông phương cũng như Tây phương, khơi dậy trong tinh thần tôi niềm hy vọng lời khuyên mục vụ này của tôi để ḷng sùng kính Đức Maria ngày càng nồng nàn và hiệu quả hơn sẽ được các tín hữu dưới sự chăm sóc của Chư Huynh không chỉ quảng đại đón nhận, mà c̣n được những người không hưởng sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo, cùng với tôi, ca ngợi và tôn sùng Người Tớ Nữ của Chúa, Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Con Thiên Chúa. Xin Trái Tim Vô Nhiễm Đức Maria chiếu tỏa trước mắt mọi Kitô hữu như mẫu mực t́nh yêu hoàn hảo đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại; xin cho mẫu mực đó dẫn họ đến các Bí tích Thánh nhờ linh hồn được tẩy sạch khỏi vết nhơ và được giữ khỏi tội lỗi. Xin cho mẫu mực đó cũng kích thích họ đền bù vô vàn xúc phạm đến Thiên Chúa Uy Nghi. Cuối cùng, xin cho mẫu mực đó tỏa sáng như một biểu ngữ hiệp nhất và thúc đẩy hoàn thiện mối liên kết t́nh huynh đệ giữa tất cả các Kitô hữu trong ḷng một Giáo hội của Chúa Giêsu Kitô “được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Người t́nh con thảo, như đối với một người Mẹ rất yêu dấu.” (52) 8. Lời mời canh tân việc tận hiến cá nhân cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Maria Năm nay kỷ niệm 25 năm ngày vị tiền nhiệm tôi, Đức Piô XII, long trọng dâng Giáo hội và nhân loại cho Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ, vào ngày 31 tháng 10 năm 1942, nhân dịp thông điệp được truyền đến quốc gia Bồ Đào Nha (53) – một cuộc tận hiến mà tôi đă làm mới lại vào ngày 21 tháng 11 năm 1964 (54) – tôi khuyên hết mọi con cái Giáo hội canh tân cách cá nhân việc tận hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Giáo Hội và để sống lại hành động tôn kính rất cao quư này qua một cuộc sống phù hợp hơn bao giờ hết với ư muốn của Thiên Chúa (55) trong tinh thần phục vụ hiếu thảo và nhiệt t́nh bắt chước Nữ Vương thiên đàng. Cuối cùng, thưa Chư Huynh, tôi bày tỏ ḷng tin tưởng rằng, nhờ sự khích lệ của Chư Huynh, các giáo sĩ và giáo dân Kitô giáo được ủy thác cho sự chăm sóc mục vụ của Chư Huynh sẽ đáp lại với tinh thần quảng đại lời khuyên này của tôi để thể hiện với Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa ḷng yêu mến nồng nàn và niềm tin tưởng kiên vững hơn. Trong khi đó, tôi được an ủi bởi điều chắc chắn rằng Nữ Vương Thiên Đàng vinh quang và là Mẹ rất dịu dàng của chúng ta sẽ không bao giờ ngừng phù giúp mọi con cái Người và cũng không bao giờ rút sự bảo trợ thiên đàng của Người khỏi Giáo hội Chúa Kitô. Với Chư Huynh và các tín hữu của Chư Huynh, tôi hết ḷng ban phép lành Ṭa thánh như một cam kết ân huệ thiêng liêng và như dấu hiệu ḷng ưu ái của tôi. Ban tại Đền thánh Phêrô, Rôma ngày 13 của tháng 5 năm 1967, năm thứ tư triều đại giáo hoàng của tôi.
Tham Khảo: 1. Cf. Apocalypse 12,1. 2. Cf. Epistle of Mass for the feast of the Apparition of Mary Immaculate, Feb. 11. 3. Cf. Acta Apostolica Sedis 57, 1965, pp. 1-67. 4. Cf. Luke 1:38. 5. Ibid., 1:46 and 48-49. 6. Radio message of Piô XII, May 13, 1946, given for the Christians of Portugal, Acta Apostolicae Sedis 38, 1946, p. 264. 7. Cf. chapter VIII, paragraph III, on the Blessed Virgin and the Church, Acta Apostolicae Sedis, 57, 1965, pp. 62-65. 8. Cf. ibid. n. 53, p. 58. 9. Cf. ibid. 10. Ibid. n. 54, p. 59. 11. Ibid. n. 55. p. 59. 12. Ibid. n. 66, p. 65. 13. Allocution to the Council Fathers in the Vatican Basilica on the feast of the Presentation, third session of the Council, Acta Apostolicae Sedis, 56, 1964, p. 1016. 14. Cf. dogmatic constitution Lumen Gentium, n. 66: Acta Apostolicae Sedis, 57, 1965, p. 65. 15. Cf. ibid., n. 67, p. 65. 16. Piô XII, encyclical letter Mediator Dei: Acta Apostolicae Sedis, 38, 1947, p. 541. 17. Cf. dogmatic constitution Lumen Gentium, n. 66: Acta Apostolicae Sedis, 57, 1965, p. 65. 18. Ibid. n. 66, p. 65. 19. Ibid. n. 55, p. 60. 20. Ibid. n. 65, p. 64, also n. 63. 21. Cf. ibid. n. 58, p. 61; Lêô XIII encyclical letter Adiutricem populi, Acts of Lêô XIII, 15, 1896, p. 302. 22. Dogmatic constitution Lumen Gentium, n. 58; Acta Apostolicae Sedis, 57, 1967, p. 61. 23. Heb. 7, 25. 24. Cf. dogmatic constitution Lumen Gentium, n. 62: Acta Apostolicae Sedis, 57, 1965, p. 61. 25. Cf. Dom F. Mercenier, L'Antienne Mariale grecque la plus ancienne in Le Museon 52, 1939, pp. 229-233. 26. Cf. dogmatic constitution Lumen Gentium, n. 62: Acta Apostolicae Sedis, 57, 1965, p. 63. 27. Ibid. n. 65, p. 64. 28. Second Antiphon of lauds, feast of the Immaculate Conception. 29. Luke 1, 38. 30. Cf. Matt. 1, 21; Luke 1, 33. 31. Cf. St. Lêô, martyr, letter, Lectis dilectionis tuae to Flavianum; PL 54, 759; idem, letter, Licet per nostros to Julian, Ep. Coensem: p. 54, 803; St. Hormisdas, Ep. Inter ea quae to Justinian, emperor, PL 63, 407; Lateran Council, October, 609, under Martin I, canon 3: Caspar, ZKG, 51, 1932, p. 88; Conc. Tolet. XVI, Symbol. article 22: J. Madoz El Simbolo del Concilio XVI de Toledo in Estudios Onienses, ser. I, volume 3, 1946; dogmatic constitution Lumen Gentium, nn. 52, 55, 57, 59, 63; Acta Apostolicae Sedis, 57, 1965, pp. 58-64. 32. Cf. St. Thomas, Summa Theologica, Part I, q. 25, a. 6, ad. 4. 33. Cf. dogmatic constitution Lumen Gentium, n. 56; Acta Apostolicae Sedis, 57, 1965, p. 60. 34. Orat. 54, PL 158, 961. 35. Dogmatic constitution Lumen Gentium, n. 67; Acta Apostolicae Sedis, 57, 1965, p. 66; confer St. Thomas, Summa Theologica, Part II-II, q. 81, a. 1, ad. 1; Part III, q. 25, aa. 1, 5. 36. Matt. 12, 50. 37. Cf. Titus 3, 4. 38. St. John 8, 29. 39. Cf. St. Irenaeus, Adv. Haer. III, 22, 4: PG 959; St. Epiphanius, Haer. 78, 18: PG 42, 728-729; St. John Damascene, first homily on the birth of Mary: PG 96, 671 ss; dogmatic constitution Lumen Gentium, n. 56; Acta Apostolicae Sedis, 57, 1965, pp. 60-61. 40. Galatians 4, 4. 41. St. Luke 2, 25-26. 42. Serm. 215, 1: PL 38, 1074. 43. 1 Cor., 4, 16. 44. Cf. St. Luke. 1, 48. 45. Cf. dogmatic constitution Lumen Gentium, n. 61; Acta Apostolicae Sedis 57, 1965, p. 63. 46. St. Mark 1, 15; cf. St. Matthew 3, 2; 4, 17. 47. St. Luke 13, 5. 48. Cf. St. Matthew 25, 41; dogmatic constitution Lumen Gentium, n. 48: Acta Apostolicae Sedis, 57, 1965, p. 54. 49. Galatians 2, 20; cf. Eph. 5, 2. 50. Second homily super Missus est, n. 2: PL 183, 64. 51. Heb. 13, 8. 52. Dogmatic constitution Lumen Gentium, nn. 53: Acta Apostolicae Sedis, n. 53, 57, 1965, p. 59. 53. Cf. discourses and radio messages of Piô XII, volume IV, pp. 260-262; cf. Acta Apostolicae Sedis, 34, 1942, pp. 345-346. 54. cit. Apostolicae Sedis, 56, 1964, p. 1017. 55. Cf. oration for feast of the Immaculate Heart of Mary, Aug. 22.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (22/10/1978 – 2/4/2005)
Thông Điệp Redemptoris Mater Mẹ Đấng Cứu Thế Của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ban hành 25/3/1987 Chuyển ngữ, một nhóm Linh mục Hoa Kỳ
Chư huynh đáng kính và các con nam nữ thân mến Kính chào và phép lành Ṭa Thánh
NHẬP ĐỀ
1. Mẹ Chúa Cứu Thế có một địa vị rất rơ ràng trong chương tŕnh cứu chuộc, v́ “khi thời viên măn đến, Thiên Chúa đă sai Con Ngài sinh bởi người nữ, sinh dưới chế độ lề luật, để cứu chuộc những người sống trong chế độ lề luật, hầu ta nhận quyền làm nghĩa tử. Và điều chứng tỏ anh chị em là con cái, chính là việc Thiên Chúa sai Thánh Linh của Con Ngài đến ngự vào ḷng anh chị em, Thánh Linh kêu lên Abba! Lạy Cha! “(Gal.4,4-6). Những lời trên đây của Thánh Phaolô Tông đồ đă được Công đồng Vaticanô II trích lại khi bắt đầu khi thảo luận về Đức Trinh Nữ Maria (1). Tôi cũng muốn dùng lại những lời này để khởi đầu suy niệm của Tôi về nhiệm vụ của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô và về sự hiện diện tích cực và gương mẫu của Mẹ trong đời sống Giáo hội. Đây là những lời đồng ca tụng t́nh yêu Chúa Cha, sứ mệnh Chúa Con, hồng ân Chúa Thánh Linh, nhiệm vụ người nữ đă sinh hạ Chúa Cứu Thế và chức vị làm con của của chúng ta trong mầu nhiệm “thời viên măn”. (2) “Thời viên măn” nghĩa là thời buổi đă được xác định từ đời đời khi Chúa Cha sai Con Ngài đến thế gian “để ai tin Ngài khỏi hư mất, nhưng có sự sống đời đời” (Ga.3,16). Thời gian viên măn là thời điểm ân phúc “Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa…trở thành nhục thể, ngự giữa chúng ta”.(Ga.1,1-14), trở nên người Anh chúng ta. Thời viên măn này là lúc Chúa Thánh Linh đổ tràn ơn thánh xuống Đức Maria thành Nazareth, tạo dựng nhân tính Chúa Kitô trong ḷng trinh khiết của Người. Thời gian viên măn này là lúc mà, nhờ sự vĩnh cửu đi vào trong thời gian, chính thời gian được cứu chuộc, được đầy tràn mầu nhiệm Chúa Kitô, hoàn toàn trở nên “thời gian cứu rỗi”. Sau hết, thời gian viên măn có ư nói đến sự khởi đầu mầu nhiệm cuộc lữ hành của Giáo hội. Trong phụng vụ, Giáo hội kính chào Đức Mẹ Maria thành Nazareth như là sự khởi hành của ḿnh (3), bởi v́ trong biến cố Đức Mẹ thụ thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, Giáo hội thấy ơn cứu rỗi của ngày Phục Sinh đă rọi chiếu và thể hiện trước nơi Đức Mẹ Maria, thành phần cao cả nhất của Giáo hội. Và nhất là, v́ trong biến cố Ngôi Lời Nhập Thể, Giáo hội gặp được Đức Kitô và Đức Mẹ Maria liên kết không thể ĺa nhau, gặp được Đấng vừa là Chúa vừa là Đầu của ḿnh, và gặp thấy Đấng khi thưa lời “Xin Vâng” đầu tiên của Giao ước mới, đă biểu hiện trước địa vị của Giáo hội như là hiền thê và hiền mẫu. 2. Được nâng đỡ bằng sự hiện diện của Chúa Kitô (Mt.28,20), Giáo hội tiến bước trong thời gian, tới ngày tận cùng các thế hệ để gặp Chúa đang tới. Nhưng trên đường lữ hành này, - Tôi muốn lưu ư ngay về điểm đó – Giáo hội đi theo con đường Đức Trinh Nữ Maria “đă tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hợp nhất với Con ḿnh cho tới cây Thập giá” (4). Tôi lấy lại những lời súc tích và nhiều gợi ư của Hiến chế “Ánh Sáng Muôn Dân” mà trong phần kết thúc, đă tŕnh bày một tổng hợp rơ ràng học thuyết của Giáo hội tôn kính như Người Mẹ rất yêu dấu và như gương mẫu của ḿnh về đức tin, đức cậy và đức mến. Ít lâu sau Công đồng, Đức Phaolô VI, vị tiền nhiệm khả kính của Tôi đă muốn nói thêm về Đức Trinh Nữ Rất Thánh: “Mẹ Đức Kitô” (Christi Mater), rồi trong hai Tông huấn “Điềm Vĩ Đại” (Signum Magnum) và “Tôn Sùng Đức Maria” (Marialis Cultus) (5) những nền tảng và tiêu chuẩn về việc tôn kính đặc biệt Mẹ Chúa Kitô trong Giáo hội, cũng như những h́nh thức khác tôn kính Đức Mẹ Maria: trong phụng vụ, nơi dân chúng, hoặc riêng tư, những h́nh thức sùng kính đó đáp ứng với tinh thần đức tin. 3. Hoàn cảnh thúc đẩy Tôi lại đem tŕnh bày vấn đề này, chính là viễn ảnh năm 2000 sắp tới. là Năm Thánh kỷ niệm 2000 năm Đức Kitô sinh ra, đồng thời hướng chúng ta nh́n về Mẹ Ngài. Trong những năm gần đây, đă có nhiều ư kiến đề nghị trước khi mừng Năm Thánh 2000, nên mở một Năm Thánh tương tự kính Sinh Nhật Đức Mẹ. Trong thực tế, dù không thể xác định một thời điểm chính xác theo thứ tự thời gian về ngày tháng Đức Mẹ sinh ra, Giáo hội vẫn luôn nhận thức rằng: Đức Mẹ Maria đă xuất hiện nơi chân trời lịch sử cứu rỗi, trước Chúa Kitô (6). Sự kiện rơ ràng là khị “Thời gian viên măn” gần kề, nghĩa là lúc Đấng Emmanuel đem ơn cứu rỗi đến, th́ Đấng được tiền định từ đời đời để làm Mẹ Ngài đă hiện diện trên mặt đất. Việc Đức Mẹ xuất hiện trước khi Chúa Kitô đến vẫn được nhắc lại hàng năm trong phụng vụ mùa Vọng. V́ thế, nếu chúng ta đem so sánh những năm sắp kết thúc Đệ nhị Thiên niên kỷ sau Chúa Giáng Sinh, để bắt đầu Đệ tam Thiên niên kỷ với thời gian chờ đợi Đấng Cứu Thế xưa, th́ chúng ta sẽ hiểu v́ sao trong thời gian này chúng ta phải hướng cách riêng về Đấng trong “Đêm” chờ đợi ngày Giáng Sinh, đă bắt đầu sáng cho như “Sao Mai” đích thực (Stella Matutina). Cũng như Sao Mai cùng với Rạng Đông báo hiệu Mặt Trời đang mọc, th́ Đức Mẹ Maria, từ lúc thụ thai Vô Nhiễm Nguyên Tội đă tiên báo Đấng Cứu Thế sẽ xuất hiên, Ngài là “Mặt Trời Công Chính” trong lịch sử nhân loại.(7) Đức Mẹ hiện diện giữa dân Israel một cách ẩn dật kín đáo đến nỗi người đồng hương không ai chú ư đến, nhưng Mẹ đă sáng chói trước mặt Đấng Hằng Hữu, Đấng đă đưa “Thiếu Nữ thành Sion” ẩn khuất này (x.Zeph,3,14; Zech.2,10) hợp tác vào toàn thể chương tŕnh cứu rỗi nhân loại. Một điều rất hữu lư là vào cuối Đệ nhị Thiên niên kỷ này, chúng ta, những Kitô hữu, biết rơ chương tŕnh quan pḥng của Chúa Ba Ngôi chí thánh là thực tại chủ yếu của mặc khải đức tin, cảm thấy cần làm nổi bật lên sự hiện diện vô song của Mẹ Chúa Kitô trong lịch sử, đặc biệt trong những năm cuối trước năm 2000. 4. Công đồng Vaticanô II đă chuẩn bị cho chúng ta về vấn đề này bằng cách tŕnh bày giáo huấn vế Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo hội. Nếu đúng như lời Công đồng dạy (8). “Mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể” th́ cần phải áp dụng nguyên tắc này một cách đặc biệt cho “người thiếu nữ của giống ḍng nhân loại”, cho “người nữ” phi thường đă trở nên Mẹ Chúa Kitô. Mầu nhiệm về người nữ này chỉ được hiểu rơ đầy đủ trong mầu nhiệm Chúa Kitô mà thôi. Chính Giáo hội từ lúc sơ khởi đă giải thích như vậy: Mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể đă giúp Giáo hội đi sâu vào và làm sáng tỏ hơn mầu nhiệm của Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể. Công đồng Êphêsô (năm 431) đă có quyết nghị quan trọng để làm sáng tỏ vấn đề này. Công đồng này đă đem lại niềm vui vĩ đại cho các tín hữu khi long trọng tuyên bố Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, như là một chân lư đức tin của Giáo hội: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (Theotókos), v́ do quyền lực Chúa Thánh Linh, Người đă thụ thai trong cung ḷng trinh khiết và đă sinh hạ Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, đồng bản tính với Đức Chúa Cha (9), “Con Thiên Chúa….sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria…đă thực sự trở nên một người giữa chúng ta”. (10). Ngài đă trở thành con người. Như thế, nhờ mầu nhiệm của Chúa Kitô, mầu nhiệm về Mẹ Ngài đă chiếu toàn vẹn từ chân trời đức tin của Giáo hội. Đối với Công đồng Êphêsô xưa và Giáo hội ngày nay, tín điều Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đă trở nên như ấn tín của tín điều Ngôi Hai Nhập Thể, nghĩa là Ngôi Hai thực sự đă nhận lấy bản tính nhân loại trong Ngôi Vị duy nhất của Ngài mà không hủy bỏ nó. 5. Khi tŕnh bày Đức Mẹ Maria trong mầu nhiệm Chúa Kitô, Công đồng Vaticanô II cũng đă t́m ra được cách thức hiểu biết thấu đáo hơn về mầu nhiệm Giáo hội. Với tư cách là Mẹ Chúa Kitô, Đức Mẹ Maria đă kết hợp cách đặc biệt với Giáo hội , “Giáo hội mà Chúa Kitô đă lập làm thân thể của Ngài” (11). Thật là ư nghĩa khi văn kiện của Công đồng đă có ư nối liền chân lư Giáo hội là thân thể Chúa Kitô (theo giáo huấn các Thư thánh Phaolô) với chân lư Con Thiên Chúa “do quyền lực Chúa Thánh Linh đă giáng sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria”. Như thế việc Nhập Thể được nối tiếp trong mầu nhiệm Giáo hội là thân thể Chúa Kitô. Và chúng ta không thể nghĩ đến việc Nhập Thể mà không nghĩ đến Đức Maria, Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể. Tuy nhiên, trong phần tŕnh bày các suy nghĩ của Tôi, Tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh về “cuộc lữ hành đức tin”, trong đó “Đức Trinh Nữ Rất Thánh đă tiến bước, trung thành kết hợp với Chúa Kitô”. (12) Với phương cách này, sợi dây kép kết hợp Mẹ Thiên Chúa với Chúa Kitô và Giáo hội mang một ư nghĩa lịch sử. Ở đây, chúng ta không những chỉ bàn đến lịch sử Đức Mẹ Đồng Trinh, đến cuộc lữ hành đức tin của Mẹ, đến “phần nhất hảo” Mẹ đă chọn trong mầu nhiệm cứu rỗi, mà c̣n bàn đến lịch sử của toàn Dân Chúa, của tất cả những ai dự phần vào cùng một “cuộc lữ hành đức tin đó”. Công đồng đă tŕnh bày vấn đề này trong một bản văn khác khi dạy rằng: Đức Mẹ Maria “đă đi tiền phong” để trở nên “gương mẫu của Giáo hội…trong đức tin, đức ái và trong việc kết hợp trọn hảo với Chúa Kitô” (13). Khi nói đến Mẹ, việc “Đức Mẹ đi tiền phong” như h́nh ảnh, như mẫu gương là có ư nói đến mầu nhiệm thâm sâu của Giáo hội, v́ khi Giáo hội thực hiên và hoàn tất sứ mệnh cứu rỗi đă được trao phó, sẽ trở nên “mẹ và trinh nữ” như Đức Mẹ Maria. Giáo hội là trinh nữ “đă giữ ǵn toàn vẹn và tinh tuyền ḷng trung nghĩa đă hiến cho Phu Quân “và” đă trở thành người mẹ khi sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Linh và sinh ra do Thiên Chúa, để họ lănh nhận một đời sống mới và bất diệt”. (14) 6. Tất cả các điều này đă được hoàn thành trong tiến tŕnh lịch sử vĩ đại, có thể so sánh với “một cuộc hành tŕnh”. Cuộc lữ hành đức tin có ư chỉ lịch sử nội tâm, nghĩa là lịch sử các linh hổn. Nhưng cũng là lịch sử của con người lệ thuộc vào điều kiện tạm thời dưới thế, bị đặt vào chiều hướng lịch sử. Trong những suy tư tiếp theo, chúng tôi muốn tập trung vào giai đoạn hiên tại mặc dầu chưa phải là lịch sử, nhưng luôn luôn h́nh thành lịch sử, đặc biệt theo nghĩa lịch sử cứu độ. Trong giai đoạn này, đang mở ra một khoảng không gian rộng lớn, trong đó Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria tiếp tục “đi trước” Dân Thiên Chúa. Cuộc lữ hành đức tin đặc biệt của Đức Mẹ luôn trở nên điểm t́m hiểu liên tục cho Giáo hội, cho mỗi cá nhân cũng như cộng đoàn, cho các dân tộc và các quốc gia, và theo một nghĩa nào đó, cho cả nhân loại. Thực khó mà bao gồm và đo lường được phạm vi của nó. Công đồng nhấn mạnh rằng: Mẹ Thiên Chúa là sự hoàn thành của Giáo hội trong ngày tận thế. “Trong Đức Nữ Trinh Rất Thánh, Giáo hội đă đạt tới hoàn hảo không t́ ố, không vết nhăn”. (Eph.5,27), đồng thời Công đồng c̣n dạy: “Những người theo Chúa Kitô vẫn phải cố gắng chiến thắng tội lỗi để lớn lên trong sự thánh thiện. v́ thế, họ ngước nh́n lên Đức Mẹ Maria là gương mẫu nhân đức sáng ngời cho toàn thể cộng đoàn những người được tuyển chọn”. (15) Đức Maria, Mẹ Con Thiên Chúa, không c̣n phải hành tŕnh trong đức tin nữa: đă được hiển vinh bên cạnh Con ḿnh trên trời. Đức Mẹ Maria đă bước qua ngưỡng cửa phân chia đức tin với sự “nh́n tận mặt” (I Cor.13,12). Dầu vậy, trong việc hoàn thành cánh chung này, Đức Mẹ Maria vẫn là Ngôi Sao Biển (Maris Stella) (16) cho tất cả những ai phải vượt qua cuộc lữ hành đức tin. Nếu họ ngước mắt nh́n lên Mẹ bất cứ ở nơi nào trên dương thế, họ ngước nh́n Mẹ v́ “Đức Mẹ đă sinh ra Người Con mà Thiên Chúa đă đặt làm Con đầu ḷng giữa nhiều anh em” (Rm.8,29) (17) và cũng v́ “Đức Mẹ đă cộng tác vào việc sinh hạ và giáo dục những anh chị em đó với t́nh Mẫu tử”. (18)
PHẦN I ĐỨC MẸ MARIA TRONG MẦU NHIỆM CHÚA KITÔ
1. Đầy Ơn Phúc
7. “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng ta. Từ trời, Thiên Chúa đă đổ xuống cho chúng ta tràn đầy mọi ơn phúc thiêng liêng trong Đức Kitô” (Eph. 1,3). Những lời này trích Thư Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Êphêsô tỏ rơ ư định đời đời của Thiên Chúa Cha về chương tŕnh cứu chuộc loài người trong Đức Kitô. Đây là chương tŕnh phổ quát nhằm hết mọi người nam cũng như nữ đă được tạo dựng theo h́nh ảnh của Thiên Chúa từ “thuở ban đầu”, th́ cũng được bao gồm tự đời đời trong chương tŕnh cứu chuộc. Chương tŕnh này được mặc khải trọn vẹn trong “thời gian viên măn” khi Chúa Kitô ngự đến lần cuối cùng. Thực ra, tiếp theo giáo huấn của Thánh Phaolô, “Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô đă chọn chúng ta trong Ngài trước khi tạo thành vũ trụ, để chúng ta nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài. Ngài đă tiền định cho chúng ta được phúc làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, chiếu theo mục đích của ư định Ngài, để ca tụng ân sủng vinh quang mà Ngài đă ban xuống cho chúng ta trong Con yêu dấu. Trong Chúa Kitô, chúng ta được cứu chuộc, nhờ máu Ngài, được ơn tha thứ mọi tội lỗi, chiếu theo lượng phong phú của ân sủng”. (Eph.1,4-7) Chương tŕnh cứu chuộc của Thiên Chúa đă được mặc khải trọn vẹn cho chúng ta nhờ việc Chúa Kitô đến trần gian là chương tŕnh đă được tiền định từ đời đời. Theo giáo huấn Thánh Phaolô đă trích dẫn trên đây và các Thư khác (x. Col.1,12-14 ; Rm.3,24 ; Gal. 3,13 ; II Cor. 5,18-19). Chương tŕnh này tự đời đời được gắn liền với Đức Kitô. Chương tŕnh đó bao gồm hết mọi người, nhưng dành một chỗ đặc biệt cho Người Nữ là Mẹ Đấng đă được Thiên Chúa Cha trao phó công việc cứu chuộc (19). Như Công đồng Vaticanô II đă dạy: “Người Nữ này đă được phác họa trong lời hứa chiến thắng con rắn, lời hứa mà tổ tông chúng ta đă nhận được sau khi phạm tội” – theo sách Khởi Nguyên (x. Gen. 3,15) “Người Nữ ấy chính là Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai tên là Emmanuel” – theo lời tiên tri Isaia (x.Is.7,14) (20). Như thế, Cựu ước dọn đường cho “thời gian viên măn” lúc mà Thiên Chúa Cha “sai Con Một ḿnh sinh bởi người nữ…để chúng ta được nhận làm dưỡng tử”. Biến cố Con Thiên Chúa đến trần gian đă được tường thuật trong các đoạn đầu của Phúc âm thánh Luca và thánh Matthêu. 8. Biến cố Truyền Tin đă thực sự dẫn đưa Đức Mẹ Maria vào mầu nhiệm Chúa Kitô. Biến cố này đă xảy ra tại làng Nazareth, trong hoàn cảnh rơ rệt của lịch sử dân Israel là dân tộc đầu tiên đă tiếp nhận lời hứa của Thiên Chúa. Sứ giả Thiên Chúa đă thưa vói Trinh Nữ Maria: “Kính chào Trinh Nữ, Đấng đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ” (Lc.1,28). “nghe lời chào đó, Maria bối rối và tự nghĩ lời chào đó có ư nghĩa ǵ” (Lc.1,28). Những lời lạ thường đó có ư nghĩa ǵ, nhất là câu nói: “Đấy ơn phúc” (Kecharitoméne) (21). Nếu chúng ta muốn suy ngẫm cùng Đức Mẹ về những lời đó, nhất là lời “đầy ơn phúc”, chúng ta có thể hiểu được ư nghĩa khi đem so sánh với đoạn Thư gởi giáo đoàn Êphêsô được trích dẫn ở trên. Và nếu, sau khi Thiên sứ báo tin, Đức Trinh Nữ thành Nazareth c̣n được chào là “Người có phúc hơn mọi phụ nữ” (Lc.1,42), sự kiện ơn phúc đó được sáng tỏ v́ “Thiên Chúa Cha” đă đổ tràn cho chúng ta “trên quê trời, trong Chúa Kitô”. Đây là một phúc lành thiêng liêng liên hệ đến mọi người và bao gồm sự sung măn và phổ quát (mọi thứ phúc lành). Nó xuất phát từ t́nh yêu kết hợp Đức Chúa Cha với Đức Chúa Con trong Chúa Thánh Linh. Đồng thời cũng là một phúc lành qua Chúa Giêsu đổ tràn trên lịch sử nhân loại cho đến tận thế, tức là trên mọi người. Tuy nhiên, phúc lành này dành cho Đức Mẹ Maria với mức độ riêng biệt và ngoại thường. V́ thế Mẹ đă được bà Êlisabeth chào khen là: “Người có phúc hơn mọi phụ nữ”. Lư do của hai lời chào mừng trên đây là v́ trong tâm hồn “Thiếu nữ thành Sion”, một cách nào đó, đă biểu lộ tất cả “vinh quang ân sủng” mà “Thiên Chúa Cha…đă ban cho chúng ta trong Con yêu dấu của Ngài”. Sứ giả Thiên Chúa đă chào kính Đức Mẹ Maria là “Đấng đầy ơn phúc”. Vị Thiên sai đă gọi Đức Mẹ như thể “Đầy ơn phúc” là tên thật của Người. Vị Sứ giả không gọi theo tên thật người ta quen gọi Đức Mẹ thời đó là MIRYAM (MARIA), nhưng đă gọi Mẹ với tên mới: “ĐẦY ƠN PHÚC”. Tên này có ư nghĩa ǵ? Tại sao vị Tổng Lănh Thiên Thần đă gọi Trinh nữ thành Nazareth như thế? Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, “Ơn Phúc” có nghĩa là “Hồng ân đặc biệt”, mà theo Tân ước, ơn phúc bắt nguồn chính thức trong đời sống Chúa Ba Ngôi là Thiên Chúa T́nh yêu (I Ga. 4,8). Kết quả của T́nh yêu này là “sự tuyển chọn” mà Thư gửi giáo đoàn Êphêsô đă đề cập tới. Về phần Thiên Chúa, sự tuyển chọn là, tự đời đời Chúa đă muốn cứu rỗi loài người bằng cách cho con người thông phần vào chính sự sống riêng của Ngài (x. II Pr.1,4) trong Chúa Kitô: đó là ơn cứu rỗi qua việc thông phần vào sự sống siêu nhiên. Hiệu quả của hồng ân vĩnh cửu này, của ân huệ con người được Thiên Chúa tuyển chọn, phát sinh ra mầm mống sự thánh thiện, hay như một con suối vọt lên trong linh hồn như ân huệ của chính Thiên Chúa, Đấng đă ban phát sự sống và sự thánh thiện cho con người được tuyển chọn qua ơn thánh. Như thế, sự chúc lành cho con người “bằng mọi phúc lành thiêng liêng” được hoàn tất, nghĩa là nó trở nên một thực tại: “con người được làm dưỡng tử trong Chúa Kitô”, Đấng tự đời đời là “Con yêu dấu” Đức Chúa Cha. Khi chúng ta đọc” Vị sứ thần thưa với Đức Mẹ: “Trinh Nữ đầy ơn phúc”, bản văn Phúc âm quy tụ lại các mặc khải và lời hứa xưa, cho ta hiểu rằng đây có ư nói về một phúc lành thiêng liêng đặc biệt giữa “mọi phúc lành thiêng liêng trong Chúa Kitô”. Trong mầu nhiệm Chúa Kitô, Đức Mẹ Maria hiện diện “trước khi tạo dựng thế gian”, là Người Nữ Chúa Cha đă chọn làm Mẹ của Con Ngài trong mầu nhiệm Nhập Thể, và hơn thế nữa, cùng với Chúa Cha, Chúa Con đă chọn Đức Mẹ, và tự đời đời đă trao phó Mẹ cho Chúa Thánh Linh. Đức Mẹ Maria kết hơp với Chúa Giêsu một cách đặc biệt, hoàn toàn ngoại lệ, và cũng như Đức Kitô, Mẹ được yêu thương đời đời trong người Con chí ái, người Con đồng bản tính với Đức Chúa Cha, trong Ngài tập trung tất cả “vinh quang của ơn sủng”. Cùng một trật, Đức Mẹ Maria hoàn toàn mở rộng cơi ḷng hướng về “ân huệ từ trời cao” này (x. Gc.1,17). Như Công đồng đă dạy: “Đức Mẹ Maria trỗi vượt trên các người khiêm nhường và khó nghèo của Chúa, là những người tin tưởng hy vọng lănh nhận ơn cứu độ nơi Chúa”. (22) 9. Nếu lời chào và danh hiệu “Đầy ơn phúc” đă nói lên tất cả những điều trên, th́ trong mạch văn của Sứ thần truyền tin, lời chào và danh hiệu đó trước hết ám chỉ việc Đức Mẹ Maria được tuyển chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa. Nhưng, đồng thời danh hiệu “Đầy ơn phúc” cũng chỉ tất cả các ơn siêu nhiên Đức Mẹ Maria được hưởng v́ đă được chọn và được dành riêng để làm Mẹ Chúa Kitô. Nếu việc tuyển chọn này là nền tảng để hoàn thành ư định cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa, và nếu việc tuyển chọn đời đời trong Chúa Kitô và ơn gọi được tước vị làm nghĩa tử đă tiền định cho mọi người, th́ việc tuyển chọn Mẹ Maria hoàn toàn đă chiếm một chỗ riêng biệt và duy nhất trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Thiên sứ đă thưa tŕnh Đức Mẹ: “Hỡi Maria, đừng sợ, v́ Trinh Nữ đă được ơn nghĩa nơi Thiên Chúa. Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một Con trai” Trinh Nữ sẽ đặt tên Con trẻ ấy là GIÊSU, Ngài sẽ nên cao cả, thiên hạ sẽ gọi Ngài là Con Đấng Tối Cao” (Lc.1,30-32). Và khi cảm thấy bối rối trước lời chào lạ thường đó, Đức Trinh Nữ đă hỏi lại Sứ thần: “Điều này xảy ra thế nào được, v́ tôi không biết đến người nam?”. Tức th́ Đức Trinh Nữ nhận được lời Sứ thần giải đáp và xác quyết: “Chúa Thánh Linh sẽ ngự xuống Trinh Nữ và quyền phép Đấng Tối Cao sẽ bao phủ Trinh Nữ. V́ thế, trẻ thánh Trinh Nữ sinh hạ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. (Lc.1,35) Như thế, giây phút Truyền Tin là lúc mặc khải về mầu nhiệm Nhập Thể bắt đầu thực hiện trên dương thế. Thiên Chúa đă tự hiến ḿnh, tự ban sự sống ḿnh để cứu chuộc nhân loại, và một cách nào đó, cứu chuộc hết mọi loài thụ tạo nhưng trực tiếp cho con người, sự tự hiến này đă đạt tới một trong những cao điểm trong mầu nhiệm Nhập Thể. V́ sự hiến thân này là một cao điểm đối với các ơn Thiên Chúa đă ban trong lịch sử loài người và vũ trụ. Đức Mẹ Maria được “Đầy ơn phúc” v́ Ngôi Hai Nhập Thể, sự kết hợp bản thể của Con Thiên Chúa với bản tính nhân loại đă được thể hiện và hoàn thành nơi Đức Mẹ. Như Công đồng đă dạy: “Đức Maria là Mẹ Con Thiên Chúa, do đó làm Ái Nữ của Chúa Cha và là cung thánh Chúa Thánh Linh. Nhờ lănh nhận ân sủng vô cùng cao quư này, Đức Mẹ đă trỗi vượt mọi tạo vật khác trên trời dưới đất”. (23) 10. Thư gửi giáo đoàn Êphêsô khi nói về “Vinh quang của ơn thánh mà Thiên Chúa Cha đă ban cho chúng ta trong Con yêu dấu của Ngài”, c̣n thêm: “Trong Ngài, chúng ta được ơn cứu chuộc nhờ bửu huyết của Ngài”. (Eph.1,7). Theo giáo huấn đă được Giáo hội ban bố trong nhiều văn kiện quan trọng: “Vinh quang của ơn thánh” đă được biểu dương nơi Mẹ Thiên Chúa, v́ Người “đă được cứu chuộc cách siêu việt” (24). Nhờ ân sủng vô cùng phong phú của Người Con yêu dấu, nhờ công nghiệp cứu chuộc của Đấng sẽ trở thành Con của ḿnh, Đức Mẹ Maria đă được ǵn giữ khỏi nhiễm lây tội nguyên tổ (25). Như thế, ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai, nghĩa là giây phút đầu tiên của sự sống, Đức Mẹ đă thuộc trọn về Chúa Kitô, đă được thông phần vào ơn cứu rỗi và thánh hóa, đă đón nhận t́nh yêu được khởi đầu trong “Đấng Chí Ái”, Con của Thiên Chúa Cha Hằng Hữu, Người Con mà qua việc Nhập Thể, đă trở thành Con riêng của Đức Mẹ. Do đó, nhờ quyền lực Chúa Thánh Linh trong trật tự ơn thánh, nghĩa là trong việc thông phần với Thiên tính, Đức Mẹ nhận được sự sống từ nơi Đấng mà trong trật tự sản sinh trần thế, Người mang sự sống đến cho với tư cách là người mẹ. Phụng vụ không ngần ngại gọi Đức Mẹ là: “Mẹ Đấng Tạo Hóa” (26) và kính chào Mẹ với lời của thi sĩ Dante Alighieri qua miệng thánh Bênađô: Bà là: “Ái Nữ của Con Bà” (27). Và v́ “Sự sống mới” đó, Đức Mẹ Maria đă lănh nhận một cách tràn đầy để tương xứng với t́nh thương của người Con đối với bà Mẹ, nghĩa là tương xứng với phẩm chức Mẹ Thiên Chúa, v́ thế, trong buổi Truyền Tin, Sứ thần đă chào Đức Mẹ là: “Đấng đầy ơn phúc”. 11. Trong ư định cứu chuộc của Ba Ngôi Chí Thánh, mầu nhiệm Nhập Thể cấu tạo việc hoàn thành cách sung măn lời hứa Thiên Chúa ban cho loài người sau tôi nguyên tổ, cái tội đầu tiên mà hậu quả đă đè nặng trên lịch sử con người ở trần gian (St.3,15). Và đây, Người Con đến trần gian, “Ḍng dơi của Người Nữ”, Ngài sẽ tiêu diệt điều tai ác của tội lỗi từ căn gốc. Ngài sẽ nghiền nát đầu con rắn. Như chúng ta đă đọc thấy trong Tiền Phúc âm, sự chiến thắng của Quư Tử Người Nữ sẽ không thể thực hiện mà không phải chiến đấu gay go, một cuộc chiến đấu suốt lịch sử nhân loại. “Mối thù địch” này được loan báo từ đầu, lại được xác nhận trong sách Khải huyền, là sách diễn tả những biến cố cuối cùng của Giáo hội và thế giới; trong sách này chúng ta thấy tái xuất hiện dấu hiệu: “Người Nữ mặc áo mặt trời” (Kh.12.1). Đức Maria, Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể được đặt vào chính trung tâm của mối thù này, của cuộc chiến đấu đi song song với lịch sử nhân loại ở trần gian, và cả với chính lịch sử ơn cứu độ. Ở địa vị trung tâm này, Đức Mẹ cũng thuộc vào “những người khiêm tốn và khó nghèo của Thiên Chúa”, hơn bất cứ một ai khác. Mẹ đang mang trong ḿnh “vinh quang của ơn thánh” mà “Thiên Chúa Cha đă ban tặng cho chúng ta trong Con chí ái của Ngài”, và chính ơn thánh này đă làm cho toàn thể con người Đức Mẹ Maria cao cả và xinh đẹp phi thường. V́ thế, trước mặt Thiên Chúa và trước toàn thể nhân loại, Đức Mẹ Maria như là dấu chỉ bất biến và bất khả xâm phạm được Thiên Chúa tuyển chọn, như Thư Thánh Phaolô diễn tả: “Thiên Chúa đă chọn chúng ta trong Chúa Kitô, trước khi tạo thành vũ trụ…đă tiền định cho chúng ta…trở nên nghĩa tử của Ngài” (Eph.1,4-5). Sự tuyển chọn này có quyền lực hơn bất cứ kinh nghiệm nào của điều ác và tội lỗi, hơn cả “mối thù” đă đánh dấu lịch sử nhân loại. Trong lịch sử này Đức Mẹ Maria vẫn là dấu chỉ niềm hy vọng vững chắc.
2. Phúc Cho Người V́ Đă Tin 12. Liền ngay sau trần thuật Truyền Tin, Thánh sử Luca hướng dẫn chúng ta bước theo Đức Trinh Nữ thành Nazareth hướng về thành Giuđa (Lc.1,39). Theo các nhà khảo cứu, thành này chắc hẳn là thành phố Ain Karim ngày nay, nằm giữa miền núi, không cách xa Giêrusalem bao nhiêu. Đức Mẹ Maria đă vội vă tới đó để thăm người bà con là bà Elisabeth. Lư do cuộc thăm viếng này đă được loan báo trước trong ngày Truyền Tin mà Sứ thần Gabriel đă nhấn mạnh cách đặc biệt đến bà Elisabeth, dù đă lớn tuổi, đă cùng với chồng là ông Zacaria thụ thai một con trai nhờ quyền lực Thiên Chúa: “Chị họ của Trinh Nữ đă thụ thai một con trai trong tuổi già, và đă được sáu tháng, mặc dầu ai cũng bảo bà son sẻ. V́ không có việc ǵ bất khả đối với Thiên Chúa” (Lc.1,40-42). Sứ thần Thiên Chúa đă nói về biến cố được hoàn thành nơi bà Elisabeth để trả lời cho câu hỏi của Đức Mẹ Maria: “Làm sao việc đó có thể được, v́ tôi không biết đến người nam?” (Lc.1,34). Sứ thần có ư nói: Việc đó có thể được, nhờ “quyền lực của Đấng Tối Cao”, cũng như trường hợp đă xảy ra cho bà Elisabeth và c̣n hơn thế nữa. Được đức bác ái thúc đẩy, Đức Mẹ Maria đă đến nhà người bà con. Khi bước vào nhà, bà Elisabeth đáp lại lời chào của Đức Mẹ và cảm thấy con ḿnh nhảy mừng trong dạ. Được tràn đầy ơn Chúa Thánh Linh, bà Elisabeth ca tụng Đức Maria lớn tiếng: “Em có phúc hơn mọi phụ nữ, và quả phúc ḷng Em cũng đầy phúc đức” (Lc.1,40-42). Lời cảm thán hay là tung hô này của bà Elisabeth đă trở nên thành phần kinh Kính Mừng như một nối tiếp lời chào kính của Sứ thần, và trở thành một trong những kinh thông dụng nhất trong Giáo hội. Nhưng, những lời bà Elisabeth c̣n đầy ư nghĩa hơn trong câu hỏi sau đây: “Bởi đâu tôi được hân hạnh Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi” (Lc.1,43). Như thế, bà Elisabeth đă trở nên chứng nhân cho Đức Mẹ Maria: Bà xác nhận và tuyên bố rằng: Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Thiên Sai đang đứng trước mặt ḿnh. Con trẻ bà đang cưu mang cũng tham dự vào việc làm chứng này: “Thằng bé trong dạ tôi đă nhảy mừng” (Lc.1,44). Đứa trẻ đó chính là Gioan Tẩy giả, sau này tại bờ sông Giođan, đă tuyên bố Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Trong câu chào của bà Elisabeth, mỗi lời nói đều hàm súc ư nghĩa, nhưng những lời cuối cùng xem ra có phần tối quan trọng: “Phúc cho Em v́ đă tin rằng lời Thiên Chúa phán cùng Em sẽ được thực hiện” (Lc.1,45) (28). Những lời này có thể nối kết với lời Sứ thần chào bằng danh hiệu “Đầy ơn phúc”. Cả hai bản văn này biểu lộ nội dung thiết yếu về Khoa Thánh Mẫu học, nghĩa là chân lư về Mẹ Maria, là Đấng thực sự hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô chính v́ Đức Mẹ đă tin. Việc “Đầy ơn phúc” do Sứ thần loan báo, có nghĩa là hồng ân của chính Thiên Chúa. Đức tin của Đức Mẹ Maria được bà Elisabeth công bố trong dịp Thăm Viếng, chỉ cho thấy Đức Trinh Nữ thành Nazareth đă đáp ứng lại hồng ân đó như thế nào. 13. Như Công đồng dạy: “phải bày tỏ sự vâng phục bằng đức tin (x.Rm.1,5; II Cor.10,5-6) đối với Thiên Chúa mặc khải. Nhờ sự vâng phục đó, con người phó thác toàn thân cho Thiên Chúa một cách tự do” (29). Sự diễn tả đức tin này đă thể hiện một cách trọn hảo trong Đức Mẹ Maria. Giây phút quyết định là lúc Truyền Tin, và chính những lời bà Elisabeth: “Phúc cho Em v́ đă tin” trước tiên có ư nói về chính giây phút đó. (30) Thật vậy, trong buổi Truyền Tin, Đức Mẹ Maria đă phó thác trọn vẹn chính ḿnh cho Thiên Chúa với sự “tuân phục hoàn toàn của lư trí và ư chí”, chứng tỏ một sự “vâng lời bằng đức tin” với Đấng đă phán dạy cùng Người qua vị Sứ giả (31). V́ thế Đức Mẹ đă đáp lại với tất cả cái “bản ngă” vừa nhân tính vừa nữ tính của ḿnh, và câu trả lời đầy đức tin này đă sẵn có một sự hợp tác toàn vẹn với “ơn Chúa đến trước và phù trợ”, và một sự hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tác động Chúa Thánh Linh, là Đấng “không ngừng kiện ṭa đức tin qua các ơn huệ của Ngài”. (32) Lời Thiên Chúa hằng sống do Sứ thần loan báo cho Đức Maria đă quy hướng về Mẹ: “Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai” (Lc.1,31). Bởi chấp nhận lời truyền tin này, Đức Maria đă trở thành “Mẹ Thiên Chúa” và mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể đă được hoàn thành trong Mẹ. “Đức Chúa Cha rất nhân từ đă muốn Đấng được tiền định làm Mẹ phải ưng thuận trước khi Chúa Con Nhập Thể” (33). Và Đức Maria đă bằng ḷng ưng thuận sau khi nghe mọi lời Sứ thần loan báo. Đức Mẹ thưa: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ thần truyền” (Lc,1,38). Tiếng “Xin Vâng” (Fiat) của Đức Mẹ Maria đă quyết định về phía nhân loại, cho mầu nhiệm Thiên Chúa được hoàn thành. Nó hoàn toàn ḥa hợp với lời của Đức Chúa Con thưa với Đức Chúa Cha khi xuống thế gian: “Cha đă chẳng muốn lễ vật và hiến vật, nhưng Cha đă chuẩn bị cho Con một thân xác. Này Con đến để làm theo ư Cha“ (Dt.10,5-7). Mầu nhiệm Nhập Thể đă hoàn thành khi Đức Mẹ Maria thưa tiếng “Xin Vâng”. “Xin vâng như lời Sứ thần truyền”. Lời xin vâng này thể hiện ư định con của Mẹ đối với những điều liên quan tới Mẹ trong chương tŕnh Thiên Chúa. Đức Mẹ Maria đă thưa Xin Vâng trong đức tin. Với đức tin, Đức Mẹ đă phó thác chính ḿnh cho Thiên Chúa mà không giới hạn, và đă “tận hiến toàn thân như một nữ tỳ của Thiên Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con Ngài” (34). Theo lời các thánh Giáo phụ, Đức Mẹ đă mang thai người Con này trong tâm hồn trước khi cưu mang trong dạ: Đó là nhờ đức tin (35). V́ thế, bà Elisabeth đă ca tụng Mẹ Maria rất đúng: “Em thật có phúc v́ đă tin rằng lời Chúa phán cùng Em sẽ được ứng nghiệm”. Và những lời này đă được thực hiên tại ngưỡng cửa nhà bà Elisabeth và ông Zacaria như là Mẹ của Con Thiên Chúa. Chính bà Elisabeth đă khám phá ra điều này khi thốt lên; “Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi”. 14. Đức tin của Đức Mẹ Maria có thể so sánh với đức tin của ông Abraham, đấng mà thánh Phaolô gọi là “Cha chúng ta trong đức tin” (x.Rm.4,12). Trong chương tŕnh cứu độ của mặc khải Thiên Chúa, đức tin của Tổ phụ Abraham là khởi nguyên lời Giao ước cũ, c̣n đức tin của Đức Mẹ Maria, trong lúc Truyền Tin, mở đầu cho Giao ước mới. Như Abraham, “đă vững tin, mặc dầu trong trường họp không c̣n lẽ mà trông cậy, nên người đă trở nên Tổ phụ của nhiều dân nước” (x.Rm. 4,18). Cũng thế, Đức Mẹ Maria trong lúc Truyền Tin, sau khi đă bày tỏ đức trinh khiết của ḿnh (khi thưa: “Việc đó làm thế nào được, v́ tôi không biết đến người nam?), Mẹ đă tin rằng nhờ quyền lực Đấng Tối Cao, nhờ quyền năng Chúa Thánh Linh, ḿnh sẽ trở nên Mẹ Con Thiên Chúa theo mặc khải của Sứ thần: “Con trẻ sẽ sinh ra là Đấng Thánh, Con Thiên Chúa” (Lc.1,35). Tuy nhiên, lời bà Elisabeth: “Phúc cho Em v́ đă tin” không chỉ áp dụng cho giây phút Truyền Tin đặc biệt ấy mà thôi. Chắc chắn rằng Truyền Tin là giây phút tột đỉnh của đức tin mà Đức Mẹ Maria mong đợi Chúa Kitô, nhưng cũng là khởi điểm cuộc lữ hành hướng về Thiên Chúa, một cuộc hành tŕnh đức tin của Mẹ. Trên lộ tŕnh này, với một thái độ trổi vượt và thực anh hùng trong đức tin luôn gia tăng, Đức Mẹ sẽ thực hiện vẹn toàn sự tuân phục lời mặc khải của Thiên Chúa như Mẹ đă tuyên thệ. “Sự vâng phục bằng đức tin” của Đức Mẹ trong suốt cuộc lữ hành sẽ có những điểm tương tự lạ lùng đối với đức tin của Abraham. Giống như Tổ phụ của Dân Chúa, Đức Mẹ Maria đă “hy vọng khi không c̣n chút hy vọng ǵ nữa”. Mẹ đă tin trong suốt cuộc “lữ hành Xin Vâng” vừa hiếu thảo, vừa đầy t́nh mẫu tử, trong một vài chặng đường của cuôc lữ hành này, phúc lành dành cho Mẹ là “người đă tin” được biểu lộ cách rơ ràng đặc biệt. Tin có nghĩa là phó thác chính ḿnh cho Chân lư của Lời Chúa hằng sống, hiểu biết và khiêm tốn công nhận rằng: “Sao có thể hiểu thấu đáo được ư định của Chúa và đường lối của Ngài không một ai khám phá ra” (Rm.11,23). 15. Trong lúc Truyền Tin, Đức Mẹ Maria nghe nói đến người Con mà ḿnh sẽ làm Mẹ Ngài, “sẽ đặt tên cho Ngài là Giêsu” (Đấng Cứu Thế), Mẹ c̣n biết “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngôi báu Đavít, tổ phụ Ngài” và “Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, triều đại Ngài sẽ vô tận” (Lc.1,32-33). Mối hy vọng của toàn dân Israel đều hướng về đó. Đấng Thiên Sai đă được hứa ban thật là “cao cả” và chính vị Thiên sứ cũng loan báo “Ngài sẽ nên cao trọng”, cao cả không những v́ được gọi là “Con Đấng Tối Cao”, mà c̣n được “thừa kế ḍng dơi Đavít”. V́ thế Ngài phải là Vua, phải ngự trị “trên nhà Giacob”. Đức Mẹ Maria đă lớn lên giữa những mong đợi của dân tộc ḿnh: trong lúc được truyền tin, Đức Mẹ có thể đoán được ư nghĩa quan trọng của những lời Sứ thần loan báo không? Và phải hiểu thế nào về “triều đại” Ngài “sẽ vô tận?”. Mặc dầu, qua đức tin, trong giây phút đó, Đức Mẹ đă cảm thấy ḿnh là Mẹ của Đấng “Thiên Sai -Vua”, nhưng Mẹ đă thưa lại: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ thần truyền” (Lc.1,38). Từ giây phút đầu tiên, Mẹ Maria đă tuyên xưng trước hết: “Sự vâng phục của đức tin”, phó thác chính ḿnh cho chính Thiên Chúa, Đấng đă phát xuất ư nghĩa các lời Truyền Tin. 16. Trên lộ tŕnh vâng phục trong đức tin này, ít lâu sau, Đức Mẹ Maria lại được nghe những lời khác do ông Simêon thốt ra tại Đền Thánh Giêrusalem. Đó là, sau khi Chúa Giêsu giáng sinh được bốn mươi ngày, theo luật Moisê, Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đă “đem Con trẻ lên Giêrusalem để hiến dâng cho Thiên Chúa” (Lc.2,22). Chúa đă sinh ra trong hoàn cảnh nghèo tột bậc. Thánh Luca cho chúng ta biết vào dịp khai sổ toàn dân theo lệnh của chính quyền Rôma. “Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đă về Belem, v́ không t́m được chỗ trọ, Mẹ đă sinh con trong hang ḅ lừa và đặt Con nằm trong máng cỏ” (Lc.2,7). Một người công chính hằng kính sợ Thiên Chúa tên là Simêon đă xuất hiện ngay chặng đầu cuộc lữ hành trong đức tin của Đức Mẹ. Các lời của ông được Chúa Thánh Thánh Thần linh ứng (Lc.2,25-27), đă xác nhận chân lư của ngày Truyền Tin. Chúng ta đọc thấy rằng: Ông Simêon đă ẵm Hài Nhi trên tay, Hài Nhi mà theo lệnh của Sứ thần được đặt tên là Giêsu (Lc.2,21). Lời nói của ông Simêon đă phù hợp với ư nghĩa của tên này: tên có nghĩa là Đấng Cứu Thế: “Thiên Chúa là sự cứu rỗi”. Hướng về Chúa ông than thở: “Mắt tôi đă xem thấy ơn Ngài cứu độ, Ngài đă dọn sẵn trước mặt muôn dân, ánh sáng mặc khải cho dân ngoại và vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc.2,30-32). Đồng một lúc, ông Simêon đă nói với Đức Mẹ Maria những lời sau đây: “Hăy chú ư!, Trẻ này là duyên cớ cho nhiều người trong dân Israel hư hỏng hay được rỗi, và sẽ là dấu hiệu gây mâu thuẫn. Như vậy những tư tưởng kín đáo của nhiều người sẽ phải tố lộ ra” và ông nói thẳng với Đức Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua ḷng Bà” (Lc.2,34-35). Những lời ông Simêon lại đem thêm một ánh sáng mới cho những lời Đức Mẹ đă nghe bởi Sứ thần: Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Ngài là “Ánh sáng chiếu soi” mọi người. Phải chăng đó là điều để biểu dương một cách nào đó trong đêm giáng sinh, khi mà các mục đồng đến thờ lạy tại hang ḅ lừa? (Lc.2,8-20). Phải chăng đó là điều đă biểu dương cách rơ ràng hơn khi các nhà thông thái từ phương Đông đến t́m Chúa? (Mt.2,1-12). Nhưng đồng một lúc, ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc sống, Con Đức Mẹ Maria và chính Mẹ đă cảm thấy sự thật của các lời ông Simêon: “Dấu hiệu gây mâu thuẫn” (Lc.2,34). Các lời ông Simêon coi như Truyền Tin lần thứ hai cho Đức Mẹ Maria, v́ nó biểu lộ cho Mẹ xem thấy tầm mức lịch sử cụ thể của sứ vụ Con Mẹ, một sứ vụ không được người ta hiểu, một sứ vụ đầy đau khổ. Trong khi lời loan báo một đàng củng cố niềm tin của Mẹ vào Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa cứu độ, một đàng tiết lộ cho biết Mẹ sẽ phải sống trong sự vâng lời của đức tin, trong sự đau khổ bên cạnh Chúa Cứu Thế đau khổ, và địa vị làm Mẹ của Đức Mẹ sẽ bí ẩn và đau đớn! Và đúng thế, sau khi các nhà thông thái đến viếng thăm và thờ lạy (họ sấp ḿnh thờ lạy Ngài) và dâng lễ vật (Mt.2,11) th́ Đức Mẹ Maria đă cùng với Hài Nhi trốn sang Ai Cập dưới sự chở che săn sóc của thánh Giuse, bởi v́ Hêrôđê đang lùng bắt Hài Nhi để giết (Mt.2,13). Và các Ngài đă phải ở lại Ai Cập cho đến khi vua Hêrôđê băng hà (Mt.2,15). 17. Sau khi Hêrôđê băng hà, Thánh Gia lại trở về thành Nazareth, bắt đầu thời gian lâu dài cuộc sống ẩn dật. Đức Mẹ, là Đấng “đă tin rằng những lời Chúa phán sẽ ứng nghiệm” (Lc.1,45), hằng ngày sống theo ư nghĩa của các lời đó. Suốt ngày bên cạnh Mẹ, có người Con mà “Mẹ đă đặt tên là Giêsu”, v́ thế, khi giao tiếp với Ngài, chắc chắn Mẹ đă gọi tên này, và từ ngày tên này được thông dụng tại Israel, không một ai lấy làm ngạc nhiên cả. Tuy thế, Đức Mẹ Maria biết rằng Người mang tên Giêsu đă được Sứ thần gọi là “Con Đấng Tối Cao” (Lc.1,32). Đức Mẹ biết ḿnh đă cưu mang và đă sinh hạ Ngài khi “c̣n đồng trinh”, bởi quyền năng Chúa Thánh Linh, nhờ quyền lực Đấng Tối Cao đă bao phủ ḿnh (Lc.1,35). Cũng như vào thời ông Moisê và các Tổ phụ, áng mây đă che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa (Xac.24,16;40.34-35;I V.8,10-12). V́ thế Đức Mẹ Maria biết rằng người Con ḿnh đă sinh ra trong sự đồng trinh chính là “Đấng Thánh”, là “Con Thiên Chúa”, người Con mà Sứ thần đă loan báo cho Mẹ. Trong những năm Chúa Giêsu sống ẩn dật trong nhà Nazareth, Đức Mẹ Maria cũng sống “ẩn dật với Chúa Kitô trong Thiên Chúa” (Col.3,3) bằng đức tin. Quả thế, đức tin là sự tiếp xúc với mầu nhiệm Thiên Chúa. Hằng ngày, Đức Mẹ Maria đă tiếp xúc với mầu nhiệm lạ lùng của Thiên Chúa làm người, một mầu nhiệm đă trổi vượt trên tất cả những ǵ đă được mặc khải trong lời Giao ước cũ. Ngay từ giây phút Truyền Tin, tâm trí của Đức Mẹ khiết trinh đă được dẫn đưa vào “sự mới lạ” độc đáo của mặc khải mà chính Thiên Chúa đă vén mở, và Mẹ đă ư thức được ngay mầu nhiệm này. Đức Mẹ là một trong những người “bé mọn” mà một ngày kia Chúa Giêsu đă phán: “Lạy Cha…Cha đă giấu những điều này đối với những người khôn ngoan và thông thái, mà đă tỏ ra cho kẻ bé mọn” (Mt.11,25). V́ “không ai biết Con, trừ Cha” (Mt.11,27). Vậy làm sao Đức Mẹ Maria biết được Con? Dĩ nhiên Đức Mẹ không biết được Ngài như Chúa Cha biết, nhưng Đức Mẹ là người đầu tiên trong những người Chúa Cha “đă tuyển chọn để mặc khải về Chúa Con” (Mt.11,26-27; I Cor.2,11). Nếu ngay từ giây phút Truyền Tin, Đức Mẹ Maria đă được mặc khải về Người Con mà chỉ có Chúa Cha biết được hoàn toàn, Người Con mà “hôm nay” Chúa Cha đă sinh ra trong vĩnh cửu (Tv.2,7) th́ Đức Maria, là Mẹ Chúa Cứu Thế, đă tiếp xúc với chân lư về Con ḿnh chỉ trong đức tin và bằng đức tin! V́ thế Đức Mẹ được chúc phúc bởi “Mẹ đă tin” và ngày qua ngày Mẹ vẫn tiếp tục tin giữa bao nhiêu thử thách và trái ngược của thời thơ ấu Chúa Giêsu và suốt những năm sống ẩn dật tại Nazareth, nơi mà Chúa Giêsu “đă vâng phục hai Đấng” (Lc.2,51). Chúa đă vâng phục Đức Mẹ và thánh Giuse, từ ngày thánh Giuse được dân chúng gọi là cha của Ngài; v́ lư do đó, Con của Đức Mẹ Maria đă được toàn dân công nhận là “Con bác thợ mộc” (Mt.13,55). V́ thế, Mẹ của người Con này ghi nhớ những ǵ đă được nghe trong ngày Truyền Tin và trong các biến cố kế tiếp. Mẹ mang trong ḷng điều mới lạ căn bản của đức tin, là khởi đầu Giao Ước mới. Đây là khởi đầu Phúc âm, nghĩa là Tin vui, Tin mừng. Tuy nhiên, không khó khăn ǵ để nhận ra trong sự khởi đầu ấy một thứ đau khổ của tâm hồn liên kết với một thứ “đêm đức tin”, danh từ thánh Gioan thánh giá đă dùng, để chỉ một thứ “màn” che khuất, và phải qua bức màn đó để đến mầu nhiệm (36). Đây là cách Đức Mẹ Maria, trong nhiều năm, đă sống thân mật với mầu nhiệm của Con Mẹ, và Mẹ đă tiến bước trong “cuộc lữ hành đức tin”, trong khi Chúa Giêsu “càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và nhân loại” (Lc.2,52). Ḷng yêu mến riêng của Chúa Cha đối với Chúa Con đă luôn được bày tỏ rơ ràng hơn trước mắt quần chúng. Thụ tạo tiên khởi đă được phép khám phá ra Chúa Kitô chính là Đức Mẹ Maria, Đấng đă sống với thánh Giuse trong cùng một nhà tại Nazareth. Tuy nhiên, khi t́m thấy Chúa Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ hỏi: “Hỡi con, sao con cư xử với chúng ta như vậy?” Trẻ Giêsu mười hai tuổi đă trả lời: “Cha mẹ không biết con phải ở lại nhà Cha con sao?” Và Thánh Kinh tiếp: “Hai ông bà đă không hiểu lời Ngài vừa nói với họ” (Lc.2,48-50). Chúa Giêsu đă ư thức rằng: “Không một ai biết Con trừ Cha” (Mt.11,27). Như thế, ngay cả đến Mẹ Ngài là người đă được mặc khải tường tận về mầu nhiệm Con Thiên Chúa, cũng chỉ sống trong sự thân mật với mầu nhiệm này nhờ đức tin mà thôi! Chung sống bên cạnh Con ḿnh dưới cùng một mái nhà, và “trung thành kết hợp với Con”, Đức Mẹ đă “tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin” như lời Công đồng nhấn mạnh (37). Và trong suốt cuộc đời công khai của Chúa Kitô cũng thế (Mk.3,21-25), ngày lại ngày, những lời bà Elisabeth thốt ra trong ngày Thăm Viếng đă đươc Mẹ hoàn thành: “phúc cho Em là người đă tin”. 18. Lời chúc phúc này đă nên trọn ư nghĩa khi Đức Mẹ Maria đứng dưới chân Thập giá của Con ḿnh (Ga.19,25). Công đồng dạy rằng: sự việc này xảy đến “không ngoài chương tŕnh của Thiên Chúa”, v́ “Đức Mẹ đă đau đớn chịu khổ cực với Con ḿnh và dự phần vào hy lễ của Con với tấm ḷng người Mẹ hết t́nh ưng thuận hiến tế hy lễ do ḷng ḿnh sinh ra”, như thế Mẹ Maria “đă trung thành kết hợp với Con cho đến bên Thập giá” (38). Đó là sự hợp nhất bằng đức tin, và cũng là chính đức tin này Mẹ đă đón nhận lời Sứ thần mặc khải trong lúc Truyền Tin. Chính lúc đó, Đức Mẹ đă được nghe những lời này: “Ngài sẽ nên cao trọng…Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngôi báu Đavít Tổ phụ Ngài…Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và vương quyền Ngài sẽ vô tận” (Lc.1,32-33). Giờ đây, đứng dưới chân Thập giá, nói theo từ ngữ của loài người, Đức Mẹ Maria phải chứng kiến một sự việc coi như ngược hẳn lại với những lời đă loan báo ngày Truyền Tin. Trên cây gỗ Thập giá này, Con của Mẹ bị treo lên đang hấp hối, chẳng khác chi một tử tội. “Ngài bị khinh dể và là đồ phế thải của người đời, là con người đau khổ…Ngài bị khinh dể và chúng tôi đă chẳng thèm đếm xỉa đến”, Ngài như một người bị tru diệt (Is.53,3-5). Quả thật, vĩ đại thay, quả cảm thay sự vâng phục v́ đức tin của Mẹ Maria trước những quyết định sâu xa không ḍ thấu của Thiên Chúa! Đức Mẹ đă “phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa” mà không hề giữ lại, “dâng hiến hoàn toàn sự quy phục của lư trí và ư chí” (39) cho Đấng mà “đường lối không thể hiểu thấu được” (Rm.11,33). Ôi tác động của ân sủng trong linh hồn Mẹ mạnh mẽ biết bao, và ảnh hưởng Chúa Thánh Linh, ánh sáng và sức mạnh của Ngài đang thấm nhập vào Mẹ biết dường nào! Nhờ đức tin này, Đức Mẹ Maria đă hoàn toàn kết hợp với Chúa Kitô trong việc xả thân của Ngài. Thật ra, Chúa Giêsu Kitô mặc dầu là “Ngôi Thiên Chúa, không khư khư giữ lấy địa vị ngang hàng Thiên Chúa, song Ngài đă hủy ḿnh ra không, nhận lấy thân phận tôi tớ, trở nên giống loài người”, chính trên đồi Golgôtha “Ngài đă tự hạ và đă vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá” (Pl.2,5-8). Dưới chân Thập giá, Đức Mẹ Maria, nhờ đức tin, đă thông phần vào mầu nhiệm ghê sợ của việc hy sinh xả kỷ này. Có lẽ đây là “sự hy sinh xả kỷ” sâu thẳm nhất của đức tin trong lịch sử nhân loại. Nhờ đức tin, Đức Mẹ đă thông phần với cái chết của Con ḿnh, cái chết đem lại ơn cứu chuộc; nhưng khác với đức tin của các môn đệ là những kẻ đă chạy trốn, đức tin của Đức Mẹ sáng chói hơn. Tại đồi Golgotha, trên cây Thập giá, Chúa Giêsu đă xác nhận một cách rơ ràng Ngài là “dấu hiệu gây mâu thuẫn” mà ông Simêon đă tiên báo. Đồng thời cũng đă cũng đă ứng nghiệm tại đồi Golgotha lời ông Simêon nói với Đức Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu ḷng Bà” (40). 19. Thật đấy! “Phúc cho Em là người đă tin”. Những lời này bà Elisabeth nói lên sau ngày Truyền Tin, ở đây, dưới chân Thập giá, xem ra đă vang dội một cách hùng hồn tột đỉnh và quyền năng chứa đựng trong các lời, đó trở nên thật thấm thía. Từ cây Thập giá như thể từ trung tâm mầu nhiệm Cứu chuộc, lời chúc phúc đức tin này đă chiếu tỏa, và viễn tượng của nó càng mở rộng. Nó đưa chúng ta lùi lại “thời sơ khởi” và v́ thông phần với hy lễ của Chúa Kitô, vị Adam mới, theo một nghĩa nào đó, nó trở nên đối nghịch với sự bất tuân và bất tín gồm trong tội nguyên tổ. Đó chính là giáo lư của các thánh Giáo phụ, nhất là của thánh Irênê mà Công đồng đă trích dẫn trong Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân: “Nút dây đă bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Mẹ Maria. Điều mà thiếu nữ Evà đă buộc lại bởi cứng ḷng tin, th́ Đức Mẹ Maria đă tháo cởi nhờ ḷng tin” (41). Dưới ánh sáng của sự so sánh với Evà này, các thánh Giáo phụ - cũng như Công đồng đă lặp lại – gọi Đức Mẹ Maria là “Mẹ kẻ sống” và thường nói: “Sự chết đến từ Evà, sự sống đến nhờ Đức Maria”. (42). Như thế, chúng ta có lư xem câu “Phúc cho Em là người đă tin” như là “chía khóa” để đi vào thực tại thâm sâu của Mẹ Maria, Đấng mà Sứ thần chào: “Đầy ơn phúc”. Nếu tự đời đời Mẹ đă hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô như là “Đầy ơn phúc”, th́ nhờ đức tin, Đức Mẹ đă thông phần vào mầu nhiệm ấy trong suốt cuộc hành tŕnh dương thế. Đức Mẹ đă tiến lên trong cuộc “lữ hành đức tin” và đồng thời, Mẹ đă làm cho mầu nhiệm của Chúa Kitô hiện diện với loài người một cách kín đáo, nhưng trực tiếp và có hiệu lực. Và Đức Mẹ vẫn c̣n tiếp tục thi hành như thế. Qua mầu nhiệm Chúa Kitô, Đức Mẹ được hiện diện giữa loài người. Như thế, nhờ mầu nhiệm của Con, mầu nhiệm của người Mẹ cũng được rạng tỏ.
3. Đây Là Mẹ Con 20. Phúc âm thánh Luca ghi lại: “Một phụ nữ cất tiếng lên giữa đám đông nới với Chúa Giêsu: Phúc thay ḷng dạ đă cưu mang Ngài và vú đă cho Ngài bú” (Lc.11,27). Đó là câu ngợi khen Đức Mẹ Maria trong địa vị làm Mẹ Chúa Giêsu về nhân tính. Có lẽ người phụ nữ đó không quen biết Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu; thực sự khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ thiên sai của Ngài, th́ Đức Mẹ Maria không tháp tùng Ngài, mà vẫn tiếp tục sống ở Nazareth. Có thể nói được rằng lời người phụ nữ vô danh đó đă đưa Đức Mẹ ra khỏi nơi ẩn dật của Người. Qua những lời này, Phúc âm về thời thơ ấu của Chúa Giêsu đă được đám đông lưu ư tới, ít là trong chốc lạ. Đó là phần Phúc âm mà Đức Mẹ Maria xuất hiện với tư cách là người Mẹ cưu mang Chúa Giêsu trong dạ, sinh hạ và cho Ngài bú mớm: Người Mẹ dưỡng nuôi đă được người phụ nữ giữa đám đông đề cập tới. Nhờ t́nh mẹ này, Chúa Giêsu, Con Đấng Tối Cao (Lc.1,32) trở thành con người đích thực. Ngài mang thân xác như mọi người, “Ngài là Ngôi Lời đă hóa thành nhục thể” (Ga.1,14), Ngài là thịt máu của Đức Maria (43). Nhưng đáp lại lời người phụ nữ nói lên để ca tụng mẹ ḿnh hơn theo thể xác, Chúa Giêsu đă trả lời một cách đầy ư nghĩa: “Những ai nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa th́ có phúc hơn” (Lc.11,28). Chúa muốn chuyển sự chú ư từ t́nh mẫu tử hiểu theo liên hệ huyết nhục, để hướng về những liên hệ nhiệm mầu tinh thần được phát triển từ việc nghe và giữ lời Thiên Chúa. Chính sự chuyển hướng về lănh vực giá trị tinh thần này c̣n được thấy rơ hơn nữa trong câu trả lời khác của Chúa Giêsu mà Phúc âm Nhất Lăm thuật lại. Khi người ta báo cho Chúa Giêsu biết: “Mẹ Ngài và anh em Ngài đang đứng ở ngoài và muốn gặp Ngài”. Chúa trả lời: “Mẹ Ta và anh em Ta là những người nghe và thực hành lời Thiên Chúa” (Lc.8,20-21). Chúa nói lời ấy “trong khi ngó nh́n những người ngồi chung quanh Ngài” (Mc.3,34), hoặc trong khi Ngài “hướng tay về các môn đệ”, theo Phúc âm thánh Matthêu (Mt.12,49). Những lời tuyên bố này dường như phù hợp với câu trả lời mà Trẻ Giêsu khi lên mười hai tuổi đă nói với Đức Mẹ Maria và thánh Giuse khi Ngài được t́m thấy sau ba ngày lạc trong Đền thờ Giêrusalem. Giờ đây, khi Chúa Giêsu rời bỏ thành Nazareth để bắt đầu đời sống công khai trong khắp xứ Palestin. Ngài chỉ hoàn toàn “quan tâm đến công việc Cha Ngài” (Lc.2,49). Ngài loan báo Nước Trời “Nước Thiên Chúa” và “những công việc của Cha Ngài”, là những điều đem lại môt tầm mức và một ư nghĩa mới cho tất cả những ǵ thuộc về con người và do đó, cho tất cả mọi liên hệ của con người đối với cứu cánh và bổn phận của mỗi người. Trong chiều kích mới này, ngay cả mối tương quan “t́nh huynh đệ” cũng mang một ư nghĩa khác biệt với “t́nh huynh đệ theo thể xác”, phát xuất từ một gốc chung là cha mẹ. Và ngay cả “t́nh mẫu tử” trong chiều kích của Nước Thiên Chúa, trong phạm vi t́nh t́nh phụ tử của Thiên Chúa, cũng mang một ư nghĩa khác. Với những lời Phúc âm thánh Luca, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về ư nghĩa mới đó của t́nh mẫu tử. Phải chăng v́ thế mà Chúa Giêsu đang xa ĺa Đấng đă trở thành Mẹ Ngài về thể xác? Có lẽ Ngài muốn để Mẹ Ngài trong bóng tối ẩn dật mà chính Mẹ Ngài đă tự chọn? Nếu hiểu theo ư nghĩa thứ nhất của những lời nói đó, th́ có thể là như vậy. Song cũng phải nêu lên điều này: T́nh mẫu tử mới mẻ và khác biệt mà Chúa Giêsu nói với các môn đệ là đặc biệt chỉ về Mẹ Maria. Phải chăng Đức Mẹ Maria không phải là người đầu tiên trong số “những kẻ lắng nghe và thực hành Lời Chúa?”. Và như thế, lời chúc phúc mà Chúa Giêsu thốt ra khi đáp lại người phụ nữ trong đám đông, lại không nhắm đến Đức Mẹ trước tiên sao? Chắc chắn rằng Mẹ Maria thật xứng đáng là người được chúc phúc, v́ đă trở thành Mẹ Chúa Giêsu về thể xác (“phúc cho dạ đă cưu mang Ngài và vú đă cho Ngài bú”), nhưng nhất là ngày Truyền tin, Mẹ đă đón nhận lời Chúa v́ Mẹ đă tin, đă vâng phục Thiên Chúa, Mẹ đă “ghi nhớ Lời Chúa” và “suy gẫm trong ḷng” (Lc.1,38-45; 2,19-51) và thực hành trong suốt cuộc sống. Vậy chúng ta có thể nói lời chúc phúc do Chúa Giêsu tuyên bố bề ngoài có vẻ đối nghịch, nhưng không hề đối nghịch với lời chúc phúc mà phụ nữ vô danh đó thốt ra, trái lại c̣n phù hợp với lời chúc phúc nơi cá nhân người Mẹ Trinh khiết này, một người chỉ xưng ḿnh là “Nữ tỳ của Chúa” (Lc.1,38). Nếu quả thật “Muôn thế hệ sẽ gọi Mẹ là người diễm phúc” (Lc.1,48) th́ có thể nói phụ nữ vô danh ấy là người đầu tiên đă vô t́nh xác nhận lời tiên tri này trong bài Ngợi Khen của Đức Mẹ, và khai mào cho bài Ngợi Khen (Magnificat) của muôn thế hệ. Nếu nhờ đức tin mà Đức Mẹ Maria đă trở nên người cưu mang Chúa Con do Chúa Cha ban, qua quyền năng Chúa Thánh Linh trong khi vẫn giữ toàn vẹn đức Trinh khiết của Mẹ, th́ cũng trong chính đức tin ấy, Đức Mẹ đă khám phá và đón nhận chiếu kích mới của t́nh mẫu tử được Chúa Giêsu mặc khải khi thi hành sứ mệnh thiên sai. Có thể nói, chiều kích đó về t́nh mẩu tử đă thuộc về Mẹ Maria ngay từ thuở ban đầu, nghĩa là từ lúc thụ thai và sinh Con. Ngay từ lúc đó, Mẹ đă là: “Người đă tin”. Nhưng khi sứ mệnh thiên sai của Chúa Con trở nên sáng tỏ hơn trước tầm mắt và trí khôn Mẹ, với tư cách là người mẹ, Đức Mẹ tự mở ḷng đón nhận chiều kích mới của t́nh mẫu tử, giúp Mẹ đảm nhận vai tṛ của ḿnh bên cạnh Con. Ngay từ đầu, Mẹ đă chẳng tuyên bố: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ thần truyền” (Lc.1,38) đó sao? Nhờ đức tin, Đức Mẹ hằng tiếp tục nghe và suy niệm lời ấy, trong lời đó, Thiên Chúa hằng sống tự mặc khải mỗi ngày một rơ ràng hơn một cách “vượt khỏi mọi tầm hiểu biết” (Eph. 3,19). Như thế, theo một nghĩa nào đó, Đức Maria với tư các là Mẹ, đă trở nên “môn đệ tiên khởi” của Con, là người đầu tiên dường như đă được Con nói: “Hăy theo Tôi” trước cả khi Ngài gọi các Tông đồ hay bất cứ ai khác (Ga.1,43). 21. Xét về phương diện này, đoạn Phúc âm thánh Gioan nói về Đức Mẹ Maria hiện diện tại tiệc cưới Cana có ư nghĩa đặc biệt. Đức Maria xuất hiện tại đó với tư cách là Mẹ Chúa Giêsu ngay từ đầu đời công khai của Chúa. “Có tiệc cưới ở thành Cana thuộc xứ Galilê, Mẹ Chúa Giêsu ở đó, Chúa Giêsu và các môn đệ cũng được mời tới dự” (Ga.2,1-12). Theo bản văn, thấy Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài được mời cùng với Đức Mẹ Maria, như thể v́ sự hiện diện của Đức Mẹ tại đám cưới; Con xem ra được mời v́ có Mẹ tại buổi lễ. Chúng ta đă biết các biến cố xảy ra tiếp đó liên quan tới việc mời dự lễ, nghĩa là “sự khởi đầu các phép lạ” do Chúa Giêsu đă làm – nước hóa thành rượu – v́ thế thánh sử Gioan nói: “Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang của Ngài và các môn đệ tin vào Ngài” (Ga.2,11). Đức Mẹ hiện diện tại Cana xứ Galilê với tư cách là Mẹ Chúa Giêsu, và bằng một cách đầy ư nghĩa, Mẹ đă góp phần vào các phép lạ đầu tiên để mặc khải quyền lực thiên sai của Con Mẹ. Chúng ta đọc thấy rằng: “Khi rượu đă hết”, Đức Mẹ nói với Chúa Giêsu: “Họ không c̣n rượu nữa”. Và Chúa Giêsu đă trả lời: “Thưa Mẹ, Mẹ muốn con làm ǵ? Giờ Con chưa tới’ (Ga.2,3-4). Trong Phúa âm thánh Gioan, “giờ” đó có nghĩa là thời gian đă được Chúa Cha định cho Chúa Con hoàn tất sứ mệnh để được vinh hiển (Ga.7,30; 8,20;12,33-37; 13,1; 17,1; 19,27). Dầu lời Chúa Giêsu đáp lại với Mẹ Ngài có vẻ như một lời từ chối (nếu chúng ta không những nh́n vào câu hỏi, mà nhất là vào lời quả quyết: “Giờ Con chưa tới”). Nhưng Mẹ Marai vẫn hướng về các người giúp việc mà nói: “Các ông hăy làm điều Ngài bảo” (Ga.2,5). Lúc đó, Chúa Giêsu bảo các người giúp việc đổ nước đầy các chum bằng đá, và nước đă hóa thành rượu, một thứ rượu ngon hơn thứ rượu đă đem ra mời khách dự tiệc trước đó. Giữa Chúa Giêsu và Mẹ Ngài đă có sự cảm thông sâu xa biết chừng nào! Làm sao chúng ta hiểu cho thấu huyền nhiệm của sự kết hợp thiêng liêng mật thiết giữa Hai Đấng? Nhưng sự việc tự nó đă nói lên rơ rệt. Có một điều chắc chắn là trong biến cố này, chiều kích mới, ư nghĩa mới của địa vị làm Mẹ của Đức Maria trở thành khá rơ ràng. Ư nghĩa đó không chỉ hàm súc trong các lời của Chúa Giêsu và nhiều sự việc khác đă được Phúc âm Nhất Lăm thuật lại (Lc.11,27-28; 8,19-21; Mt.12,46-50; Mc.3,31-35). Trong các bản văn này, Chúa Giêsu đặc biệt muốn đối chiếu “tư cách làm mẹ” do việc sinh sản với “tư cách làm mẹ” (cũng như tư cách huynh đệ) trong khung cảnh Nước Thiên Chúa, dưới ánh sáng cứu độ của “tư cách làm Cha” của Thiên Chúa. Xét về mặt khác, trong bản văn của thánh Gioan, với trần thuật tiệc cưới Cana, thấy hiện lên một cách rơ nét, cụ thể hơn, điều được gọi là “tư cách làm mẹ” mới, theo tinh thần chứ không theo thể xác; nói một cách khác, chúng ta thấy biểu lộ ḷng ưu ái của Đức Mẹ Maria đối với loài người, thấy Mẹ t́m cách đáp ứng những nhu cầu và sự cần thiết của con người trong mọi trường hợp. Tại Cana xứ Galilê, chỉ tŕnh bày một khía cạnh cụ thể cảnh thiếu thốn của con người, xem ra bé nhỏ và ít quan trọng (“họ không c̣n rượu nữa!”). Nhưng nó có một giá trị tượng trưng, đi t́m để đáp ứng cái nhu cầu của con người có nghĩa là cùng một trật đưa các nhu cầu ấy vào phạm vi sứ mệnh thiên sai và quyền năng cứu rỗi của Chúa Kitô. V́ thế, ở đây có một hành động “làm trung gian”, Đức Maria tự đặt ḿnh giữa Con của Mẹ và loài người trong một thực tại t́nh trạng thiếu thốn, nghèo khó và đau khổ của họ. Người đứng “ở giữa”, nghĩa là Mẹ đứng làm trung gian không phải như người ngoài cuộc, nhưng trong địa vị một người Mẹ. Đức Mẹ ư thức rằng với địa vị người Mẹ, Người có quyền chỉ cho Con ḿnh thấy những nhu cầu của loài người. Vậy sự trung gian của Mẹ có tính cách “bầu cử”, Đức Mẹ Maria “bầu cử” cho loài người: Không những thế, với tư cách là người Mẹ, Đức Maria c̣n muốn cho quyền năng thiên sai của Con ḿnh được biểu lộ, thứ quyền năng cứu độ có mục đích cứu giúp loài người bị bất hạnh, giải thoát họ khỏi sự dữ đè nặng trên đời sống họ dưới nhiều h́nh thức và với nhiều mức độ…Đúng như lời Tiên tri Isaia đă tiên báo về Đấng Thiên Sai trong một đoạn văn thời danh, mà chính Chúa Giêsu đă trích dẫn trước mặt các đồng hương của Ngài tại Nazareth: “Để giảng tin mừng cho người nghèo khó…loan báo giải phóng cho tù nhân, đem ánh sáng cho người mù ḷa…” (Lc.4,18) Một yếu tố cốt yếu khác của địa vị làm mẹ của Đức Maria cũng được thấy nơi lời Đức Mẹ nói với những người giúp việc: “Các ông hăy làm điều Ngài bảo”. Mẹ Chúa Kitô tự đặt ḿnh như “phát ngôn viên” của ư muốn Con Mẹ. Đức Mẹ chỉ cho thấy những ǵ cần thực hiện để quyền năng cứu độ của Đấng Thiên Sai được biểu lộ. Tại Cana, nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ và nhờ sự vâng lời của các người giúp việc, Chúa Giêsu mới bắt đầu “giờ của Ngài”. Tại Cana, Đức Mẹ Maria tỏ ra “tin vào Chúa Giêsu”. Đức tin của Mẹ đă gây nên “phép lạ đầu tiên” của Chúa và giúp khơi lên ngọn lửa đức tin nơi các môn đệ. 22. V́ thế chúng ta cũng có thể nói được rằng trong đoạn Phúc âm thánh Gioan kể trên, thấy xuất hiện lần đầu tiên sự thật về t́nh mẹ chăm nom săn sóc của Đức Maria. Sự thật này cũng được diễn tả trong Giáo huấn Công đồng Vaticanô đă nêu rơ địa vị làm mẹ thật lẫy lừng của Đức Maria trong tương quan với sự trung gian của Chúa Kitô, Công đồng dạy: “chỉ có một vị Trung Gian duy nhất Vai tṛ làm mẹ của Đức Maria đối với loài người không làm lu mờ hoặc giảm bớt vài tṛ trung gian độc nhất của Chúa Kitô, trái lại c̣n làm sáng tỏ hiệu lực của sự trung gian ấy”. Bởi v́ “giữa Thiên Chúa và loài người, là Đức Giêsu Kitô, cũng là Con người” (I Tim.2,5). Địa vị làm mẹ của Đức Maria phát sinh theo ư định nhân lành của Thiên Chúa, và “bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô. Ảnh hưởng ấy nương tựa và hoàn toàn tùy thuộc vào sự trung gian của Chúa Kitô, nguồn phát sinh tất cả ảnh hưởng đó”. (44). Theo ư nghĩa này, biến cố tại Cana cho chúng ta thấy như một thứ tiên báo về vai tṛ Trung Gian của Đức Mẹ Maria, hoàn toàn hướng về Chúa Kitô và nhằm vào việc mặc khải quyền năng cứu chuộc của Ngài. Rơ ràng bản văn Phúc âm thánh Gioan nói về trung gian của người mẹ. Như Công đồng tuyên bố: Đức Maria đă trở nên “Người Mẹ của chúng ta trong trật tự ân sủng”. Chức làm Mẹ trong trật tự ân sủng này phát xuất từ chức làm Mẹ Thiên Chúa của Người. V́ do ư định của Chúa quan pḥng, Đức Mẹ đă là người Mẹ dưỡng nuôi Chúa Cứu Thế, nên Đức Mẹ đă trở nên “một công tác viên cao sang duy nhất, và là nữ tỳ khiêm tốn của Thiên Chúa, Đức Mẹ đă cộng tác cách rất đặc biệt vào công tŕnh của Đấng Cứu Thế, nhờ ḷng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức mến nồng nhiệt để phục hồi sự sống siều nhiên cho các linh hồn” (45). “Và mối t́nh mẫu tử này của Đức Maria trong trật tự vẫn kéo dài, không gián đoạn, cho đến lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn”. (46) 23. Nếu đoạn Phúc âm thánh Gioan trần thuật biến cố Cana, tŕnh bày t́nh mẹ chăm nom săn sóc của Đức Maria lúc khởi đầu hoạt động thiên sai của Chúa Kitô, th́ cũng có đoạn khác của Phúc âm này xác nhận t́nh mẫu tử trong chương tŕnh cứu rỗi của ơn thánh vào giây phút tột đỉnh của chương tŕnh cứu chuôc, đó là khi hy tế của Chúa Kitô trên Thập giá, tức mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài được hoàn tất. Thánh Gioan diễn tả rất rơ ràng: “Đứng dưới chân Thập giá Chúa Giêsu có Mẹ Ngài, chị Mẹ Ngài là bà Maria Cleopat, và bà Maria Mácđala. Khi Chúa Giêsu trông thấy Mẹ Ngài và bên cạnh có môn đệ Ngài yêu, Chúa liền nói với Mẹ: “Hỡi Bà, đây là con Bà”. Rồi Ngài nói với môn đệ: “Này là Mẹ con, và từ giờ đó, môn đệ đă đem Đức Mẹ về nhà riêng của ḿnh” (Ga.19,25-27). Qua sự việc này, chúng ta thấy rơ sự lo lắng của Người Con đối với Mẹ ḿnh đang cùng cực đau khổ. Tuy nhiên, “lời Chúa Kitô trối trên Thập giá” c̣n có một ư nghĩa sâu xa hơn. Chúa Giêsu làm nổi bật dây liên hệ mới giữa Mẹ và Con, và Ngài đă xác nhận một cách long trọng tất cả chân lư và thực tại của mối dây liên hệ này. Có thể nói: Trước đây, t́nh mẫu tử của Đức Mẹ Maria đối với loài người đă được phác họa, th́ nay được diễn tả rơ ràng và được thiết lập t́nh mẫu tử này được nổi bật lên khi mà mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Cứu Thế đă được hoàn thành trọn vẹn. Mẹ Chúa Kitô đứng ngay chính giữa trung tâm mầu nhiệm này, một mầu nhiệm bao gồm tất cả cũng như mỗi người, được trao ban như để làm Mẹ từng người và toàn thể nhân loại. Người có mặt dưới chân Thập giá là thánh Gioan, “môn đệ được Chúa yêu” (47). Nhưng ở đây không chỉ một ḿnh Gioan mà thôi. Theo truyền thống, Công đồng không ngần ngại gọi Đức Maria là “Mẹ Chúa Kitô và Mẹ nhân loại; v́ Đức Mẹ thuộc ḍng giống Adam, được liên kết với toàn thể nhân loại. Hơn thế nữa, Người quả thật là Mẹ các chi thể Chúa Kitô…bởi v́ nhờ đức ái, Mẹ đă cộng tác vào việc sinh ra các tín hữu trong Giáo hội” (48). Vậy, “chức làm mẹ mới của Đức Maria” phát xuất từ đức tin, là “hoa quả của t́nh yêu mới”, t́nh yêu mới này được trưởng thành trong Mẹ một cách trọn vẹn khi Mẹ đứng dưới chân Thập giá nhờ việc Mẹ thông công với t́nh yêu cứu chuộc của Con Mẹ. 24. Như vậy, chúng ta đang ở chính trọng tâm việc hoàn thành lời hứa đă có sẵn trong Tiền Phúc âm: “Ḍng dơi Người Nữ sẽ đạp nát đầu con rắn” (St, 3,15). Nhờ cái chết cứu chuộc, Chúa Giêsu Kitô đă chiến thắng sự dữ của tội lỗi và sự chết tận gốc rễ. Từ trên Thập giá, Chúa nói với Mẹ ḿnh, gọi Mẹ là “Bà” và nói: “Hỡi Bà, đây là con Bà”, đó là cử chỉ đầy ư nghĩa. Hơn nữa, Chúa cũng đă dùng từ ngữ ấy mà nói với Mẹ tại Cana (Ga.2,4). Làm sao chúng ta có thể nghi ngờ được là giờ đây trên núi Sọ. lời nói này đă đi vào chính trung tâm mầu nhiệm của Mẹ Maria và chỉ rơ địa vị duy nhất Đức Mẹ chiếm ngự trong cả nhiệm cuộc cứu rỗi? Như Công đồng đă dạy: “Với Đức Mẹ Maria, thiếu nữ Sion cao sang, sau thời gian dài mong đợi lời hứa thực hiện, thời gian đă nên trọn và nhiệm cuộc mới được thiết lập với Ngài. Mọi việc đă xảy đến khi Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân loại nơi Mẹ để giải thoát con người khỏi tội lỗi, nhờ các mầu nhiệm của thân xác Chúa” (49). Những lời Chúa Giêsu nói từ trên Thập giá có nghĩa là “tư cách làm Mẹ” của Đức Maria, Người sinh hạ Chúa Cứu Thế, lại được nối tiếp “một cách mới” trong Giáo hội và nhờ Giáo hội, được tượng trưng và đại diện bởi thánh Gioan. Như thế, Đấng được gọi là “Đầy ơn phúc”, đă được đưa và mầu nhiệm Chúa Kitô để trở thành Mẹ Ngài, tức là Mẹ Thiên Chúa, giờ đây nhờ Giáo hội, vẫn ở trong mầu nhiệm này như “Người Nữ” đă được nói đến trong sách Khải Huyền (St.3,15) vào thời buổi đầu, và trong sách Khải Huyền (Kh.12,1) vào cuối lịch sử ơn cứu độ. Theo đúng chương tŕnh vĩnh cửu của Chúa Quan Pḥng, chức vụ Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria phải được tỏa ra trên Giáo hội như đă được xác nhận bởi các tuyên ngôn Thánh Truyền, theo đó, t́nh mẫu tử của Đức Maria đối với Giáo hội là sự phản chiếu và trải rộng t́nh mẫu tử của Người đối với Con Thiên Chúa (50). Theo Công đồng, chính giây phút Giáo hội khai sinh và biểu lộ trọn vẹn cho thế giới, làm cho chúng ta thoáng thấy sự nối tiếp t́nh hiền mẫu này của Đức Mẹ Maria: “V́ Thiên Chúa không muốn tỏ bày mầu nhiệm cứu rỗi nhân loại cách long trọng trước khi Ngài đổ tràn Thánh Thần Chúa Kitô đă hứa, nên chúng thấy các Tông đồ trước ngày Lễ Hiện Xuống đă kiên tâm hiệp ư cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, với Đức Mẹ Maria Mẹ Chúa Giêsu và với anh em Ngài (Cv.1,14). Chúng ta thấy Đức Mẹ Maria cũng tha thiết cầu xin hồng ân Chúa Thánh Thần là Đấng đă bao phủ Mẹ trong ngày Truyền Tin”. (51) Và v́ thế, trong nhiệm cuộc ân sủng cứu độ được phát sinh qua hành động Chúa Thánh Linh, có sự tương xứng duy nhất giữa thời điểm Ngôi Lời Nhập Thể và thời điểm Giáo hội khai sinh. Nhân vật liên kết hai thời điểm này là Đức Mẹ Maria: Đức Maria tại Nazareth và Đức Maria tại Nhà Tiệc Ly ở Giêrusalem. Trong cả hai trường hợp, sự hiện diện kín đáo nhưng thiết yếu của Đức Mẹ chỉ cho thấy đường lối “sinh bởi Chúa Thánh Linh”. Như thế, Đức Mẹ là Đấng hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô vơi tư cách người Mẹ. lại trở nên hiện diện trong mầu nhiệm Giáo hội do ư định Chúa Con và do quyền lực Chúa Thánh Linh đang hiện diện trong mầu nhiệm của Giáo hội. Trong Giáo hội, Đức Mẹ cũng tiếp tục hiện diện như người Mẹ, như đă được tŕnh bày bởi những lời Chúa thốt ra trên Thánh giá: “Thưa Bà, đây là con Bà”; “Này là Mẹ con”. PHẦN II MẸ THIÊN CHÚA Ở TRUNG TÂM GIÁO HỘI LỮ HÀNH
1. Giáo Hội, Dân Thiên Chúa Hiện Diện Trong Mọi Dân Tộc Trên Địa Cầu 25. “Giáo hội như một lữ khách trên một miền đất lạ, hối hả tiến bước giữa những bách hại của trần gian và những an ủi của Thiên Chúa” (52), loan truyền cây Thập giá và sự chết của Chúa Kitô cho tới khi Ngài đến (I Cor.11,26) (53). “Dân Israel, về huyết nhục, phiêu bạt như một người bị lưu đày trong sa mạc, đă được gọi là Giáo hội của Thiên Chúa (Esd.13,1) (Ds.20,4) (Đnl.23,1). Cũng thế, dân Israel mới…cũng được gọi là Giáo hội của Chúa Kitô (Mt,16,18). V́ Ngài đă mua Giáo hội đó cho chính ḿnh bằng máu của Ngài (Cv.20,28), đă đổ đầy Thánh Thần của Ngài trên đó và cung cấp những phương tiện thích hợp để làm cho nó trở thành xă hội hữu h́nh. Thiên Chúa đă liên kết thành một mọi người tin tưởng nh́n lên Chúa Giêsu như là tác giả ơn cứu độ và nguồn mạch sự hiệp nhất và ḥa b́nh, và đă thiết lập họ thành Giáo hội, để Giáo hội trở nên bí tích hữu h́nh của sự hiệp nhất cứu độ ấy cho toàn thể và cho mỗi người”. (54) Công đồng Vaticanô II so sánh Giáo hội lữ hành với dân Israel của Cựu Ước hành tŕnh qua sa mạc. Cuộc hành tŕnh có đặc tính ngoại diện, thấy được trong thời gian và không gian, nó diễn biến theo lịch sử. V́ Giáo hội “được dự định lan tràn tới mọi miền trên địa cầu và đi sâu vào lịch sử nhân loại”, nhưng đồng thời “lại vượt mọi giới hạn thời gian và không gian” (55). Tuy nhiên, đặc tính cốt yếu của cuộc lữ hành Giáo hội nằm tại nội tâm: đó là “cuộc lữ hành theo đức tin nhờ thần lực Chúa Phục Sinh” (56), một cuộc lữ hành trong Chúa Thánh Linh, đă được ban tặng cho Giáo hội là Đấng An Ủi vô h́nh (Parákletos) (Ga.14,26; 15,26; 16,7): “Tiến bước giữa cơn cám dỗ và đau thương, Giáo hội được vững mạnh nhờ ơn Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đă hứa ban, để,,,được Chúa Thánh Linh thúc đẩy, không ngừng tự đổi mới cho tới ngày đạt đến ánh sáng không hề tắt, nhờ Thập giá” (57). Chính trong cuộc hành tŕnh hay cuộc lữ hành này của Giáo hội qua không gian và thời gian, và qua cả lịch sử các linh hồn mà Đức Mẹ Maria hiện diện như một người “được chúc phúc v́ đă tin”, như một người đă tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, thông phần vào mầu nhiệm Chúa Kitô hơn bất cứ một thụ tạo nào khác. Công đồng c̣n dạy rằng: “Đức Mẹ Maria đă tham dự sâu xa vào lịch sử cứu độ và một cách nào đó, quy tụ và phản chiếu nơi ḿnh những chân lư trọng yếu của đức tin” (58). Ở giữa toàn thể mọi tín hữu, Đức Mẹ như tấm gương phản chiếu một cách sâu xa và trong suốt “những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv.2,11). 26. Được Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các Tông đồ, Giáo hội đă hoàn toàn ư thức được các kỳ công của Thiên Chúa trong ngày Lễ Hiện Xuống, khi những người tụ họp trong nhà Tiệc Ly “được tràn đầy ơn Chúa Thánh Linh và bắt đầu nói các ngôn ngữ khác nhau như Chúa Thánh Linh đă ban cho họ” (Cv.2,4). Từ giây phút ấy, cuộc hành tŕnh đức tin cũng bắt đầu, một cuộc lữ hành của Giáo hội xuyên qua lịch sử của cá nhân và các dân tộc. Chúng ta biết rằng Đức Mẹ Maria hiện diện từ lúc khởi đầu cuộc hành tŕnh này, v́ chúng ta thấy Mẹ ở giữa các Tông đồ trong nhà Tiệc Ly “khẩn khoản nài xin ơn Chúa Thánh Linh” (59). Theo một ư nghĩa nào đó, cuộc hành tŕnh đức tin của Mẹ lâu dài hơn. Chúa Thánh Linh đă ngự xuống trên Mẹ và Mẹ đă trở nên Bạn T́nh trung tín của Ngài trong lúc Truyền Tin, đón nhận Ngôi Lời của Thiên Chúa thật, “dâng hiến trọn cả trí khôn và ư muốn… tự t́nh chấp nhận chân lư mặc khải của Ngài”, hơn nữa, “phó thác ḿnh hoàn toàn cho Thiên Chúa qua đức tuân phục của đức tin” (60). Bởi đó, Mẹ đă đáp lời Sứ thần: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ thần truyền”. Cuộc hành tŕnh đức tin của Đức Mẹ Maria, Đấng chúng ta thấy cầu nguyện trong nhà Tiệc Ly, như thế lâu dài hơn cuộc hành tŕnh của các người khác tụ họp tại đó: Đức Mẹ Maria “đi trước họ”, “dẫn đường cho họ” (61). Giây phút Hiện Xuống tại Giêrusalem đă được chuẩn bị bởi giây phút Truyền Tin tại Nazareth, cũng như bởi cây Thập giá. Trong nhà Tiệc Ly cuộc hành tŕnh đức tin của Đức Mẹ Maria gặp cuộc hành tŕnh đức tin của Giáo hội. Bằng cách nào? Giữa những người chăm chú cầu nguyện tại nhà Tiệc Ly, chuẩn bị “đi khắp thế giới” sau khi lănh nhận ơn Chúa Thánh Linh, một ít người đă lần lượt được Chúa Giêsu gọi từ lúc khởi đầu sứ mệnh của Ngài trong dân Israel. Mười một người đă trở thành Tông đồ, và Chúa Giêsu đă trao cho họ sứ mệnh mà chính Ngài đă lănh nhận từ Chúa Cha. Sau ngày Phục Sinh, Ngài đă nói với các Tông đồ: “Như Cha đă sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga.20,21). Và bốn mươi ngày sau, trước khi trở về cùng Chúa Cha, Ngài lại thêm: “Khi Chúa Thánh Linh ngự xuống trên các con…các con sẽ là chứng nhân của Thầy…cho đến tận cùng trái đất” (Cv.1,8). Sứ mệnh này của các Tông đồ bắt đầu từ giây phút họ bỏ nhà Tiệc Ly ở Giêrusalem. Giáo hội khai sinh và trưởng thành nhờ thánh Phêrô và các Tông đồ làm chứng cho Chúa Giêsu Tử nạn và Phục Sinh (Cv.2,31-34; 3.15-18; 4.10-12; 5.30-32). Đức Mẹ Maria đă không trực tiếp nhận lănh sứ mạng Tông đồ, Mẹ không ở trong số những người mà Chúa Giêsu đă sai “đi khắp thế giới để giảng dạy muôn dân” (Mt.28,19), khi Chúa trao sứ mệnh này cho các vị. Nhưng Đức Mẹ đă có mặt trong nhà Tiệc Ly, nơi các Tông đồ chuẩn bị đón nhận sứ mệnh này khi Thánh Thần Chân Lư hiện xuống: Đức Mẹ đă hiện diện với họ. Ở giữa họ, Đức Mẹ đă “chăm chú cầu nguyện” với tư cách là “Mẹ Chúa Giêsu” (Cv.1,13-14). Mẹ Chúa Kitô Đấng đă chịu đóng đinh và đă sống lại. Và nhóm người đầu tiên ấy, “hướng nh́n về Chúa Giêsu tác giả ơn cứu độ với cặp mắt đức tin” (62), đă biết rơ Chúa Giêsu là Con Đức Mẹ Maria, và Đức Maria chính là Mẹ Ngài, với địa vị này, từ giây phút thụ thai và sinh hạ Chúa Giêsu, Mẹ đă là một chứng nhân duy nhất cho mầu nhiệm Chúa Giêsu, mầu nhiệm ấy, trước mắt họ đă được bày tỏ và xác nhận nơi cây Thập giá và sự Phục sinh. Như thế, ngay từ giây phút đầu tiên, Giáo hội “đă nh́n vào” Đức Mẹ Maria qua Chúa Giêsu cũng hệt như “đă nh́n vào” Chúa Giêsu qua Đức Mẹ Maria. Đối với Giáo hội thời bấy giờ và hết mọi thời đại, Đức Mẹ Maria là một chứng nhân duy nhất của những năm thơ ấu và cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu tại Nazareth, khi mà Mẹ: “Giữ cẩn thận mọi điều ấy và suy niệm trong ḷng” (Lc.2,19; 2,51). Nhưng trên tất cả, trong Giáo hội thời đó và mọi thời đại, Đức Mẹ Maria đă và luôn luôn là người “được chúc phúc v́ đă tin”, Mẹ là người đầu tiên đă tin. Từ giây phút Truyền Tin và thụ thai, từ giây phút sinh con trong hang ḅ lừa tại Belem. Đức Mẹ Maria đă theo Chúa Giêsu từng bước suốt cuộc lữ hành trong đức tin của một người mẹ. Đức Mẹ theo Chúa Giêsu trong những năm Ngài sống ẩn dật tại Nazareth, Mẹ cũng theo Chúa trong thời gian sau khi Ngài từ giă gia đ́nh để bắt đầu “hoạt động giảng dạy” (Cv.1,1) trong dân Israel. Và hơn hết, Đức Mẹ theo Chúa trong kinh nghiệm thê lương của núi Golgotha. Giờ đây, khi hiện diện với các Tông đồ trong nhà Tiệc Ly tại Giêrusalem vào buổi b́nh minh của Giáo hội, đức tin của Đức Mẹ phát sinh từ những lời Truyền Tin, đă đạt mức kiên vững. Sứ thần đă thưa với Đức Mẹ: “Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu. Ngài sẽ nên cao trọng…và Ngài sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, vương quyền Ngài sẽ vô tận”. Những biến cố mới đây trên núi Golgotha đă bao phủ lời hứa đó trong tối tăm; tuy nhiên đức tin của Đức Mẹ Maria đă không phai mờ dưới chân cây Thập giá. Như Abraham, Đức Mẹ vẫn là ngươi “tin tưởng trong hy vọng mặc dầu vô vọng” (Rm.4,18). Nhưng chỉ sau ngày Phục Sinh, niềm hy vọng này đă phô bày bộ mặt thực sự, và lời hứa xưa đă bắt đầu biến thành thực tế. V́ Chúa Giêsu, trước khi trở về với Chúa Cha, đă nói với các Tông đồ: “Vậy các con hăy đi giảng dạy muôn dân…Này Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28,19-20). Đó là lời Đấng, do sự Phục Sinh, đă tỏ ḿnh là người chiến thắng sự chết và chiếm hữu một vương quốc mà như lời Sứ thần nói: “Sẽ vô tận”. 27. Giờ đây, vào buổi b́nh minh tiên khởi của Giáo hội, vào lúc bắt đâu cuộc hành tŕnh dài trong đức tin từ ngày Lễ Hiện Xuống tại Giêrusalem, Đức Mẹ đă ở với những người được coi là hạt giống của “Israel Mới”, Mẹ hiện diện giữa họ như một chứng nhân đặc biệt cho mầu nhiệm Chúa Kitô. Và Giáo hội, cùng với Đức Mẹ, chuyên chăm cầu nguyện, đồng thời “chiêm ngưỡng Đức Maria trong ánh sáng Ngôi Lời Nhập Thể”. Điều đó sẽ măi măi như thế. “V́ càng tiến sâu hơn vào mầu nhiệm Nhập Thể siêu vời”, Giáo hội càng nghĩ đến Mẹ Chúa Kitô với niềm tin kính và sùng mộ sâu xa (63). Đức Mẹ Maria thuộc về mầu nhiệm Chúa Kitô cách bất khả ly, và Mẹ cũng thuộc về mầu nhiệm Giáo hội từ lúc khởi đầu, từ ngày khai sinh Giáo hội. Trên nền tảng Giáo hội được khai sinh và phát triển không ngừng từ thế hệ này qua thế hệ khác giữa muôn dân tộc địa cầu, chúng ta gặp thấy một người “đă tin rằng điều Chúa phán cùng Người sẽ được hoàn tất” (Lc.1,45). Đúng chính là đức tin của Đức Mẹ, đức tin đă đánh dấu bước khởi đầu của Giao Ước Mới và vĩnh cửu của Thiên Chúa đối với nhân loại trong Chúa Kitô, đức tin anh dũng này của Đức Mẹ đă đi trước chứng tá Tông truyền của Giáo hội và luôn ở giữa ḷng Giáo hội kín ẩn như một di sản đặc biệt của mặc khải Thiên Chúa. Hết mọi người, từ thế hệ này qua thế hệ khác, đón nhận chứng tá tông đồ của Giáo hội đều thông phần vào di sản mầu nhiệm ấy, và theo một nghĩa nào đó, được thông phần vào đức tin của Mẹ Maria. Những lời của bà Elisabeth “phúc cho Em là người đă tin” cũng tiếp tục theo Đức Trinh Nữ trong ngày Chúa Thánh Linh Hiện Xuống. Những lời đó theo Đức Mẹ từ thời đại này qua tḥi đại khác bất cứ nơi nào sự hiểu biết về mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô lan rộng tới, nhờ chứng tá của các Tông đồ và hoạt động của Giáo hội. Như vậy lời tiên tri của kinh Ngợi Khen (Magnificat) đă nên trọn: “Muôn đời thiên hạ sẽ gọi tôi là người diễm phúc, v́ Đấng Toàn Năng đă làm cho tôi những việc trọng đại, và danh Ngài là Thánh” (Lc.1,48-49). V́ sự hiểu biết về mầu nhiệm Chúa Kitô dẫn chúng ta tới việc chúc tụng Mẹ Ngài theo một h́nh thức tôn kính đặc biệt dành cho Mẹ Thiên Chúa (Theotókos). Nhưng việc tôn kính này luôn bao gồm lời chúc tụng đức tin của Mẹ, v́ Đức Trinh Nữ thành Nazareth đă trở nên diễm phúc trên hết mọi người bởi đức tin này, theo như lời bà Elisabeth. Những người từ thế hệ này qua thế hệ khác trong các dân tộc và các quốc gia khác nhau trên địa cầu với ḷng tin đón nhận mầu nhiệm Chúa Kitô Ngôi Lời Nhập Thể và là Đấng Cứu Chuộc thế giới, không những hướng về Đức Mẹ với niềm tôn kính và tín thác chạy đến với Mẹ như là Mẹ Đấng Cứu Thế, mà họ c̣n t́m thấy nơi đức tin của Mẹ sự nâng đỡ cho đức tin của họ. Chính sự thông phần sống động vào đức tin của Đức Mẹ Maria, nên đă quyết định địa vị đặc biệt của Mẹ trong cuộc lữ hành Giáo hội với tư cách Dân Tộc Mới của Thiên Chúa trên khắp địa cầu. 28. Như Công đồng đă dạy: “Đức Mẹ Maria đă mật thiết gắn liền với lịch sử cứu rỗi…và khi các tín hữu đă nghe giảng về Mẹ và tôn sùng Mẹ, họ được Mẹ mời gọi đến kết hợp với hy lễ của Con Mẹ và yêu mến Đức Chúa Cha” (64). V́ lư do này, đức tin của Đức Mẹ Maria, dựa trên chứng tá tông truyền của Giáo hội, một cách nào đó, tiếp tục trở thành đức tin của Dân Thiên Chúa trong cuộc lữ hành, đức tin của mỗi cá nhân cũng như các cộng đoàn, của các trung tâm và hiệp hội, và của các nhóm khác nhau đang hiện hữu trong Giáo hội. Đó là một đức tin được lưu truyền cùng một lúc nhờ trí tuệ và trái tim. Đức tin đó luôn nhờ lời cầu nguyện để chiếm hữu t́m lại được. “V́ thế, trong cuộc sống tông đồ, Giáo hội có lư để nh́n lên Đấng đă sinh ra Chúa Kitô, là Người được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Linh và được Đức Trinh Nữ sinh ra, để nhờ Giáo hội, Chúa Kitô cũng sinh ra và lớn lên trong ḷng các tín hữu”. (65) Ngày nay, cũng như trong cuộc lữ hành đức tin này, chúng ta đang tiến gần đến ngày kết thúc Đệ nhị Thiên niên kỷ Kitô giáo. Qua giáo huấn của Công đồng Vaticanô II, Giáo hội kêu gọi chúng ta chú ư tới điều mà Giáo hội đă khám phá trong chính ḿnh là: “Dân duy nhất của Thiên Chúa hiện diện giữa mọi dân tộc trên địa cầu”. Và Giáo hội nhắc nhở chúng ta về chân lư này; “Mọi tín hữu, dù rải rác trên khắp hoàn cầu, đều hiệp thông trong Chúa Thánh Linh với tất cả các tín hữu khác” (66). V́ thế chúng ta có thể nói rằng: Trong sự hiệp thông này, mầu nhiệm Lễ Chúa Thánh Linh HIện Xuống được liên tục hoàn thành. Đồng thời các Tông đồ và môn đệ của Chúa, trong mọi dân tộc trên địa cầu, “chuyên chăm cầu nguyện với Đức Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu” (Cv.1,14). Các vị đó, từ thế hệ này qua thế hệ khác, thiết lập “dấu hiệu của Nước Trời”, nước đó không thuộc về thế gian này (67), họ cũng ư thức rằng ở giữa trần gian này, họ phải tụ họp quanh vị Vua, Đấng đă được Thiên Chúa ban các dân tộc làm gia nghiệp (Tv.2,8), được Chúa Cha trao cho “Ngôi báu Đavít Tổ phụ Ngài” để “Ngài cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và vương quốc Ngài sẽ vô tận”. Trong thời gian mong đợi này, nhờ cũng một đức tin đă làm cho Đức Mẹ được chúc phúc, đặc biệt trong thời điểm Truyền Tin, Đức Mẹ hiện diện trong sứ mệnh và trong hoạt động của Giáo hội, để đưa vương quốc Con Mẹ vào trần gian. (68) Sự hiện diện của Đức Mẹ Maria được biểu lộ dưới nhiều h́nh thức, ngày nay cũng như trong suốt lịch sử của Giáo hội. Nó được sống động bằng nhiều cách thế; bằng đức tin và ḷng sùng kính của từng tín hữu, bằng truyền thống của các gia đ́nh Kitô giáo hay c̣n gọi là “tiểu giáo hội tại gia”, truyền thống của các cộng đoàn giáo xứ hay các cộng đoàn thừa sai, của các tu hội, các giáo phận, bằng sức thu hút và giăi sáng của các đền thánh lớn, những nơi mà không phải chỉ cá nhân hay các nhóm địa phương, mà đôi khi cả các quốc gia, xă hội, cả các lục địa cũng t́m đến gặp Mẹ Thiên Chúa, Đấng đă được chúc phúc v́ đă tin, là đệ nhất tín hữu và nhờ đó đă trở nên Mẹ Chúa ở cùng chúng ta (Emmanuel). Điều đó được nhận thấy tại miền đất Palestin, quê hương thiêng liêng của mọi Kitô hữu, bởi v́ đó là quê hương của Đấng Cứu Chuộc thế giới và của Mẹ Ngài. Điều đó được nhận thấy tại các Đền thánh mà đức tin Kitô giáo đă xây dựng qua bao thế kỷ tại Roma và tại khắp nơi trên thế giới. Điều đó được nhận thấy tại các Trung tâm Hành Hương như Guadalupe, Lộ đức, Fatima và các Trung tâm khác rải rác trong các nước, trong số đó, Tôi không thể không nhắc tới Trung tâm Jasna Góra tại quê hương Tôi. Chúng ta có thể nói tới một “địa lư” của ḷng tin và ḷng tôn sùng Đức Mẹ, gồm tất cả những nơi hành hương đặc biệt mà Dân Chúa t́m đến gặp Mẹ Thiên Chúa, để nhờ vào sự hiện diện tỏa sáng của Bà Mẹ, “Đấng đă tin”, cũng cố đức tin của ḿnh. Bởi v́, nhờ đức tin của Đức Mẹ Maria, bắt đầu từ lúc Truyền Tin và hoàn thành dưới chân Thập giá, mà trong nhân loại được mở ra một “khoảng trống nội tâm” để Cha Hằng Hữu đổ tràn “mọi phúc lành thiêng liêng” (69). Đó là “khoảng trống của “Lời Giao Ước mới và vĩnh cửu” khoảng trống này tiếp tục tồn tại trong Giáo hội. “V́ Giáo hội ở trong Chúa Kitô như một thứ bí tích hay như dấu chỉ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” (70). Trong đức tin, Đức Mẹ Maria tuyên xưng ngày Truyền Tin như là “Nữ tỳ của Chúa”, và cũng trong đức tin, Đức Mẹ hằng “đi tiên phong” dẫn Dân Chúa trong cuộc lữ hành khắp hoàn cầu. Chính nhờ đức tin này mà “Giáo hội luôn nỗ lực cách hữu hiệu quy tụ toàn thể nhân loại dưới một Thủ Lănh là Chúa Kitô, trong sự hợp nhất với Chúa Thánh Linh”. (71)
2. Cuộc Hành Tŕnh Của Giáo Hội Và Sự Hợp Nhất Của Mọi Kitô Hữu 29. “Chúa Thánh Linh đă khơi dậy trong các môn đệ Chúa Kitô ḷng ước muốn và hành động để tất cả được an b́nh hợp nhất trong một đoàn chiên dưới quyền một Chủ Chăn duy nhất, theo cách thức Chúa Kitô đă vạch ra” (71). Cuộc hành tŕnh của Giáo hội, đặc biệt trong thời đại chúng ta, đă được đánh dấu bằng dấu chỉ hiệp thông. Các Kitô hữu đang t́m kiếm những phương cách để phục hồi sự hiệp nhất mà Chúa Kitô đă cầu xin với Chúa Cha cho các môn đệ Ngài hôm trước ngày chịu nạn: “Để họ tất cả được nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng được ở trong chúng ta, cho thế gian tin rằng Cha đă sai Con” (Ga.17,21). Do đó, sự hiệp nhất của các môn đệ của Chúa Kitô là một dấu chỉ lớn lao được trao ban để khơi dậy đức tin trên thế giới trong khi sự chia rẽ của họ đă gây ra gương mù. (73) Nhờ ư thức mỗi ngày một rơ rệt và phổ biến về sự khẩn thiết phải kết hợp mọi người Kitô hữu, phong trào hiệp nhất đă được Giáo hội Công giáo xúc tiến mạnh mẽ với công việc của Công đồng Vaticanô II: Các Kitô hữu, cá nhân cũng như cộng đoàn phải đào sâu tinh thần “vâng lời của đức tin” mà Đức Mẹ Maria đă làm gương trước một cách sáng ngời. Và bởi v́ “Đức Mẹ chiếu sáng như một dấu chỉ ḷng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho Dân Chúa đang lữ hành nên thánh Công đồng rất vui mừng và được an ủi khi thấy ngay giữa các anh em ly khai không thiếu những người dâng lên Mẹ Chúa Cứu Thế vinh dự Ngài đáng được, nhất là các anh em Đông phương…” (74). 30. Người Kitô hữu nhận thức rằng sự hiệp nhất chỉ có thể t́m lại được khi đức tin họ đă hợp nhất. Họ cần giải quyết “những bất đồng quan trọng về giáo lư liên qua đến mầu nhiệm và chức vụ của Giáo hội; đôi khi cả đến vai tṛ của Đức Maria trong công cuộc cứu độ”. (75) Những cuộc đối thoại tiến hành giữa Giáo hội Công giáo và các Giáo hội khác cũng như các Cộng đoàn Giáo hội Tây phương (76) càng ngày càng hướng về hai khía cạnh bất khả phân ly này của chính mầu nhiệm ơn cứu chuộc. Nếu mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể hé mở cho chúng ta thấy mầu nhiệm về tư cách làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria và ngược lại, sự suy ngắm Mẹ Thiên Chúa đưa chúng ta đến sự hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm Nhập Thể, th́ cũng phải nói như thế về mầu nhiệm Giáo hội và vai tṛ Đức Mẹ Maria trong công cuộc cứu chuộc. Bằng việc học hỏi thấu đáo hơn về hai mầu nhiệm Đức Mẹ và Giáo hội. làm sáng tỏ mầu nhiệm này bằng ánh sáng của mầu nhiệm kia, những Kitô hữu nhiệt tâm thực hành những điều Chúa Giêsu dạy họ - như Đức Mẹ đă khuyên nhủ họ (Ga.2,5) sẽ có thể cùng nhau tiến bước trên cuộc “lữ hành đức tin”. Đức Mẹ Maria là gương mẫu cuộc lữ hành này sẽ dẫn đưa họ tới sự hợp nhất mà Chúa Cứu Thế đă mong muốn và những người lắng nghe “Chúa Thánh Linh đang nói với các Giáo hội” (Kh.2,7,11,17) ngày nay rất ao ước. Trong khi đó, thật là một dấu hiệu hy vọng: Các Giáo hội và các Cộng đoàn Giáo hội này đang t́m được sự thỏa thuận với Giáo hội Công giáo về những vấn đề cơ bản của đức tin Kitô giáo, gồm cả những vấn đề liên quan đến Đức Trinh Nữ Maria. V́ họ công nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và coi đó là thành phần đức tin của chúng ta trong Chúa Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật. Họ chiêm ngưỡng Đức Mẹ dưới chân Thập giá đón nhận môn đệ Chúa yêu dấu làm con ḿnh, và đến lượt môn đệ nhận Người làm mẹ ḿnh. Vậy th́, tại sao chúng ta không cùng nhau hướng về Đức Mẹ như là Mẹ của chúng ta. Người Mẹ đang cầu nguyện cho sự hợp nhất của gia đ́nh Thiên Chúa và Người “đi trước” chúng ta, dẫn đầu đoàn người làm chứng đức tin trong Chúa duy nhất, là Con Thiên Chúa, Đấng đă được thụ thai trong ḷng trinh khiết Đức Mẹ nhờ quyền lực Chúa Thánh Linh? 31. Đàng khác, Tôi muốn nhấn mạnh rằng Giáo hội Công giáo, Giáo hội Chính Thống cũng như các Giáo hội Đông phương xưa đă cảm thông sự hợp nhất sâu xa trong việc yêu mến và ca tụng Mẹ Thiên Chúa (Theotókos). Không những “các tín điều căn bản của đức tin Kitô giáo về Chúa Ba Ngôi, về Ngôi Lời Nhập Thể trong ḷng Đức Trinh Nữ Maria, đă được định tín trong các Công đồng chung khai diễn tại Đông phương” (77), mà ngay cả trong nghi lễ phụng vụ “các tín hữu Đông phương cũng ca tụng Đức Mẹ Maria trọn đời đồng trinh…Mẹ Rất Thánh của Thiên Chúa, với những bài thánh ca tuyệt diệu”. (78). Những anh em thuộc các Giáo hội đó đă trải qua một lịch sử phức tạp, nhưng lịch sử của họ luôn được ghi dấu bằng ḷng khát vọng mănh liệt bảo vệ đức tin và hoạt động tông đồ, mặc dầu thường xuyên bị bách hại, ngay cả đến phải đổ máu. Đây chính là lịch sử của ḷng trung thành với Chúa, một cuộc “lữ hành đức tin” đích thực, trải qua không gian và thời gian, trong đó các tín hữu Đông phương luôn hướng về Mẹ Thiên Chúa với ḷng cậy trông vô bờ bến, họ ca ngợi và cầu khẩn Mẹ không ngừng. Trong giây phút khó khăn cho việc tồn tại của Kitô giáo luôn bị thử thách, “họ chạy đến ẩn náu dưới sư che chở của Đức Mẹ” (79) v́ họ biết ḿnh sẽ được Mẹ cứu giúp một cách uy quyền. Các Giáo hội tuyên xưng giáo lư của Công đồng Êphêsô ca tụng Đức Trinh Nữ Maria là “Mẹ thật Thiên Chúa”, bởi v́ “Chúa Giêsu Kitô…được Đức Chúa Cha sinh ra từ trước muôn đời theo thiên tính, th́ trong những ngày sau hết đă sinh ra v́ chúng ta và v́ phần rỗi chúng ta bởi Đức Maria, Mẹ Trinh Khiết của Thiên Chúa, theo nhân tính” (80). Trong khi suy ngắm Đức Trinh Nữ theo ánh sáng mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, các Giáo phụ Hy lạp và truyền thống Byzantine đă cố gắng đào sâu mối dây liên kết giữa Đức Maria Mẹ Thiên Chúa với Chúa Giêsu và Giáo hội: Đức Trinh Nữ sẽ luôn hiện diện trong toàn thể thực tại các mầu nhiệm cứu rỗi. Thánh Cyrillô thành Alexandria đă đem việc chiêm niệm về mầu nhiệm Mẹ Maria vào truyền thống Coptic và Ethiopi và đến lượt họ, họ ca tụng mầu nhiệm này với những vần thơ dồi dào phong phú (81). Thánh Ephrem người Syria, với thiên tài thi ca, được gọi là “cây Thất Huyền cầm của Thánh Linh” đă không ngừng ca tụng Mẹ và để lại dấu tích vẫn c̣n sống động trong toàn thể truyền thống của Giáo hội Syria. (82) Thánh Grêgoriô Narek, một trong những vị thánh làm vang danh Giáo hội Armênia, trong bài tán dương Mẹ Thiên Chúa (Theotókos), với một giọng đầy thi hứng hùng hồn đă phân tích sâu rộng các khía cạnh của mầu nhiệm Nhập Thể, và mỗi khía cạnh này đă là một cơ hội để ngài tung hô phẩm giá lạ lùng và vẻ đẹp tuyệt vời của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể. (83). V́ thế, chúng ta không lấy làm lạ: Đức Mẹ Maria đă chiếm một chỗ đặc biệt trong việc sùng kính của các Giáo hội Đông phương thời xưa với vô số ngày lễ và ca văn. 32. Trong phụng vụ Byzantin vào mỗi giờ Thần vụ, lời ca tụng Đức Mẹ được gắn liền với lời ca tụng Chúa Con, lên tới Đức Chúa Cha, qua Chúa Thánh Linh. Trong Kinh Nguyện Thánh Thể của thánh Gioan kim khẩu, ngay tiếp sau kinh Tiền Tụng, công đoàn hát mừng Mẹ Thiên Chúa rằng: Thật là chính đáng để ca tụng Mẹ có phúc, ôi Mẹ Thiên Chúa, Mẹ là người diễm phúc nhất, trinh trong vẹn toàn, là Mẹ của Thiên Chúa chúng con. Chúng con tung hô Mẹ là Đấng đáng kính hơn phẩm thần Chérubim, và muôn lần vinh quang hơn phẩm thần Sêraphim, Mẹ là Đấng đă sinh hạ Ngôi Lời Thiên Chúa mà vẫn c̣n khiết trinh, Mẹ thật là Mẹ Thiên Chúa. Những lời tán tụng này được dâng lên Đức Mẹ Maria trong mỗi lần cử hành phụng vụ Thánh Thể đă rèn luyện đức tin, ḷng đạo đức và tâm t́nh cầu nguyện của các tín hữu. Qua các thế kỷ, các lời tán tụng này đă thấm nhiễm vào toàn thể đời sống thiêng liêng của họ, nuôi dưỡng trong họ một ḷng tôn sùng sâu xa đối với “Mẹ Chí Thánh của Thiên Chúa”. 33. Năm nay kỷ niệm 1200 năm Công đồng chung Nicêa II (787). Để chấm dứt cuộc tranh luận thời danh về việc tôn kính các ảnh tượng thánh. Công đồng này đă xác định rơ: Theo giáo huấn của các thánh Giáo phụ và theo truyền thống phổ quát của Giáo hội, có thể trưng bày để tôn kính, cùng với Thánh giá, các ảnh tượng Mẹ Thiên Chúa, các Thiên Thần, và các Thánh trong thánh đường, tại tư gia và dọc các đường phố (84). Thói quen này đă được duy tŕ khắp phương Đông và cả phương Tây: Các ảnh Đức Trinh Nữ rất được sùng kính trong các thánh đường và các gia đ́nh. Đức Mẹ Maria đă được diễn tả dưới nhiều tước hiệu như: Ngai ṭa Thiên Chúa, bế Chúa Giêsu trao ban cho loài người (Theotókos); là đường dẫn đến Chúa Kitô và tỏ Ngài ra (Hodegetria); như Người đang cầu nguyện trong thái độ bầu cử và như dấu chỉ sự hiện diện Thiên Chúa trong cuộc hành tŕnh của tín hữu cho đến ngày của Chúa; hoặc như Đấng phù trợ đang mở rộng áo choàng che phủ dân chúng (Pokrov), hay như Đức Trinh Nữ đầy ḷng từ bi nhân hậu (Eleousa). Đức Mẹ thường được tŕnh bày bế Chúa Hài Nhi Giêsu trên tay; đó là mối liên hệ với người Con làm hiển danh cho người Mẹ. Có khi Đức Mẹ ẵm Con một các âu yếm (Glykophilousa); có lúc Mẹ được tŕnh bày trong tư thế ngây ngất chiêm niệm Đấng là Chúa của lịch sử (Kh.5,9-14) (85). Cũng nên nhắc đến ảnh Đức Mẹ Vladimir, Đấng đă luôn luôn theo sát cuộc hành tŕnh đức tin của các dân tộc Rus ngày xưa. Sắp đến ngày kỷ niệm giáp 1000 năm nhận biết đức tin của miền đất cao quư này: miền đất của người dân khiêm tốn, của cá nhà tư tưởng và của các vị thánh. Các ảnh tượng vẫn c̣n được tôn kính tại Ukraina, Byelorussia và ở Nga dưới nhiều tước hiệu khác nhau; Những ảnh tượng này đă chứng kiến ḷng tin và tinh thần cầu nguyện của các dân tộc mà họ cảm thấy sự hiện diện và sự che chở của Mẹ Thiên Chúa. Trong các ảnh tượng này, Đức Trinh Nữ sáng chói như phản ánh vẻ đẹp Thiên Chúa, như ngài ṭa của Đấng khôn ngoan hằng hữu, như h́nh ảnh người cầu nguyện, gương mẫu của chiêm niệm, h́nh ảnh của vinh quang. Đức Mẹ, ngay từ khi c̣n sống ở trần gian, đă chiếm được sự hiểu biết thiêng liêng mà lư luận loài người không thể đạt tới được và Mẹ đă đạt được sự hiểu biết cao siêu nhờ đức tin. Tôi cũng muốn nhắc lại h́nh ảnh của Đức Trinh Nữ tại nhà Tiệc Ly, đang cầu nguyện với các Tông đồ để chờ đợi Chúa Thánh Linh: Tại sao Đức Mẹ lại không trở nên dấu hiệu hy vọng cho những ai mong ước tiến sâu vào sự tuân phục đức tin khi đối thoại với người anh em? 34. Lời ca tụng phong phú như vậy được tập hợp lại dưới nhiều h́nh thức khác nhau trong truyền thống cao cả của Giáo hội có thể giúp chúng ta tiến gấp tới ngày mà Giáo hội có thể bắt đầu một lần nữa hô hấp với hai “lá phổi” đầy đủ Đông và Tây. Như Tôi đă quả quyết nhiều lần, việc hiệp nhất Đông Tây ngày nay trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đó cũng là một trợ giúp hữu hiệu để xúc tiến việc đối thoại đang diễn ra giữa Giáo hội Công giáo và các Giáo hội, cũng như các Cộng đoàn Giáo hội ly khai Tây phương (86). Nó cũng là phương thế để Giáo hội lữ hành hát lên và sống một cách trọn hảo bài ca Ngợi Khen (Magnificat) của Đức Mẹ.
3. Kinh “Magnificat” Của Giáo Hội Lữ Hành 35. Trong giai đoạn lữ hành hiện tại, Giáo hội cố gắng t́m lại sự hợp nhất của những người tin vào Chúa Kitô để bày tỏ ḷng vâng phục Ngài là Đấng trước ngày thụ nạn, đă cầu nguyện cho sự hiệp nhất này. “Lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa, Giáo hội rao truyền cái chết và Thập giá Chúa Kitô cho đến khi Ngài lại đến”. (87) “Tiến bước giữa thử thách và đau thương, Giáo hội được vững mạnh nhờ quyền lực ơn thánh mà Chúa Giêsu đă hứa ban, hầu Giáo hội vẫn hoàn toàn trung tín, sống như một Hiền Thê xứng đáng của Chúa ḿnh, dầu xác thịt yếu hèn và không ngừng tự đổi mới dưới tác động của Chúa Thánh Linh, cho đến ngày đạt tới ánh sáng không hề tắt nhờ Thập giá”. (88) Đức Mẹ Đồng Trinh luôn hiện diện trong cuộc hành tŕnh đức tin của Dân Chúa tiến về ánh sáng. Điều này được chứng tỏ cách đặc biệt trong bài ca Magnificat, bài ca đă trào tràn từ đức tin sâu thẳm của Đức Mẹ trong ngày Thăm Viếng, và không ngừng vang dội trong tâm hồn Giáo hội qua các thế kỷ. Bài ca này được ca lên hằng ngày trong phụng vụ giờ Kinh Chiều, và nhiều lúc khác do ḷng sùng mộ cá nhân và cộng đoàn. “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa. Và tâm trí tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc tôi. V́ Chúa đă đoái nh́n thân phận mọn hèn tớ nữ Người. Từ nay, thiên hạ muôn đời sẽ khen tôi có phúc. V́ Chúa toàn năng đă làm cho tôi, những điều cao cả và danh Ngài là Thánh. Ḷng nhân hậu Chúa lan tràn từ thế hệ này sang thế hệ khác trên những ai kính sợ Chúa. Chúa đă ra oai sức mạnh cánh tay Ngài làm tán loạn lũ ḷng trí kiêu căng. Chúa đă hạ kẻ quyền thế khỏi ngôi báu và nâng người hèn mọn lên. Chúa đă cho người đói khó dư đầy sự lành và để người giầu có về tay không. Chúa đă đáp cứu Israel tôi tớ Chúa bởi nhớ lại ḷng thương xót Chúa. Như Chúa đă phán với Tổ phụ chúng ta với Abraham và ḍng dơi ông đến muôn đời.” (Lc.1,46-55) 36. Khi bà Elisabeth mừng cô em họ vừa từ Nazareth tới, Đức Mẹ Maria đă đáp lại bằng bài ca Ngợi Khen. Trong lời chào, trước hết bà Elisabeth gọi Đức Maria là “có phúc” v́ “Con đang được cưu mang trong ḷng Mẹ” và rồi gọi Đức Mẹ là “có phúc” v́ đức tin của Mẹ. (Lc.1,42-45). Cả hai lời chúc phúc này liên quan trực tiếp tới thời điểm Truyền Tin. Vậy th́, vào ngày Thăm Viếng, khi lời chào mừng của bà Elisabeth làm chứng cho thời điểm tột đỉnh đó, đức tin của Đức Mẹ Maria càng trở nên ư thức hơn cả và được diễn tả với h́nh thức mới. Điều được ẩn giấu trong thầm kín thâm sâu của sự “vâng phục bằng đức tin” trong ngày Truyền Tin, th́ giờ đây có thể nói bùng lên như ngọn lửa sáng ngời, sinh động của thần trí. Những lời Đức Mẹ nói lên tại ngưỡng cửa nhà bà Elisabeth, là lời tuyên xưng đức tin được linh ứng, trong đó Mẹ đă trả lời cho Lời Chúa mặc khải bằng sự hiến dâng thiêng liêng đầy thi hứng toàn thân ḿnh cho Thiên Chúa. Trong những lời diễn tả siêu việt trên, vừa đơn sơ, vừa đầy thần hứng của những đoạn sách thánh thuộc dân tộc Israel (89), chúng ta thấy chiếu sáng kinh nghiệm sống bản thân của Mẹ và thấy tâm hồn Mẹ xuất thần đắm say. Từ các từ ngữ ấy lóe ra tia sáng của mầu nhiệm Thiên Chúa, vinh quang thánh thiện vô song và t́nh yêu muôn thuở đă du nhập vào lịch sử loài người như một hồng ân bất diệt. Đức Mẹ Maria là người đầu tiên được thông phần vào mặc khải mới này của Thiên Chúa và trong cùng một mặc khải, Mẹ được thông phần vào trong sự tự hiến thân mới của Thiên Chúa. V́ thế Đức Mẹ đă tuyên bố: “V́ Đấng toàn năng đă làm cho tôi những điều cao trọng, danh Ngài là thánh”. Lời ca tụng của Đức Mẹ bộc lộ tất cả niềm vui khôn tả của tâm hồn: “Tâm trí tôi hân hoan trong Chúa, Đấng cứu chuộc tôi”. Quả thực: “Chân lư thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con người được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng trung gian, đồng thời là sự viên măn của toàn thể mặc khải” (90). Trong niềm hoan hỉ, Đức Mẹ Maria đă thú nhận rằng Mẹ thấy ḿnh ở trong chính trung tâm của sự viên măn Chúa Kitô. Đức Mẹ ư thức lời hứa cùng Tổ phụ, trước tiên “cho Abraham và ḍng dơi người đến muôn đời” đang được hoàn thành ở nơi Mẹ. V́ thế, Đức Mẹ nhận thấy tất cả nhiệm cục cứu rỗi đều quy hướng về chính ḿnh là Mẹ Chúa Kitô, trong nhiệm cục này, Thiên Chúa của Giao ước, Đấng hằng “nhớ lại ḷng thương xót của Người” đă tỏ ḿnh cho chúng ta “từ thế hệ này sang thế hệ khác”. 37. Giáo hội ngay từ phôi thai đă điều chỉnh cuộc hành tŕnh trần gian của ḿnh theo cuộc hành tŕnh của Mẹ Thiên Chúa và không ngừng lặp lại theo Mẹ lời ca Magnificat. Từ đức tin sâu thẳm của Đức Trinh Nữ trong ngày Truyền Tin và ngày Thăm Viếng, Giáo hội t́m thấy chân lư về Thiên Chúa của lời Giao ước: Thiên Chúa là Đấng toàn năng đă làm “những việc kỳ diệu” cho nhân loại “danh Ngài là thánh”. Trong bài ca Magnificat, Giáo hội nh́n thấy cái tội xuất hiện ngay từ khởi đầu lịch sử con người trần thế, cái tội “cứng ḷng tin” và “yếu đức tin” đối với Thiên Chúa, đă bị diệt trừ tận gốc rễ. Đối ngược với “nghi ngờ” mà “cha sự dối trá” đă gieo vào ḷng bà Evà, người nữ tiên khởi. Đức Mẹ Maria, là người theo truyền thống được gọi là “Evà mới” (91) và là “Mẹ thật của kẻ sống” (92) đă can đảm công bố chân lư chói sáng về Thiên Chúa: về Thiên Chúa chí thánh toàn năng, Đấng tự khởi thủy là nguồn mạch mọi ơn phúc, Đấng “đă làm những việc kỳ diệu” nơi Đức mẹ cũng như khắp vũ trụ. Khi sáng tạo, Thiên Chúa đă cho mọi vật hiện hữu. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đă ban cho con người phẩm giá h́nh ảnh Ngài và giống Ngài một cách đặc biệt so sánh với các thụ tạo trần thế khác. Hơn nữa, v́ muốn trao ban, Thiên Chúa đă tự ban chính ḿnh trong Người Con của Ngài, bất kể tội lỗi loài người: “Thiên Chúa đă quá yêu thương thế gian, đến nỗi ban Con một ḿnh” (Ga.3,16). Đức Mẹ Maria là chứng nhân tiên khởi của chân lư kỳ diệu này, chân lư mà Con của Mẹ sẽ hoàn tất qua “các hành động và ngôn từ Ngài” (Cv.1,1), cuối cùng qua Thánh giá và Phục sinh của Ngài. Dù ở giữa mọi thử thách và gian lao, Giáo hội nhờ quyền lực chân lư của Chúa nâng đỡ, không ngừng lặp lại với Mẹ Maria những lời trong ca vịnh Magnificat, những lời ca vịnh đầy chân lư được tuyên đọc cách đơn giản lạ thường trong dịp đó. Đồng thời, nhờ chân lư này về Thiên Chúa, Giáo hội ước ao chiếu sáng trên những bước đường khó khăn, có khi đầy trắc trở của cuộc sống con người nơi trần thế. Bởi đó, trong cuộc hành tŕnh tiến tới gần cuối Đệ nhị Thiên niên kỷ Kitô giáo, Giáo hội để hết tâm trí vào việc được ủy thác làm mới lại sứ mạng của ḿnh. Ḷng ưu ái của Giáo hội dành cho người nghèo đă được ghi khắc một cách kỳ diều trong bài ca Magnificat của Mẹ Maria. Thiên Chúa của Giao ước được Đức Trinh Nữ thành Nazareth tán dương trong tâm trí hoan hỉ, cũng là Đấng “đă hạ kẻ quyền thế khỏi ngôi báu, và nâng người hèn mọn lên…đă cho người đói khó no đầy sự lành, để người giàu có trở về tay không…làm tán loạn kẻ kiêu căng ḷng trí…và ḷng nhân hậu của Chúa có từ thế hệ này qua thế hệ khác trên những ai kính sợ Ngài”. Đức Mẹ Maria đă thấm nhuần sâu đậm tinh thần “người nghèo của Thiên Chúa”, theo lời kinh Thánh Vịnh, họ là những người đợi trông ơn cứu độ nơi Thiên Chúa và đặt hết ḷng tin tưởng vào Ngài” (Tv.25,31;35,55). Đức Mẹ Maria thực sự loan báo ngày “Đấng Thiên Sai của người nghèo” (Is.11,4;61,1). Kín múc từ ḷng Đức Maria từ đức tin sâu thằm của Mẹ được biểu lộ trong những lời thuộc ca vịnh Magnificat, Giáo hội luôn làm mới lại trong chính ḿnh một cách có hiệu lực sự nhận thức rằng: không thể tách rời chân lư về Thiên Chúa Đấng Cứu Độ, chân lư về Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ân phúc, ra khỏi t́nh yêu biệt đăi của Ngài đối với người nghèo khó và khiêm hạ, mối t́nh này đă được ca tụng trong ca vịnh Magnificat, sau này được biểu lộ trong lời nói và việc làm của Chúa Giêsu. Như thế, Giáo hội nhận thức – và trong thời gian hiện tại, nhận thức này thật là sâu sắc đặc biệt – rằng, chẳng những hai yếu tố của sứ điệp này hàm chứa trong ca vịnh Magnificat không thể được tách rời ra, mà c̣n có nhiệm vụ bảo toàn cách cẩn thận tầm quan trọng của “người nghèo” trong lời Chúa hằng sống. Đây là những vấn đề và những câu hỏi có quan hệ mật thiết với ư nghĩa Kitô giáo về tự do và giải phóng. “Mẹ Maria đă hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa và hướng trọn về Ngài, và, sát cạnh Con ḿnh, Đức Mẹ Maria là h́nh ảnh tuyệt hảo của tự do và giải phóng của con người và vũ trụ. Chính người là Mẹ, là gương mẫu mà Giáo hội phải nh́n ngắm để hiểu đầy đủ ư nghĩa của sứ mệnh riên ḿnh”. (93)
PHẦN III SỰ TRUNG GIAN TỪ MẪU
1. Đức Maria, Nữ Tỳ Của Chúa 38. Cùng với thánh Phaolô, Giáo hội hiểu biết và dạy rằng: Chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất: “V́ chỉ có một Thiên Chúa, và chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và nhân loại: đó là Con Người Giêsu Kitô đă tự hiến ḿnh làm giá chuộc mọi người” (ITim.2,5-6). “Vai tṛ làm Mẹ của Đức Maria đối với loài người không làm lu mờ hay giảm bớt vai tṛ trung gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào, trái lại c̣n làm sáng tỏ mănh lực của sự trung gian ấy” (94). Đó là sự trung gian trong Chúa Kitô. Giáo hội hiểu biết và dạy rằng: “Tất cả những ảnh hưởng có sức cứu rỗi của Đức Trinh Nữ trên nhân loại, phát sinh từ ư định nhân lành của Thiên Chúa và bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô. Ảnh hưởng ấy nương tựa và hoàn toàn tùy thuộc và sự trung gian của Chúa Kitô, nguồn phát sinh tất cả ảnh hưởng đó. Ảnh hưởng này không cản trở ǵ, trái lại c̣n giúp đỡ các tín hữu kết hợp trực tiếp với Chúa Kitô” (95). Ảnh hưởng cứu độ này được Chúa Thánh Linh phù trợ: như Ngài vừa mới bao phủ Đức Trinh Nữ Maria khi khởi sự trong Mẹ thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, th́ Ngài cũng luôn luôn hỗ trợ sự ưu ái của Mẹ đối vói các anh chị em của Con Mẹ. Thực ra, sự trung gian cầu bầu của Đức Mẹ Maria liên quan mật thiết với chức làm mẹ của Người, nó có tính cách đặc biệt mẫu tử, khiến nó khác hẳn sự trung gian của các tạo vật khác, các thụ tạo này, một cách khác nhau nhưng luôn luôn tùy thuộc, cũng được thông phần vào sự trung gian của Chúa Kitô. Như thế, sự trung gian của Đức Mẹ Maria cũng là sự trung gian thông phần (96). V́, nếu “không bao giờ có thể đặt một tạo vật ngang hàng với Ngôi Lời Nhập Thể và Cứu Chuộc” đồng thời “sự trung gian duy nhất của Chúa Cứu Thế không những không loại bỏ mà c̣n khuyến khích các thụ sinh cộng tác trong sự tùy thuộc vào nguồn mạch duy nhất”, và như thế “sự tốt lành duy nhất của Thiên Chúa được ban phát nhiều cách cho các tạo vật của Ngài”. (97) Giáo huấn Công đồng Vaticanô II tŕnh bày chân lư về trung gian của Đức Mẹ Maria như “một sự thông phần vào nguồn mạch duy nhất là sự trung gian của chính Chúa Kitô. Chúng ta hăy đọc: “Giáo hội không ngần ngại tuyên xưng vai tṛ tùy thuộc ấy của Đức Mẹ Maria. Giáo hội thường cảm nghiệm được và nhắn nhủ các tín hữu ghi nhớ vai tṛ ấy trong ḷng để nhờ Mẹ nâng đỡ và phù hộ, họ gắn bó mật thiết hơn với Đấng Trung Gian và Cứu Thế” (98). Vai tṛ này vừa đặc biệt vừa phi thường. Nó xuất phát từ chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Mẹ và nó chỉ có thể hiểu và sống trong đức tin trên nền tảng chân lư đầy đủ của thiên chức hiền mẫu này. V́ được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Người Con đồng bản tính với Đức Chúa Cha, và làm “cộng sự viên quảng đại” trong công cuộc cứu chuộc, “Đức Maria là Mẹ thật chúng ta trên b́nh diện ân sủng” (99). Vai tṛ này đă tạo nên một tầm mức thực tại cho sự hiện diện của Đức Mẹ trong mầu nhiệm cứu chuộc của Chúa Kitô và Giáo hội. 39. Từ quan điểm này, một lần nữa chúng ta phải khảo sát biến cố căn bản của chương tŕnh cứu rỗi, nghĩa là Ngôi Lời Nhập Thể, vào thời điểm Truyền Tin. Đức Mẹ Maria khi nhận biết ư muốn của Đấng Tối Cao trong lời truyền tin của Thiên sứ và tỏ ḷng tuân phục quyền năng của Thiên Chúa, Mẹ thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ thần truyền” (Lc.1,38), thái độ này thật là ư nghĩa. Giây phút đầu tiên tùng phục sự trung gian “giữa Thiên Chúa và loài người”, trung gian của Chúa Giêsu Kitô, chính là việc chấp nhận thiên chức làm Mẹ của Đức Trinh Nữ thành Nazareth. Đức Mẹ Maria đồng thuận sự tuyển chọn của Thiên Chúa để nhờ quyền phép của Chúa Thánh Linh, trở thành Mẹ Con Thiên Chúa. Có thể nói việc đồng thuận này, trên tất cả, là thành quả của việc Mẹ hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa trong đức đồng trinh, Đức Mẹ Maria đă chấp nhận việc tuyển chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa, được hướng dẫn bởi t́nh yêu “hiền thê” đă “tận hiến” toàn thể một con người thụ tạo cho Thiên Chúa. V́ t́nh yêu này Đức Mẹ Maria đă ước ao dâng hiến cho Thiên Chúa luôn luôn và trong hết mọi sự bằng cuộc sống khiết trinh. Những lời: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa” có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên, Đức Mẹ đă đón nhận và hiểu rơ thiên chức làm mẹ là một sự hiến trọn toàn thân, một sự dâng hiến chính ḿnh để phục vụ chương tŕnh cứu rỗi của Đấng Tối Cao. Và suốt cuộc đời làm mẹ, để thông phần vào cuộc sống Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ, Đức Maria đă sống cho đến giây phút cuối cùng một cách đúng với ơn gọi đức đồng trinh của Mẹ. Thiên chức làm mẹ của Đức Maria hoàn toàn thấm nhập thái độ hiền thê như “nữ tỳ Thiên Chúa’, đă cấu thành chiều hướng thứ nhất và căn bản của sự trung gian mà Giáo hội tuyên xưng và loan truyền để tôn vinh Đức Mẹ (100), và Giáo hội luôn “gửi gắm vào ḷng các tín hữu”, từ khi Giáo hội đặt hết niềm tin nơi Mẹ. Cần phải công nhận rằng trước bất cứ ai, chính Thiên Chúa là Cha hằng hữu đă tín thác vào Đức Trinh Nữ thành Nazareth khi ban Con Một ḿnh cho Mẹ trong mầu nhiệm Nhập Thể. Việc Mẹ được tuyển chọn vào chức vụ cao cả và phẩm chức làm Mẹ Con Thiên Chúa, trên b́nh diện bản thể, thuộc về chính thực tại của sự hợp nhất hai bản tính trong cá vị Ngôi Lời (Ngôi Hiệp). Sự kiện căn bản làm Mẹ Con Thiên Chúa, từ chính giây phút khởi đầu, là hoàn toàn mở rộng ḷng ra cho Ngôi vị Chúa Kitô, cho tất cả công cuộc và sứ mệnh của Ngài. Những lời “này tôi là nữ tỳ của Chúa” chứng tỏ sự cởi mở tâm hồn của Đức Mẹ Maria: Mẹ liên kết trong ḿnh một cách trọn hảo ḷng quư trọng đức trinh khiết và ḷng yêu thương đặc biệt của t́nh mẫu tử. Hai t́nh yêu này như nối kết và tan ḥa vào nhau. Do đó, Đức Maria không những là “Mẹ dưỡng nuôi” Con Người, mà cũng là “cộng sự viên độc nhất cao cả” (101) của Đấng Thiên Sai và Cứu Thế. Như Tôi đă nói: Đức Mẹ đă tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin và trong chính cuộc lữ hành này cho tới chân Thập giá. Mẹ đă hoàn thành sự Đồng Công của Mẹ một lượt với toàn thể sứ mạng Chúa Cứu Thế bằng việc làm và nỗi đau thương của Mẹ. Suốt theo cuộc hành tŕnh cộng tác với công cuộc của Con Mẹ là Đấng Cứu Thế, chính thiên chức hiền mẫu của Đức Maria đă phải chịu một cuộc biến đổi cách đặc biệt, khi ngày càng thấm nhiễm “đức ái nồng nhiệt” đối với tất cả những người hưởng nhờ sứ mệnh Chúa Kitô. Nhờ “đức ái nồng nhiệt” và kết hợp với Chúa Kitô nhằm phục hồi “sự sống siêu nhiên cho các linh hồn” (102). Đức Mẹ Maria, theo đường lối riêng của ḿnh, đă gia nhập sự trung gian của Chúa Giêsu Kitô làm người. Nếu Mẹ là người đầu tiên đă cảm nghiệm nơi chính ḿnh những hiệu quả siêu nhiên của sự trung gian duy nhất này – trong ngày Truyền Tin, Mẹ được chào mừng là “Đấng đầy ơn” – th́ chúng ta phải nói rằng, qua việc đầy ơn phúc và đời sống siêu nhiên, Đức Mẹ đă được đặc biệt chuẩn bị để cộng tác với Chúa Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất của việc cứu chuộc nhân loại. Và sự hợp tác này chính là vai Tṛ Trung Gian tùy thuộc vào sự trung gian của Chúa Kitô. Trong trường hợp của Đức Mẹ Maria, chúng ta có một sự trung gian đặc biệt và ngoại thường dựa trên sự “đầy ơn phúc” của Mẹ, đă được biểu lộ trong sự hoàn toàn tự nguyện làm “nữ tỳ của Chúa”. Đáp lại sự tự nguyện nội tâm của Mẹ ḿnh, Chúa Giêsu Kitô đă chuẩn bị cho Đức Maria trở thành “Mẹ của mọi người trên b́nh diện ân sủng”. Điều này đă được tŕnh bày ít là cách gián tiếp trong một số chi tiết ghi trong Phúc âm Nhất Lăm (Lc.11,28; 8.20-21; Mc.3,32-35; Mt.12,47-50) và nhất là trong Phúc âm thánh Gioan (Ga.2,1-12; 19,25-27) mà Tôi đă đề cập đến. Những lời Chúa Giêsu phán với Đức Mẹ và thánh Gioan trên cây Thập giá thật rất hùng hồn về ư nghĩa này. 40. Sau những biến cố Phục sinh và Thăng Thiên, Đức Mẹ Maria đă vào nhà Tiệc Ly cùng với các Tông đồ mong đợi Chúa Thánh Linh Hiện Xuống, và Đức Mẹ đă hiện diện đó với tư cách là Mẹ Chúa vinh quang. Không những Mẹ là Đấng đă “tiến bước trên đường lữ hành đức tin” và trung thành hợp nhất với Con “cho đến chân Thập giá”, mà Mẹ cũng c̣n là “Nữ tỳ của Chúa” được Chúa Con lưu lại làm Mẹ giữa ḷng Giáo hội sơ khai: “Đây là Mẹ con”. Như thế, mối dây liên lạc giữa Đức Mẹ và Giáo hội đă bắt đầu triển nở. V́ Giáo hội sơ khai là kết quả của Thập giá và Phục sinh của Con Mẹ. Đức Mẹ Maria, Đấng, ngay từ đầu đă hiến toàn thân không chút đắn đo cho Con và cho công việc của Con, lẽ tất nhiên không thể không hiến dâng t́nh hiền mẫu cho Giáo hội ngay từ buổi sơ khai. Sau khi Con Mẹ về trời, địa vị hiền mẫu của Mẹ vẫn ở lại trong Giáo hội như một người Mẹ Trung Gian: Mẹ bầu cử cho tất cả đoàn con, Mẹ cộng tác vào công cuộc cứu rỗi của Con là Đấng Cứu Chuộc trần gian. V́ thế, Công đồng đă dạy: “Thiên chức hiền mẫu của Đức Maria trên b́nh diện ân sủng…sẽ không chấm dứt cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn” (103). Nhờ cái chết cứu chuộc của Con Mẹ, vai tṛ Trung Gian Hiền Mẫu của người nữ tỳ Thiên Chúa đă đạt tới tầm mức hoàn vũ, v́ công cuộc cứu chuộc bao gồm toàn thể nhân loại. Như thế, hiệu lực sự trung gian duy nhất và đại đồng của Chúa Kitô “giữa Thiên Chúa và loài người” được biểu lộ một cách đặc biệt. Sự cộng tác của Đức Mẹ Maria với tính cách tùy thuộc, nhưng thông phần vào sự Trung Gian phổ quát của Chúa Cứu Thế là Đấng Trung Gian duy nhất. Điều này đă được Công đồng tŕnh bày rơ rệt trong những lời trích dẫn ở trên. Công đồng nói tiếp: “Sau khi về trời, Đức Mẹ không chấm dứt vai tṛ cứu độ này, nhưng bằng nhiều cách, Mẹ luôn tiếp tục cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời” (104). Với tính cách cầu bầu này đă được thể hiện lần đầu tại Cana xứ Galilê, vai tṛ Trung Gian của Đức Mẹ Maria vẫn tiếp tục trong lịch sử Giáo hội và thế giới. Công đồng thêm về Đức Mẹ: “Với t́nh mẹ hiền âu yếm, Đức Mẹ chăm sóc những anh chị em của Con Mẹ đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao nguy hiểm thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời” (105). Như thế, thiên chức hiền mẫu của Đức Mẹ Maria tiếp tục không ngừng trong Giáo hội như vai tṛ Trung Gian cầu bầu. Và Giáo hội diễn tả đức tin về chân lư này bằng những lời khẩn cầu Đức Mẹ dưới tước hiệu: “Trạng sư, Vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ, và Đấng Trung Gian”. (106) 41. Qua sự trung gian của Đức Mẹ, tùy thuộc và sự trung gian Chúa Cứu Thế, Mẹ Maria góp phần cách đặc biệt vào việc hiệp nhất Giáo hội lữ hành trên dương thế với thực tại cánh chung và thiên quốc của mầu nhiệm các Thánh Cùng Thông Công, v́ “Mẹ đă được về trời” (107). Chân lư về Đức Mẹ Lên Trời Hồn Xác đă được Đức Piô XII định tín và Công đồng Vaticanô II tái xác nhận, diễn tả niềm tin của Giáo hội: “Được ǵn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm đă được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con ḿnh, trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (Kh.19,16), Đấng đă chiến thắng tội lỗi và sự chết” (108). Giáo huấn Đức Piô XII đă tiếp nối Thánh Truyền và được diễn tả bằng nhiều h́nh thức, suốt trong lịch sử Giáo hội Đông cũng như Tây. Do mầu nhiệm Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tất cả những hiệu quả nhờ sự trung gian duy nhất của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc thế gian và là Chúa Phục Sinh, đă hoàn thành rơ rệt nơi Đức Mẹ Maria: “Trong Đức Kitô, mọi người cũng sẽ được tái sinh. Nhưng ai theo thứ tự nấy, trước tiên là Đức Kitô, hoa quả đầu mùa, tiếp đến những kẻ thuộc về Chúa Kitô khi Ngài trở lại” (ICor.15,22-23). Đức tin của Giáo hội được biểu lộ trong mầu nhiệm Mông Triệu, theo đó, Đức Mẹ Maria được liên kết với Chúa Kitô bằng “mối dây mật thiết và bền chặt”, v́ nếu là Trinh Nữ và là Mẹ, Đức Mẹ Maria được kết hợp đặc biệt với Chúa Kitô khi Ngài đến lần thứ nhất, như vậy, nhờ việc đồng công liên tục với Chúa, Đức Mẹ sẽ được kết hợp với Ngài khi trông đợi Chúa đến lần thứ hai: “Được cứu chuộc cách kỳ diệu hơn nhờ công nghiệp của Con ḿnh” (109), Đức Mẹ cũng đóng vai tṛ hiền mẫu làm trung gian ḷng thương xót khi Chúa đến lần cuối cùng, khi mà tất cả những ai thuộc về Chúa Kitô “sẽ được sống lại”, và “địch thù cuối cùng là sự chết bị hủy diệt” (Icor.15,26) (110). Mầu nhiệm vinh quang đời đời của Đức Mẹ được liên kết với việc tán dương “Con Gái ưu tú thành Sion” (111) bằng đặc ân Lên Trời cả Hồn lẫn Xác. Bởi v́ Mẹ Chúa Kitô được tôn vinh làm “Nữ Vương Vũ Trụ” (112). Đức Mẹ, Đấng đă tự nhận ḿnh là “Nữ tỳ của Chúa” ngày Truyên Tin; trong cuộc sống trần gian, vẫn c̣n trung thành với điều mà tên Mẹ diễn tả. Về điều này, Đức Mẹ đă xác quyết rằng Mẹ thật là “môn đệ” Chúa Kitô, Đấng đă nhấn mạnh rằng sứ mệnh của Ngài là phục vụ: “Con Người đến không đển được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc muôn người” (Mt.20,28). V́ thế Đức Mẹ Maria đă trở nên người đầu tiên trong số những người “phục vụ Chúa Kitô nơi tha nhân, họ khiêm nhường và kiên nhẫn dẫn đưa anh em ḿnh đến cùng Đức Vua, Đấng mà phụng sự Ngài là thống trị” (113), và Đức Mẹ đă đạt được trọn vẹn “trạng thái tự do vương giả” thích hợp với các môn đệ Chúa Kitô: phục vụ Chúa là cai trị! “Đức Kitô đă vâng phục cho đến chết…v́ thế Thiên Chúa Cha đă tôn vinh Ngài” (Pl.2,6-11), rồi Ngài đă vào vinh quang Nước Ngài. “Mọi sự phải suy phục Ngài cho tới khi chính Ngài cùng mọi tạo vật suy phục Đức Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả trong mọi người” (ICor.15,27-28) (114). Đức Mẹ Maria, “Nữ tỳ của Chúa” đă thông phần trong Vương quốc của Chúa Con. (115). Vinh dự được phục vụ luôn không ngừng là nỗi hân hoan vĩ đại của Đức Mẹ: đă về trời, Đức Mẹ không ngừng công cuộc phục vụ cứu rỗi, là vai tṛ Trung Gian Hiền Mẫu của Mẹ, “cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn” (116). Như vậy, Đức Mẹ khi c̣n ở trần gian, “đă trung thành kết hợp với Con ḿnh cho tới cây Thập giá”, th́ Mẹ cũng tiếp tục kết hợp với Ngài, khi mà muôn vật suy phục Ngài cho tới khi chính Ngài và muôn vật suy phục Đức Chúa Cha”. Như thế, khi về trời, Đức Mẹ Maria như được bao phủ bởi thực tại các Thánh Cùng Thông Công và sự kết hợp với Con trong vinh quang, để hoàn toàn hướng về sự hoàn thành viên măn của Nước Trời, khi “Thiên Chúa sẽ là tất cả trong tất cả”. Cũng trong giai đoạn này, vai tṛ Trung Gian Từ Mẫu của Đức Mẹ Maria vẫn không ngừng tùy thuộc vào Đấng là Trung Gian duy nhất cho tới khi “thời gian viên măn” được thực hiện cuối cùng, nghĩa là cho đến ngày “Mọi sự được liên kết trong Chúa Kitô” (Eph.1,10). 2. Đức Mẹ Maria, Trong Đời Sống Giáo Hội và Mỗi Kitô Hữu 42. Công đồng Vaticanô II đă dựa vào Thánh Truyền để rọi lên một ánh sáng mới về vai tṛ của Mẹ Chúa Kitô trong đời sống Giáo hội, “Đức Trinh Nữ Maria nhờ ơn huệ và vai tṛ làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con là Đấng Cứu Chuộc cũng nhờ các ơn và nhiệm vụ đặc biệt khác, Mẹ c̣n kết hợp mật thiết với Giáo hội: “Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực cho Giáo hội trên b́nh diện đức tin, đức ái và hợp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô” (117). Chúng ta đă thấy ở trên, ngay từ ban đầu, Đức Mẹ Maria đă ở lại với các Tông đồ để mong đợi Chúa Thánh Linh hiện xuống và như “Người có phúc v́ đă tin”, Mẹ hiện diện ở giữa Giáo hội lữ hành từ thế hệ này sang thế hệ khác và như gương mẫu của niềm hy vọng không làm ai thất vọng (Rm.5,5). Đức Mẹ Maria đă vững tin vào những ǵ Chúa đă phán với Đức Mẹ đều được thực hiện. Là một Trinh Nữ, Đức Mẹ tin rằng ḿnh sẽ chịu thai và sinh một người con là “Đấng Thánh”, là “Con Thiên Chúa”, có tên là Giêsu (Thiên Chúa Cứu Chuộc). Là Nữ tỳ của Chúa, Mẹ hoàn toàn trung tín với ngôi vị và sứ mệnh của Người Con này. Là Mẹ, “bởi ḷng tin và vâng phục, Mẹ đă sinh chính Con Chúa Cha nơi trần gian mà không hề biết đến người nam, nhưng được Chúa Thánh Linh bao phủ. (118) V́ những lư do này, Đức Mẹ Maria “được Giáo hội tôn vinh và đặc biệt sùng kính. Thực vậy, từ những thời rất xa xưa, Đức Nữ Trinh đă được tôn kính dưới tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, và các tín hữu đă khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ trong cơn gian nan khốn khó (119). Sự tôn sùng này hoàn toàn đặc biệt: nó chứa đựng và biểu lộ mối liên kết sâu xa giữa Mẹ Chúa Kitô và Giáo hội” (120). Là Trinh Nữ và Mẹ, Đức Maria là “gương mẫu thường xuyên” cho Giáo hội. V́ thế, đặc biệt dưới khía cạnh này, nghĩa là dưới khía cạnh gương mẫu, hay đúng hơn khía cạnh “h́nh ảnh”, có thể nói Đức Mẹ Maria hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô, th́ cũng luôn luôn hiện diện trong mầu nhiệm Giáo hội. V́ Giáo hội cũng “được gọi là Mẹ và Trinh Nữ”, những danh xưng này có bằng chứng uyên thâm trong Thánh Kinh và Thần học. (121). 43. Giáo hội “tự trở nên người mẹ bởi trung thành lănh nhận lời Thiên Chúa” (122). Như Đức Mẹ Maria là người đă tin trước hết v́ đón nhận lời Chúa mặc khải ngày Truyền Tin và Mẹ vẫn trung thành với lời đó trong mọi thử thách Mẹ chịu cho đến cây Thập giá, cũng thế, Giáo hội trở nên Mẹ khi trung thành lănh nhận lời Thiên Chúa “nhờ việc rao giảng và ban phép rửa, Giáo hội sinh hạ những người con được thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Linh và sinh ra do Thiên Chúa để họ lănh nhận một đời sống mới và bất diệt” (123). Đặc tính “làm mẹ” của Giáo hội đă được thánh Tông đồ dân ngoại diễn tả một cách sinh động khi ngài viết: “Hỡi các con bé nhỏ của cha, v́ các con, cha lại phải chịu đau khổ cho đến khi Chúa Kitô thành h́nh trong các con” (Gal.4,19). Những lời này của thánh Phaolô chứa đựng một dấu hiệu hứng thú cho thấy Giáo hội sơ khai đă ư thức được vai tṛ làm mẹ của ḿnh liên kết với sứ vụ Tông đồ giữa nhân loại. Sự nhận thức này đă cho và c̣n cho phép Giáo hội nh́n nhận mầu nhiệm cuộc sống và sứ mệnh ḿnh, bắt chước gương mẫu Mẹ của Người Con “là Anh Trưởng giữa nhiều anh em” (Rm.8,29) Có thể nói: Giáo hội cũng học được nơi Đức Maria tư cách làm mẹ của ḿnh: Giáo hội nhận thức chiều hướng mẫu tử của ơn gọi ḿnh, một ơn gọi gắn liền với bản tính bí tích bằng cách “chiêm ngưỡng sự thánh thiện huyền diệu của Đức Maria cũng như trung thành chu toàn thánh ư Chúa Cha”. (124). Nếu Giáo hội là dấu chỉ và là phương tiện kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, th́ cũng do tính cách làm mẹ, bởi v́ tiếp nhận sự sống từ Chúa Thánh Linh, Giáo hội “sinh sản” các con cái loài người cho cuộc sống mới trong Chúa Kitô. V́ cũng như Đức Mẹ Maria phục vụ cho mầu nhiệm Nhập Thể, Giáo hội cũng phục vụ cho mầu nhiệm nhận làm nghĩa tử trong ơn thánh. Cũng vậy, theo gương Đức Mẹ Maria, Giáo hội vẫn là trinh nữ trung tín với hiền phu: “Giáo hội cũng là trinh nữ đă giữ ǵn toàn vẹn và tinh tuyền ḷng trung nghĩa đă hiến cho Phu Quân” (125). V́ Giáo hội là Hiền Thê của Chúa Kitô như đă tỏ rơ trong các Thư trong Khải Huyền Thư của thánh Gioan: “Hiền Thê của Con Chiên” (Kh.21,9). Nếu Giáo hội với tư cách một hiền thê “giữ ḷng trung thành đă thệ ước với Chúa Kitô”, th́ ḷng trung tín này đă trở thành h́nh ảnh cuộc sống hôn nhân, theo giáo huấn của thánh Tông đồ (Eph.5,23-33), lại cũng có giá trị như gương mẫu sự tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa” (Mt.19,11-12; IICor.11,2). Chính đức trinh khiết này, theo gương Đức Trinh Nữ thành Nazareth, là nguồn mạch sinh sản hoa trái thiêng liêng đặc biệt: đó là nguồn mạch của thiên chức làm mẹ trong Chúa Thánh Linh. Nhưng Giáo hội cũng giữ ǵn đức tin đă lănh nhận từ Chúa Kitô. Theo gương Đức Mẹ Maria, Đấng đă giữ lại và suy niệm trong ḷng tất cả những ǵ liên hệ đến Con Chí Thánh ḿnh (Lc.2,19-51). Giáo hội được ủy thác giữ Lời Chúa và cố đào sâu những phong phú chứa đựng trong các lời ấy một cách khôn ngoan và sáng suốt, để là chứng nhân trung thành cho lời đó trước nhân loại trong mọi thời đại (126) 44. Mối liên hệ của Đức Mẹ Maria được tặng ban cho Giáo hội như một gương mẫu, nên Giáo hội sống gần Mẹ và t́m cách trở nên giống Mẹ “Noi gương Mẹ Chúa ḿnh và nhờ thần lực Chúa Thánh Linh, Giáo hội bảo tồn cho tinh tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy bền vững và một đức mến chân thành”. (127). Như thế, Đức Mẹ Maria hiện diện trong mầu nhiệm Giáo hội như là một gương mẫu. Nhưng mầu nhiệm Giáo hội cũng hệ tại việc sản sinh nhân loại vào đời sống mới và bất diệt; đây là tư cách làm mẹ trong Chúa Thánh Linh. Và ở địa vị này, Đức Mẹ Maria không những là gương mẫu, là h́nh ảnh của Giáo hội, nhưng Mẹ c̣n hơn thế nữa. V́ “với t́nh mẫu tử”, Mẹ đă hợp tác để sinh thành và phát triển” những con cái của mẹ Giáo hội. Vai tṛ làm mẹ của Giáo hội được hoàn thành không những theo gương mẫu và h́nh ảnh Mẹ Thiên Chúa, mà c̣n nhờ sự “cộng tác” của Mẹ nữa. Giáo hội kín múc dư dật trong cộng tác này, nghĩa là trong sự trung gian hiền mẫu, một đặc điểm của Đức Maria trong ư nghĩa tái sinh và phát triển các con cái Giáo hội, như Mẹ của Người Con mà Chúa Cha “đă đặt làm Trưởng tử giữa nhiều anh chị em” (128). Như Công đồng Vaticanô II dạy: Đức Mẹ đă cộng tác bằng t́nh mẫu tử (129). Ở đâu, chúng ta nhận thức giá trị thực tiễn những lời Chúa Giêsu đă nói với Mẹ Ngài trên Thập giá: “Hỡi Bà, đây là con Bà”, và với môn đệ: “Đây là Mẹ con” (Ga.19,26-27). Những lời này xác định địa vị của Đức Mẹ Maria trong đời sống các môn đệ Chúa Kitô, và diễn tả như Tôi đă nói ở trên – chức làm mẹ mới của Mẹ Chúa Cứu Thế: thiên chức làm mẹ thiêng liêng, phát sinh từ trung tâm mầu nhiệm Vượt Qua của Đấng Cứu Chuộc trần gian. Đó là thiên chức làm mẹ trong trật tự ân sủng, v́ chức làm mẹ này khẩn cầu ơn Chúa Thánh Linh, Đấng làm tăng thêm những người con mới của Thiên Chúa, đă được cứu chuộc qua hy tế Chúa Kitô: Chúa Thánh Linh mà Mẹ Maria đă đón nhận cùng với Giáo hội trong ngày Lễ Hiện Xuống. Thiên chức làm Mẹ này được dân Kitô hữu đặc biệt nhận thấy và t́m gặp được tại bàn Tiệc Thánh – trong buổi cử hành phụng vụ về mầu nhiệm cứu chuộc – mà Chúa Kitô hiện diện trong thân xác thực sự của Ngài, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Ḷng đạo đức của dân Kitô hữu thật có lư khi luôn nhận thấy mối dây liên kết sâu xa giữa ḷng sùng kính Đức Trinh Nữ và việc tôn thờ Thánh Thể: đó là một sự việc được thấy trong nghi thức phụng vụ cả Tây và Đông phương, trong truyền thống các gia đ́nh đạo đức, trong tinh thần tu đức của các phong trào hiện đại, gồm cả phong trào giới trẻ và trong thực hành mục vụ tại các Đền thánh Đức Mẹ: Mẹ Maria dẫn đưa tín hữu đến cùng Thánh Thể. 45. Yếu tính của thiên chức làm mẹ có đặc điểm liên quan tới nhân vị con người. Mẫu tính luôn thiết lập mối liên hệ duy nhất và không hề tái diễn giữa hai người: giữa mẹ và con và giữa con với mẹ. Dẫu khi cùng một phụ nữ là mẹ có nhiều con, mối liên hệ cá nhân của bà đối với mỗi người con vẫn mang nặng bản chất làm mẹ. V́ mỗi đứa con được sinh ra một cách duy nhất và không tái diễn, điều đó rất thực cho cả mẹ lẫn con. Mỗi đứa con đều được ấp ủ cùng một cách như thế bởi t́nh mẫu tử là nền tảng của việc phát triển và trưởng thành như một con người. Có thể nói rằng t́nh mẫu tử “trong trật tự ơn thánh” tương tự như t́nh mẫu tử “trong trật tự tự nhiên” biểu thị đặc điểm hợp nhất giữa mẹ và con. Trong ánh sáng sự kiện này, người ta dễ hiểu hơn tại sao trong lời di chúc của Chúa Kitô trên đồi Golgotha, thiên chức làm mẹ mới của Mẹ Ngài được phát biểu bằng số ít, nhắc đến một người: “Đây là con Bà”. Có thể nói rằng cũng trong những lời trối này, tỏ rơ đầy đủ lư do cho ḷng sùng kính Mẹ Maria trong đời sống của các môn đệ Chúa Kitô: Điều này chẳng những rất xác thực đối với Gioan là người giờ phút đó đứng dưới chân Thập giá với Mẹ của Thầy ḿnh, nhưng cũng rất xác thực đối với các môn đệ Chúa Kitô, và tất cả mọi Kitô hữu. Chúa Cứu Thế trao phó Mẹ Ḿnh cho môn đệ, và cũng một trật, Chúa ban Đức Mẹ cho môn đệ để làm mẹ ḿnh. Thiên chức làm Mẹ của Đức Maria trở thành di sản của nhân loại và là một ân huệ: ân huệ mà chính Chúa Kitô ban riêng cho mỗi người. Chúa Cứu Thế trao phó Đức Mẹ Maria cho Gioan bởi v́ Ngài trao phó Gioan cho Đức Mẹ. Dưới chân Thập giá, bắt đầu việc trao phó đặc biệt nhân loại cho Mẹ Chúa Kitô, việc này đă được thực hiện và biểu lộ bằng nhiều h́nh thức trong lịch sử Giáo hội. Vị Tông đồ thánh sử Gioan, sau khi tường thuật các lời Chúa Giêsu phán cùng Đức Mẹ và với chính ngài trên cây Thập giá, đă ghi thêm: “và từ lúc đó, môn đệ đưa Người về nhà ḿnh” (Ga.19,27): Câu đó chắc chắn có nghĩa là vai tṛ làm con đă được trao phó cho người môn đệ, và người môn đệ này đă nhận lănh trách nhiệm đối với Mẹ của Thầy chí ái ḿnh. Và bởi v́ Đức Maria đă được ban riêng cho môn đệ như một người Mẹ, nên lời di chúc đó, mặc dầu một cách gián tiếp, cũng chỉ mối liên hệ mật thiết của người con đối với mẹ ḿnh. Và tất cả những ư nghĩa trên có thể gói trong hai chữ: “Dâng Hiến”. Dâng hiến là đáp lại t́nh yêu của một người, đặc biệt cho t́nh yêu người mẹ. Tầm mức lệ thuộc vào Mẹ Maria trong đời sống của môn đệ Chúa Kitô được biểu lộ một cách đặc biệt qua việc hiến dâng t́nh con thảo cho Mẹ Chúa Kitô, sự hiến dâng này đă bắt đầu trong lời trối của Chúa Cứu Thế trên đồi Golgotha. Dâng hiến chính ḿnh cho Mẹ Maria với tính cách con thảo, người Kitô hữu giống như Tông đồ Gioan “đón nhận” Mẹ Chúa Kitô “vào nhà riêng ḿnh” (130) và đưa Đức Mẹ vào trong đời sống nội tâm của ḿnh, nghĩa là trong cái “bản ngă” của ḿnh là con người và là Kitô hữu: “Ngài đă đón nhận Người về nhà ḿnh”. Như thế, người Kitô hữu t́m cách đi sâu vào “đức bác ái từ mẩu”, với đức ái này Mẹ Chúa Cứu Thế “chăm sóc những anh chị em con của Mẹ” (131). Mẹ đă cộng tác vào việc “sinh thành và dưỡng dục họ” (132) theo mức độ ân sủng ban riêng cho mỗi người nhờ quyền lực Thánh Linh của Chúa Kitô. Như vậy tư cách làm mẹ được thể hiện trong Chúa Thánh Linh đă trở thành vai tṛ của Đức Mẹ dưới chân Thập giá và trong nhà Tiệc Ly. 46. Mối liên hệ con thảo, sự hiến dâng bản thân của người con cho mẹ ḿnh, không những khởi sự trong Chúa Kitô mà cũng có thể nói một cách xác quyết là trực tiếp hướng về Chúa Kitô. Có thể nói, Đức Mẹ Maria c̣n tiếp tục nói với mỗi người lời Mẹ đă nói ở Cana xứ Galilê: “Các ông hăy làm những ǵ Ngài bảo”. V́ Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Ngài “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga.14,6)” chính Ngài là Đấng Đức Chúa Cha đă ban cho thế gian để con người “khỏi hư mất, nhưng được sự sống đời đời” (Ga.3,16). Đức Trinh Nữ thành Nazareth đă trở nên “nhân chứng” đầu tiên của t́nh yêu cứu độ của Chúa Cha và Mẹ cũng mong ước luôn luôn và khắp nơi ḿnh vẫn là Nữ tỳ khiêm hạ của Chúa. Đối với tất cả mọi Kitô hữu cũng như đối với mọi người, Đức Mẹ Maria là người đầu tiên “đă tin”, và chính bằng đức tin của ḿnh như vị Hiền Thê và Hiền Mẫu. Mẹ muốn hoạt động trên tất cả những ai phó thác chính ḿnh cho Mẹ như con cái Mẹ, và chúng ta biết rơ các con cái Mẹ càng bền vững và tấn tới trong việc phó thác bao nhiêu, Mẹ càng đưa họ tới gần: “sự giàu có vô phương ḍ thấu của Đức Kitô” (Eph.3,8) bấy nhiêu. Và tới cùng một cấp độ nào đó, họ càng nh́n nhận rơ ràng hơn phẩm giá con người trong tất cả sung măn và ư nghĩa xác thực của ơn gọi ḿnh, bởi v́ “Đức Kitô…sẽ mặc khải đầy đủ về con người cho chính loài người” (133) Tầm mức sùng kính Mẹ Maria của đời sống Kitô hữu mang một sắc thái đặc biệt liên quan đến người phụ nữ và đến địa vị người phụ nữ. Thực vậy, nữ tính có liên hệ duy nhất với Mẹ Chúa Cứu Thế, một đề tài có thể được học hỏi sâu rộng hơn trong một dịp khác. Ở đây, Tôi muốn đơn giản lưu ư rằng dung nhan Đức Maria thành Nazareth tỏa sáng trên nữ giới như là một phụ nữ, bởi sự kiện là, trong biến cố siêu việt của Ngôi Hai Nhập Thể, Con của ngài, Thiên Chúa đă trao phó chính ḿnh cho sứ mệnh, một sứ mệnh thong dong và chủ động của một phụ nữ. Như vậy có thể nói: khi nh́n về Đức Mẹ Maria, phụ nữ t́m thấy trong Mẹ bí quyết để sống xứng đáng nữ tính của ḿnh và để hoàn thành sự thăng tiến của riêng họ. Trong ánh sáng Maria Giáo hội nhận thấy trên khuôn mặt người nữ những phản ánh một vẻ đẹp biểu lộ những t́nh cảm cao quư nhất của tâm hồn con người: ḷng hy sinh trọn vẹn v́ t́nh yêu; sức mạnh có thể chịu đựng những đau khổ lớn lao; ḷng trung thành vô giới hạn là ḷng hâm mộ hoạt động không biết mệt mỏi; khả năng phối hợp một trực giác sâu sắc với lời hỗ trợ và khích lệ. 47. Trong Công đồng Vaticanô II, Đức Phaolô VI đă long trọng tuyên bố: Đức Maria là Mẹ Giáo hội, nghĩa là “Mẹ của toàn thể Dân Chúa, Mẹ của các tín hữu và các chủ chăn”. (134). Về sau, vào năm 1968, trong bản Tuyên Xưng Đức Tin được gọi là “Kinh Tin Kính của Dân Chúa”, ngài nhấn mạnh chân lư này bằng những lời: “Chúng tôi tin rằng Mẹ Rất Thánh của Thiên Chúa, bà Evà mới, Mẹ Giáo hội, ở trên trời vẫn tiếp tục làm Mẹ các chi thể Chúa Kitô, cộng tác vào việc sinh dưỡng và phát triển đời sống Thiên Chúa trong các linh hồn đă được cứu chuộc”. (135)’ Giáo huấn Công đồng đă nhấn mạnh rằng chân lư về Đức Trinh Nữ, Mẹ Chúa Kitô, là một trợ giúp hữu hiệu trong việc khám phá sâu xa hơn chân lư về Giáo hội. Khi lên tiếng về Hiến Chế “Ánh Sáng Muôn Dân” vừa mới được Công đồng chấp thuận, Đức Phaolô VI tuyên bố: “Sự hiểu biết giáo lư Công giáo chân thực về Đức Trinh Nữ Maria luôn luôn là ch́a khóa giúp hiểu đúng mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo hội” (136). Đức Mẹ Maria hiện diện trong Giáo hội như là Mẹ Chúa Kitô, đồng thời như là người Mẹ, mà trong mầu nhiệm cứu chuộc, Chúa Kitô đă trao ban cho nhân loại trong ngôi vị Tông đồ Gioan. Như thế, với tư cách làm mẹ mới trong Chúa Thánh Linh, Đức Mẹ Maria đă ôm ấp từng người và mọi người trong Giáo hội, và ẵm ôm từng người và mọi người nhờ Giáo hội. Theo nghĩa này, Đức Maria, Mẹ Giáo hội, cũng là gương mẫu của Giáo hội. Thực vậy, cũng như Đức Phaolô VI ước mong và kêu gọi Giáo hội phải t́m thấy “nơi Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, một h́nh thức đích thực nhất để bắt chước Chúa Kitô một cách trọn hảo”. (137) Nhờ mối dây đặc biệt liên kết Mẹ Chúa Kitô với Giáo hội, giúp hiểu rơ hơn mầu nhiệm của người phụ nữ, mà từ chương đầu sách Sáng Thế cho tới sách Khải Huyền, người nữ đó đă theo sát mặc khải chương tŕnh cứu độ nhân loại của Thiên Chúa. V́ Đức Mẹ Maria hiện diện trong Giáo hội như Mẹ Chúa Cứu Thế, đă tham dự với t́nh hiền mẫu trong “cuộc chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối…” (138) vẫn c̣n tiếp diễn trong lịch sử nhân loại. Và Giáo hội được đồng hóa với “Người Nữ mặc áo mặt trời” (Kh.12,1) (139), điều đó có thể nói: “Trong Đức Trinh Nữ Rất Thánh, Giáo hội đă đạt tới sự trọn lành không t́ ố hay vết nhăn”. Do đó, khi người tín hữu, với đức tin, ngước mắt lên nh́n Đức Mẹ trong cuộc lữ hành trần thế, họ “cố găng lớn lên trong sự thánh thiện” (140). Đức Mẹ Maria, người con gái Sion cao quư, giúp đỡ mọi con cái bất cứ ở đâu và bất kỳ hoàn cảnh nào, được t́m thấy Chúa Kitô, đường đưa họ về nhà Cha. V́ thế, trong suốt cuộc sống, Giáo hội luôn duy tŕ với Mẹ Thiên Chúa mối dây liên kết bao trùm cả quá khứ, hiện tại và tương lai trong mầu nhiệm cứu rỗi, và Giáo hội tôn kính Mẹ như là Mẹ thiêng liêng của nhân loại, và là Trạng Sư ơn thánh. 3. Ư Nghĩa Năm Thánh Mẫu 48. Chính v́ mối liên hệ đặc biệt giữa nhân loại và người Mẹ này mà Tôi đă công bố Năm Thánh Mẫu trong Giáo hội vào thời kỳ trước khi kết thúc năm 2000 kể từ ngày Chúa Kitô giáng sinh. Trong quá khứ, một sáng kiến tương tự cũng đă được thực hiện khi Đức Piô XII công bố năm 1954 là Năm Thánh Mẫu, để làm nổi bật sự thánh thiện đặc biệt của Mẹ Chúa Kitô, đă được diễn tả trong mầu nhiệm Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (đă được định tín đúng một thế kỷ trước) và mầu nhiệm Đức Mẹ Hồn Xác Về Trời. (141). Giờ đây, theo đường hướng của Công đồng Vaticanô II, Tôi cũng muốn nhấn mạnh về sự hiện diện đặc biệt của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo hội Ngài. V́ đây là chiều hướng căn bản phát xuất từ khóa Thánh Mẫu học của Công đồng đă được bế mạc hơn hai mươi năm nay. Thượng Hội Đồng các Giám mục khóa bất thường họp năm 1985 đă thúc đẩy mọi người hăy trung thành noi theo giáo huấn và chỉ dẫn của Công đồng. Chúng ta có thể nói rằng, hai biến cố này – Công đồng và Thượng Hội đồng – biểu hiện điều Chúa Thánh Linh muốn “nói với Giáo hội” trong giai đoạn lịch sử hiện tại. Trong phạm vi vấn đề này. Năm Thánh Mẫu phải là dịp khuyến khích việc đọc lại và đọc cẩn thận hơn những ǵ Công đồng dạy về Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, trong mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu nhiệm Giáo hội mà nội dung Thông điệp này dành cho đề tài đó. Ở đây chúng tôi không những chỉ nói đến giáo lư về đức tin mà c̣n nói về đời sống đức tin nữa, và như thế nói về “đường tu đức Thánh Mẫu” xác thực nh́n dưới ánh sáng Thánh Truyền và đặc biệt là đường tu đức mà Công đồng đă cổ vơ chúng ta (142). Hơn nữa, đường tu đức Thánh Mẫu cũng như sự sùng kính Đức Mẹ tương xứng gặp được nguồn mạch sung măn trong kinh nghiệm lịch sử của nhiều người và nhiều cộng đoàn Kitô hữu khác nhau đang hiện diện giữa các dân tộc khác nhau và các quốc gia trên thế giới. Về điểm này giữa muôn vàn nhân chứng và tôn sư của đường tu đức Thánh Mẫu này, Tôi muốn gợi lại khuôn mặt thánh Louis Marie Grignion de Montfort (143), người đă đề xướng việc tận hiến cho Chúa Kitô nhờ tay Đức Mẹ Maria, như phương thế hữu hiệu để giáo dân sống trung thành với lời hứa Phép Thanh Tẩy. Tôi vui mừng nhận thấy trong thời đại chúng ta cũng không thiếu những cách biểu lộ mới về đường tu đức và về ḷng sùng kính này. Như vậy chúng ta có những điểm vững chắc cho việc tham khảo để lưu ư và dơi theo văn bản của Năm Thánh Mẫu này. 49. Năm Thánh Mẫu này sẽ bắt đầu vào ngày Đại Lễ Hiện Xuống, tức là ngày 7 tháng 6 sắp tới. Năm Thánh này không những có mục đích nhắc lại rằng Đức Mẹ Maria đă “đi tiền phong” trước khi Chúa Kitô tiến vào lịch sử nhân loại, mà c̣n nhấn mạnh rằng, trong ánh sáng của Đức Maria, từ ngày mầu nhiệm Nhập Thể được hoàn thành, lịch sử nhân loại bước vào “thời viên măn” và Giáo hội là dấu chỉ của thời viên măn đó. Là Dân Thiên Chúa, Giáo hội thực hiện cuộc lữ hành đức tin hướng về vĩnh cửu giữa ḷng các dân tộc và các quốc gia, bắt đầu từ Lễ Hiện Xuống, Mẹ Chúa Kitô đă hiện diện ngay từ khởi đầu “thời gian của Giáo hội” khi Mẹ sốt sắng cầu nguyện giữa các Tông đồ và môn đệ Chúa để chờ đợi Chúa Thánh Linh ngự xuống, th́ Đức Mẹ cũng luôn luôn “đi tiền phong” trong cuộc hành tŕnh Giáo hội trong lịch sử nhân loại. Đúng là “Nữ tỳ của Chúa”, Đức Mẹ là người không ngừng cộng tác vào việc cứu chuộc đă được Chúa Kitô Con Mẹ hoàn thành. Như thế, nhờ Năm Thánh Mẫu này, Giáo hội không những được mời gọi hồi tưởng lại tất cả những ǵ trong quá khứ đă chứng tỏ sự cộng tác mẫu tử cách đặc biệt của Mẹ Thiên Chúa vào công cuộc cứu chuộc trong Chúa Kitô, mà c̣n kêu gọi Giáo hội chuẩn bị cho tương lai những cách thức cho việc cộng tác này theo phận sự riêng của Giáo hội. V́ cuối Đệ nhị Thiên niên Kỷ Kitô giáo, một viễn tượng mới sẽ được mở ra. 50. Như đă nói ở trên, giữa các anh em ly khai, cũng có nhiều người tôn kính và ca tụng Mẹ Thiên Chúa, đặc biệt nhất là anh em Đông phương. Đây là ánh sáng Mẹ Maria chiếu trên phong trào đại kết. Đặc biệt Tôi muốn nhắc lại lần nữa rằng: trong Năm Thánh Mẫu này cũng sẽ kỷ niệm 1000 năm thánh Vladimir lănh Bí Tích Thanh Tẩy (988), ngài là đại hoàng tử thành Kiev. Chính ngài đă khai sinh Kitô giáo trong các lănh thổ gọi là Rus, và về sau, trong các lănh thổ của Đông Âu. Theo cách thức này, nhờ công việc truyền bá Phúc âm Kitô giáo đă tràn lan qua Châu Âu, sang tới các phần đất miền Bắc Á châu. Đặc biệt trong Năm Thánh Mẫu này chúng tôi ước mong kết hợp trong lời cầu nguyện với tất cả những ai mừng kỷ niệm 1000 năm Bí Tích Thánh Tẩy này, cả anh chị em Chính Thống Giáo và Công Giáo. Cùng với Công đồng Vaticanô II, chúng tôi xác nhận và nhắc lại những cảm t́nh vui mừng và đầy an ủi khi thấy “anh chị em Đông phương..với ḷng nhiệt thành và tâm hồn cung hiến, nhất tâm sùng kính Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh” (144). Mặc dầu chúng ta vẫn c̣n trải qua hậu quả đau thương về việc chia rẽ đă xảy ra sau đó mấy chục năm (1054), nhưng chúng ta có thể nói rằng: trước tôn nhan Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy rằng chúng ta thật là anh chị em trong Dân Tộc Đấng Thiên Sai, được kêu gọi để trở nên một gia đ́nh của Thiên Chúa trên mặt đất. Như Tôi đă công bố vào ngày đầu Năm Mới: “Chúng tôi ước mong xác nhận lại gia tài chung của tất cả anh chị em trên địa cầu này”. (145) Khi loan báo Năm Thánh Mẫu, Tôi cũng đă cho biết Năm Thánh sẽ bế mạc vào ngài Đại Lễ Đức Mẹ Lên Trời trong năm tới, để nhấn mạnh “Một Điềm vĩ đại xuất hiện trên trời” đă nói trong sách Khải Huyền. Như thế, chúng tôi cũng muốn đáp lại lời Công đồng cổ vơ: Công đồng trông đợi Đức Maria “là biểu hiệu mối hy vọng chắc chắn và là niềm an ủi cho Dân Chúa trong cuộc lữ hành”. Và Công đồng biểu lộ sự thúc đẩy đó bằng những lời sau đây: “Tất cả mọi Kitô hữu hăy thiết tha khẩn nguyện Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ nhân loại, để như Mẹ đă trợ giúp Giáo hội sơ khai bằng lời cầu nguyện của ḿnh, ngày nay được tôn vinh vượt trên các Thần Thánh trên trời, Mẹ cũng cầu bầu cùng Con Mẹ trong sự hiệp thông toàn thể các thánh cho tới khi mọi gia đ́nh dân tộc hoặc đă mang danh hiệu Kitô hữu, hoặc chưa biết Đấng Cứu Chuộc ḿnh, đều hân hoan đoàn tụ trong an b́nh và ḥa thuận, hợp thành một Dân Thiên Chúa duy nhất, làm vinh danh Ba Ngôi Thiên Chúa rất thánh và không phân chia.(146).
KẾT LUẬN
51. Cuối phụng vụ Giờ Kinh hằng ngày, Giáo hội dâng lên Mẹ những lời khẩn cầu, trong đó có lời kinh sau đây: “Lạy Mẹ Chúa Cứu Thế yêu dấu, Là cửa thiên đàng, là ngôi sao biển Hăy giúp đỡ dân tộc của Mẹ đă sa ngă đang cố gắng chỗi dậy Mẹ đă sinh hạ Đấng Tạo Hóa trước sự ngạc nhiên của vạn vật”. “Trước sự ngạc nhiên của vạn vật”. Những lời này của bài ca đối xướng biểu lộ “kinh ngạc của đức tin” theo mầu nhiệm chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Theo một ư nghĩa nào đó, sự kinh ngạc này cũng xảy ra trong ḷng mọi thụ tạo và trực tiếp trong ḷng Giáo hội. Đấng Tạo Hóa và là Chúa muôn loài, Ngài đă tỏ ra sâu nhiệm diệu kỳ biết bao trong việc “mặc khải chính ḿnh” cho nhân loại (147). Rơ ràng biết bao Ngài đă lấp đầy mọi thời gian khoảng cách vô tận phân chia giữa Đấng Tạo Hóa và loài thụ tạo! Nếu Thiên Chúa tự ḿnh là Đấng khôn tả và khôn lường hơn trong thực tại Ngôi Lời Nhập Thể, là Đấng đă làm người nhờ Đức Trinh Nữ thành Nazareth. Nếu tự đời đời Ngài đă muốn kêu gọi con người thông phần vào bản tính Thiên Chúa (2Pr.1,4), th́ có thể nói Ngài đă làm cho phù hợp việc “thần hóa” con người theo những điều kiện lịch sử nhân loại, đến nỗi dầu sau khi phạm tội, Ngài vẫn sẵn sàng phục hồi với một giá cao chương tŕnh vĩnh cửu của t́nh thương Ngài qua việc “làm người” của Con Ngài, là Đấng đồng bản tính với Ngài. Toàn thể thụ tạo và trực tiếp hơn chính con người, không thể không bị sửng sốt trước hồng ân mà nhờ đó họ được thông phần trong Chúa Thánh Linh: “Thiên Chúa đă yêu thương thế gian đến nỗi đă ban chính Con Một Người” (Ga.3,16). Ngay tại trung tâm mầu nhiệm này, ở giữa sự kinh ngạc của đức tin đó, có Đức Mẹ Maria, Là Mẹ yêu dấu của Chúa Cứu Thế, Đức Mẹ là người đầu tiên đă cảm nghiệm việc: “Sinh hạ Đấng Tạo Hóa trước sự ngạc nhiên của tạo vật”. 52. Nhữg lời ca phụng vụ đối xướng đó c̣n biểu lộ một sự thật về việc “biến đổi lớn lao” mà mầu nhiệm Nhập Thể thiết lập cho con người. Sự biến đổi này có ảnh hưởng tới toàn thể lịch sử nhân loại ngay từ buổi ban đầu như trong các đoạn đầu sách Sáng Thế đă mặc khải và cho đến tận cùng thế giới mà Chúa Giêsu đă mặc khải cho chúng ta rằng: “không biết ngày, không biết giờ” (Mt.25,13). Đó là cuộc biến đổi liên tục và bất tận giữa sa ngă và chỗi dậy, giữa người tội lỗi và người công chính có ơn nghĩa. Đặc biệt phụng vụ Mùa Vọng được đặt vào chính trung tâm cuộc biến đổi này và luôn ảnh hưởng tới cuộc sống hiện tại, khi phụng vụ ca lên: “Xin hăy giúp đỡ dân tộc của Mẹ đă sa ngă nhưng đang cố gắng chỗi dậy!”. Những lời nhắc này ứng dụng cho mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, cho các quốc gia và dân tộc, cho các thế hệ và các kỷ nguyên lịch sử nhân loại, cho riêng kỷ nguyên chúng ta, cho những năm thuộc Thiên niên Kỷ này sắp kết thúc: “Hăy giúp đỡ, vâng hăy giúp đỡ dân tộc đă sa ngă!”. Đây là lời khẩn cầu dâng lên Đức Mẹ Maria, “Mẹ yêu dấu của Chúa Cứu Thế”, là lời khẩn cầu dâng lên Chúa Kitô, Đấng nhờ Mẹ Maria đă bước vào lịch sử nhân loại. Năm này qua năm khác, lời ca đối xướng hướng về Mẹ, gợi lên giây phút hoàn tất cuộc biến đổi lịch sử cốt yếu này, cái giây phút tiếp tục biến đổi một cách khó ḷng đảo ngược lại được từ “sa ngă” tới “chỗi dậy”. Nhân loại đă thực hiện được những phát minh lạ lùng và đă đạt được những kết quả phi thường trong phạm vi khoa học và kỹ thuật. Nhân loại đă hoàn thành những tiến bộ vĩ đại trên con đường phát triển và văn hóa, và có thể nói trong thời gian gần đây nhân loại đă thành công trong việc gia tăng tốc độ tiến triển của lịch sử. Nhưng sự biến đổi nền tảng, một sự biến đổi nói được là “nguồn gốc” vẫn theo sát cuộc hành tŕnh nhân loại và qua mọi biến cố lịch sử, nó bám sát từng người và mọi người. Đó là cuộc biến đổi từ “sa ngă” đến “chỗi dậy”, từ sự chết đến sự sống. Đây cũng là cuộc thách thức liên lỉ đối với lương tâm nhân loại, một cuộc thách thức cho toàn thể nhận thức lịch sử của con người: cuộc thách thức bám sát đường lối “không sa ngă” trên mọi nẻo đường luôn luôn cũ và luôn luôn mới, và “lại chỗi dậy” nếu sa ngă đă xẩy ra. Bởi v́ Giáo hội với toàn thể nhận loại tiến tới ranh giới của năm hai ngàn, về phần Giáo hội với toàn thể cộng đồng tín hữu hợp nhất với mọi người nam nữ có thiện chí đón nhận cuộc thách thức vĩ đại hàm chứa trong lời ca đối xướng về Mẹ Maria: “Dân tộc đă sa ngă sẽ cố gắng lại chỗi dậy” và Giáo hội dâng lên Chúa Cứu Thế và Mẹ Ngài lời cầu khẩn: “Xin giúp đỡ chúng con”. V́ như lời cầu xin này chứng nhận, Giáo hội nh́n thấy Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm riêng của ḿnh. Giáo hội thấy Đức Mẹ Maria đă bám sâu vào lịch sử nhân loại, vào ơn gọi vĩnh cửu của con người theo chương tŕnh quan pḥng Thiên Chúa đă định liệu cho họ từ đời đời. Giáo hội thấy Đức Mẹ Maria đầy t́nh mẫu tử đang hiện diện và chia sẻ trong mọi khó khăn phức tạp bao vây cuộc sống cá nhân, gia đ́nh và các quốc gia; Giáo hội thấy Mẹ giúp đỡ dân Kitô hữu trong cuộc chiến đấu không ngừng giữa thiện và ác, để bảo đảm rằng họ “không sa ngă” hay là nếu họ đă sa ngă th́ “lại chỗi dậy”. Với tất cả tấm ḷng, Tôi hy vọng rằng những suy tư chứa đựng trong Thông điệp cũng sẽ giúp làm mới lại tầm nh́n tận thâm tâm của tất cả những tín hữu. Với tư cách là Giám mục Roma, Tôi gửi đến tất cả những người mà những tư tưởng này nhắm tới, cái hôn b́nh an, lời chào thăm và phép lành của Tôi trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Amen. Làm tại Roma, bên cạnh Đền thánh Phêrô, ngày 25 tháng 3, Đại lễ Truyền Tin năm 1987, năm thứ 9 triều đại Giáo Hoàng của Tôi. GIOAN PHAOLO II
CHÚ THÍCH 1. Xem Công đồng chung, Hiến Chế Tín Lư về Giáo hội Ánh Sáng Muôn Dân, số 52 và toàn thể chương VIII, với tựa đề”Nhiệm Vụ Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo hội. 2. Từ ngữ “thời viên măn” giống từ ngữ dân tộc Giuđa dùng trong Kinh Thánh (St.29,21; I Sam.7,12;Tb.14,5) cũng như người Do Thái giáo, đặc biệt là trong Tân Ước (Mc.1,15;Lc.21,24; Ga.7,8; Ep.1,10). Xét về h́nh thức, thuật ngữ này không những muốn nói đên sự kết thúc một quá tŕnh thời gian, nhưng c̣n muốn nói lên ư nghĩa một sự chín mùi hay hoàn tất một thời đoạn, v́ hiện thực một sự mong chờ, v́ thế mang đặc tính cánh chung. Nếu xét đến đoạn Gal.4,4 và theo mạch văn th́ điều này muốn nói đến việc Con Thiên Chúa đến và cho thấy thời gian từ lời hứa cho Abraham đến Lề Luật Môsê đă đạt đến đỉnh cao và Đức Kitô đă làm trọn lời hứa của Thiên Chúa và vượt lên trên luật cũ. 3. Sách Lễ Rôma, kinh Tiền Tụng 8/12; Thánh Ambrôsiô: “De instutione virginis” XV,93-94; Pl.16,342; LG.68. 4. Xem LG số 58. 5.Thông điệp Chirsti Matri (15/9/1966), Tông huấn Signum Magnum (13/5/1967) và Tông huấn Marialis Cultus (2/2/1974) của ĐGH Phaolô VI 6. Xem thánh Gioan Damaseno : Hom. In Dormitone 1,8-9 Ch.80,103-107 7. Xem Insegnamenti di Giovanni Paolo II VI/2 (1983) 225f Đức Piô IX, Tông Thư Ineffabilis Deus (8/12/1854) và Piô IX P. M Acta, phần I, 597-599 8. Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng số 22 9. Công đồng Ephêsô trong Conciliorum Occumenicorum Decreta. Công đồng Bologna năm 1973 và Công đồng Chaledon, DS 300,303 10. Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng số 22. 11. LG. số 52 12. LG. số 58 13. LG. số 63. Xem thánh Ambrôsio quảng diễn Phúc âm theo thánh Luca 2,7. De Institutione Virginis XIV 88,89,”L 16,341 14. LG. số 64 15. LG. số 65 16. Thánh Benađô: Bài giảng lễ Sinh Nhật Mẹ - De Aquaeductu,6.S. Bernađi Opera V, 1968,279. Xem In laudibus Virginis Matris Homilia II, 17; ed, cit, IV,1966,341f 17. LG. số 63 18. LG. số 63 19. Xem thánh Gioan Damascdnô: Hom in Nativitatem 7;10;S ch 80,65,73; Hom in Dormitionem I,3; S. Ch, 80,85. 20. LG. số 55 21. Xem Origen, In Lucam homiliae, VI, 7; S. Ch. 87, 148; Severianus of Gabala, In mundi Creationem, Oratio VI, 10; PG 56, 1976 Thánh John Chrysostom, In Annuntiationem Deiparae et Con ra Arium impium, PG 62, 765f; Basil of Seleucia, Oratio 39. In Sanctissimae Deiparae Annuntiationem, 5, PG 85, 441-446; Thánh Sophronius of Jerusalem, Oratio II, In Sanctissimae Deiparae Annuntiationem 17-19; PG 87/3, 3235-3240. Thánh John Damas cenô, Hom. in Dormitionem, 1, 70. S. Ch. 80, 96-101. Thánh Jerome, Epistola 65, 9: PL 22, 628; Thánh Ambrose, Expos Evang. sec.Lucam II, 9; Thánh Agustine, Sermo 291, 4-6; PL 38. ect. 22. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 55. 23. Hiến Chế Ánh Sảng Muôn Dân số 53. 24. Xem Đức Piô XI: Tông Huấn Ineffabilis Deus (8-12-1854); Đức Piô IX P. M. Acta, phần I, 616. Hiến Chế Ánh Sảng Muôn Dân Số 53 25. Xem Thánh Germanus thành Constantinople, In Annuntia tionem S.S. Deiparae Hom.; PG 98, 327f; Thánh Andrew thành Crêta, Canon in B. Mariae Natalem, 4: PG 97, 1321f; In Nativitatem B. Mariae, I: PG 97, 811f; Hom. in Dormitionem S. Mariae I: PG 97,811f,Hom in Dormitionem S. Mariae I:PG97 26. Phụng vụ giờ kinh ngày 15/8 Lễ Mẹ Hồn Xác về Trời Ca văn I và II Giờ Kinh Chiều: thánh Phêrô Đamianô: Crmina et preces, XLVII: PL 145,934 27. Divina Commedia, Pered, XXX, I: xem phụng vụ giờ kinh, lễ kính Đức Trinh Nữ Maria ngày thứ Bảy, Ca văn II 28. Xem Thinh Augutis, De Sexe Vi398, Sermo 25, 7: PL. 46.937f 29. Hiến Chế Tín Lư về Mặc Khải của Thiên Chúa. số 5 30. Xem thánh Irênêo: Expositio doctrinae Apostolicae. 33:S Ch. 62, 83-86, và Adversus Haereses V.19;I S.Ch. 153,248-250, 31. Hiến Chế về Mặc Khải của Thiên Chúa. số 5 32. LG. số 56 33. LG. số 56 34. Ibid., 56. 35. Xem Thành Aparine De Sonie Painin. Bi 40, 198, và Thánh Leô Ck: Trountut 21, thena Danc 138, 86. 36. Ascent of Mount Carmel 1, 11, Ch. 1,46 37. Hiến Chế Ảnh Sông Muộn Dân số 58 38. Hiến Chế Ảnh Sông Muôn Dân số 58 39, Hiến Chế về Mạc Khôi của Thiên Chúa số 5 40. Xem Thánh Bènadó: In Dominica infra octavam Assumpc onis Sermo, 14: S. Bernardi Opera, V, 1968, 273. 41. Thánh Irèně, Adversus Herreses III, 22,4 5. CL 211,48 444 và Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số Số, ghi chú 6 42. Hiến Chế Ánh Sảng Muôn Dân số 56 43. Xem Thánh Augustino: Sermo 25 (Sermones inediti) 1: PL 46,938. 44, Hiến Chế Anh Sáng Muôn Dân số 60 45, Hiến Chế Anh Sang Muôn Dân số 61 46. Hiền Chế Anh Sàng Muôn Dân số 62 47. Xem Comm, in Joan I,6: PG 14,31. Xem Thành Ambrôsiô, Expos. Evang, sec Lucam, X. 129-131: CSEL 32/4, 504f 48. Hiến Chế Ảnh Sáng Muôn Dân số 5 và 53 và Hành Augustiono, De Sancta Virginitate Vt. 6 PL 40, 399, 49. LG. 55 50. Xem Thánh Leo Ch: Treenrir 26, De Note Pres yCCL 138, 126. 51. Hiến Cho Ánh Sơng Muộn Dân số 99 52. Thánh Augustino, De Civitate Dei, XVIII, 51: CCL 48.650 53. Hiển Chế Ánh Sáng Muôn Dân 8 54, Hiến Chế Ánh Sáng Muốn Dân số 9 55. Hiến Chế Ánh Sảng Muôn Dân số 9. 56. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 8 57. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân tố 9, 58. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 65, 59. Hiến Chế Ánh Sảng Muôn Dân số 59, 60. Hiến Chế về Mạc Khải của Thiên Chúa số 5, 61. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 63. 62. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 9. 63. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 65. 64. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 65. 65. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 65. 66. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 13. 67. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 13. 68. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 13, 69. Xem Sách Lễ Roma: Công thức hiến dâng chén thánh trong các Kinh Nguyện Thánh Thể. 70. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 1. 71. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 13
72. Hiến Chế Ảnh Sáng Muôn Dân số 15. 73. Sắc Lệnh về Hiệp Nhất số 1. 74. Hiến Chế Ánh Sảng Muốn Dân số 68, 69. Xem Đức Leo XIII, Encyclical nis, XV, 300-312. djutricem Populi (5 Sept. 1895); Acta Leonis XV,300-312 75. Sắc Lệnh về Hiệp Nhất số 20. 76. Sắc Lệnh về Hiệp Nhất số 19. 77. Sắc Lệnh về Hiệp Nhất số 14. 78. Sắc Lệnh về Hiệp Nhất số 15. 79. Hiến Chế Ánh Sáng Muốn Dân số 66 80. Công Dong Chung Chalcedon, Definitio Fidel: Conciliorum Oecumenicorum Decreta, Bologna 1973, 86 (DS 301). 81. Xem The Weddash Maryam và Matshafa Kidana Mehrat (Book of the Pact of Mercy). 82. Xem Thánh Ephrem, Hymn. de Nativitate: Scriptores Syri, 82, CSCO, 186. 83. Xem Thánh Gregorio de Narek, Le livre de Prières: S. Ch.78, 160-163; 428-432. 84. Đệ Nhị Công Đồng Chung Nicea: Conciliorum Decument corum Decreta, Bologna 1973, 135-138 (DS 600-609). 85. Hiển Chế Anh Sảng Muôn Dân số 59. 86. Sắc Lệnh về Hiệp Nhất số 19. 87. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 8. 88. Hiển Chế Ánh Sảng Muôn Dân số 9. 89. Như chúng ta được biết, những lời trong bài ca Magnificat chứa đựng hoặc ảnh hưởng bởi các lời trong Cựu Ước. 90. Hiến Chế về Mạc Khải của Thiên Chúa số 2. 91. Xem Thánh Justinô: Dialogus cum Tryphone Judaeo, 100. Otto 11; 358. Thánh Irênèo: Adversus Haereses 111, 22, 4: S. Ch. 211, 439-445. Tertullianô, De carne Christi, 17, 4-6: CCL 2, 904f. ALL 92. Xem Thánh Epiphaniô, Panarion III, 2; Haer. 78, 18. PG 42, 727-730. 93. Instruction on Christian Freedom and Liberation (22 March1986), 97. 94. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 60. 95. Hiển Chế Ảnh Sáng Muôn Dân số 60. 96. Xem Thánh Bernadô: In Dominica infra oct. Assumptionis Sermo, 2: S. Bernardi Opera, V, 1968, 263. và In Nativitate B.Mariae Sermo - De Aquaeductu 12: ed. cit., 283. 97. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 62, 98. Hiến Chế Ảnh Sảng Muôn Dân số 62, 99. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 61. 100. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 62. 101. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 61. 102 Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 61 103. Hiển Chế Ánh Sáng Muốn Dân số 62 104, Hiến Chế Ảnh Sảng Muốn Dân số 62. 105. Hiến Chế Ánh Sông Muốn Dân số 62. Xem Kinh Tiên Tung Lê Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ và là Trung Gian Ơn Thánh trong Collectio Missarum de Beata Maria Virnine 1987, 1, 120. 106. Hiển Chế Ảnh Sảng Muôn Dân số 62 107. Hiến Chế Ảnh Sảng Muốn Dân số 62 và xem Thánh Gioan Damacênd, Hom. in Dormitionem. 1, 11; 11, 2, 14, 111, 2. S. Ch. 80, 111. Thánh Bernado: In Assumptione B. M. Sermo 1-2, S. Bernardi Opera V, 1968, 228-238. 108. Hiến Chế Ánh Sảng Muôn Dân số 59. Xem Đức Piô XII Tông Huán Munificentissimus Deus (1 Nov. 1950) AAS 42 (1950) 769-771. Xem Thánh Bernadô: In Dominica infra Oct. Assumptionis Sermo 3: S. Bernardi Opera V, 1968, 263f. 109. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 53. 110. Xem Thánh Bernadô, In Dominica infra oct. Assumptionis Sermo 1-2; S. Bernardi Opera, V, 1968, 262f. Xem Đức Lêô XIII Acta Leonis, XI, 299-315. 111. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 55. 112. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 59. 113. Hiến Chế Ảnh Sáng Muôn Dân số 36. 114. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 36. 115. Xem Thánh John Damascenô, Hom. in Nativitatem, Hom. in Dormitionem I, 2, 12, 14; II, 11; III; 4: S. Ch. 80, 59f. 116, Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 62. 117. Hiến Chế Anh Sáng Muôn Dân số 63. 118. Hiến Chế Ảnh Sảng Muôn Dân số 63. 119. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 66. 120. Xem Thánh Ambrosio, De Institutione Virginis, XIV, 88 89: PL 16, 341. Thánh Augustino, Sermo 215, 4: PL 38, 1074; De Sancta Virginitate, II, 2; V, 5; VI, 6: PL 40, 397; 398f; 399; Sermo 191, II, 3: PL 38, 1010f. 121. Hiển Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 63. 122. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 64. 123. Hiến Chế Ánh Sảng Muôn Dân số 64. 124. Hiển Chế Ánh Sáng Muốn Dân số 64, 125. Hiến Chế Ánh Sảng Muốn Dân số 64, 126. Hiển Chế Tín Lư về Mạc Khải của Chúa, số 8. Xem Thánh Bonaventura, Comment in Evang. Lucae. Ad Claras Aquas VII, 53, No. 40; 68 No. 109. 127. Hiến Chế Ảnh Sảng Muôn Dân số 64. 128. Hiến Chế Ánh Sảng Muốn Dân số 63, 129. Hiến Chế Ảnh Sáng Muôn Dân số 63, 130. Xem Thánh Augustinô, In Joan. Evang, fract. 119, 3: CCL-36, 659. 131. Hiến Chế Ánh Sảng Muôn Dân số 62, 132. Hiển Chế Ánh Sảng Muộn Dân số 63. 133. Hiến Chế Mục Vụ: Vui Mừng và Hy Vọng, số 22. 134. Xem Đức Phaolô VI, Discourse of 21 November 1964: AAS 56. (1964) 1015. 135. Đức Phaolô VI, Solemn Profession of Faith (30 June 1968), 15: AAS 60 (1968) 438f. 136. Đức Phaolô VI, Discourse of 21 November 1964 AAS 56 (1964) 1015. 137. Đức Phaolô VỊ; 1016. 138. Hiến Chế Mục Vụ: Vui Mừng và Hy Vọng, số 37. 139. Xem Thánh Bernado, In Dominica infra oct. AssumptionisSermo: S. Bernardi Opera, V, 1968, 262-274. 140. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 65. 141. Xem Tông Thư Fulgens Corona (8 September 1953): AAS 45 (1953) 577-592. Đức Piô X với Tông Thư Ad Diem Illum (2 February 1904): Pii X P. M. Acta, I, 147-166. 142. Hiến Chế Ánh Sảng Muôn Dân số 66-67. 143. Thánh Louis Marie Grignion de Montfort, Traité de la Vraie dévotion à la sainte Vièrge. - Thánh Alphongso Ligourid: Le Glorie di Maria. 144. Hiến Chế Ánh Sáng Muộn Dân số 69. 145. Bài Giảng ngày I January 1987 của Đức Gioan Phaolô II. 146. Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 69. 147. Hiến Chế Tin Lư về Mạc Khải của Thiên Chúa số 2,
Tông Thư Mulieris Dignitatem Phẩm Giá Và Ơn Gọi Của Người Phụ Nữ Của Đức Thánh GH Gioan Phaolô II. Ban hành 15/08/1988 Chuyển ngữ Lm. Augustino Nguyễn Văn Trinh
DẪN NHẬP Một dấu chỉ thời đại 1. Phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ là đề tài thường xuyên của môn nhân bản và của Kitô giáo, trong những năm gần đây lại mang một ư nghĩa thật đặc biệt. Ngoài những lư do khác, chúng ta c̣n thấy những đóng góp của Huấn quyền trong nhiều tài liệu của Công đồng Vaticanô II, được sứ điệp bế mạc xác nhận: “Thời điểm đến, thời điểm thực sự đă đến để khai triển trọn vẹn ơn gọi của người phụ nữ; thời điểm mà người phụ nữ gây được ảnh hưởng trong xă hội, một sự tỏa sáng, một vị trí mà từ trước đến nay chưa bao giờ đạt được. V́ thế, trong thời điểm này, nhân loại cảm nhận một biến chuyển sâu xa, những người phụ nữ thấm nhuần tinh thần Phúc Âm có thể giúp rất nhiều để nhân loại khỏi phải sa đọa” [1]. Những lời của sứ điệp làm nổi bật tất cả những ǵ đă được tŕnh bày trong giáo huấn của Công đồng, đặc biệt trong Hiến chế mục vụ “Vui mừng và Hy vọng – Gaudium et Spes” [2] và trong “Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân – Apostolicam Actuositatem” [3]. Những suy tư như thế đă có trước Công đồng, như trong một chuỗi diễn từ của Đức Giáo hoàng Piô XII [4] và trong Thông điệp “Ḥa b́nh trên thế giới – Pacem in terris” của Đức Giáo hoàng Gioan XXIII [5]. Sau Công đồng Vaticanô II, vị tiền nhiệm của Tôi là Đức Giáo hoàng Phaolô VI đă làm nổi bật ư nghĩa cùa “dấu chỉ thời đại” này, khi Ngài nâng hai thánh Têrêsa Avila và Catharina thành Siêna lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh [6]; ngoài ra, theo yêu cầu của Thượng Hội đồng Giám mục vào năm 1971, ngài đă lập một ủy ban chuyên nghiên cứu các vấn đề thời đại trong liên hệ với vấn đề “đề cao phẩm giá và trách nhiệm của ngươi phụ nữ” [7]. Trong một bài diễn từ, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đă nói: “Ngay từ đầu Kitô giáo, người phụ nữ chiếm một vị trí quan trọng hơn bất cứ nơi tôn giáo nào; chính Tân Ước đă minh chứng điều này dưới nhiều phương diện đáng chú ư… Rơ ràng, người phụ nữ cũng được tham gia vào cơ cấu sống động và mạnh mẽ của Kitô giáo; có lẽ người ta đă không khám phá ra hết các sức lực và khả năng này” [8]. Các nghị phụ của Thượng Hội đồng Giám mục kỳ cuối (vào tháng 10 năm 1987) với chủ đề “ơn gọi và sứ vụ của Giáo dân trong Hội Thánh và trong thế giới sau hai mươi năm Công đồng Vaticanô II”, đă quan tâm đến phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ. Các ngài muốn đào sâu nền tảng nhân học và thần học cần thiết để giải quyết các vấn đề có liên quan đến ư nghĩa và phẩm giá con người như là nam và nữ. Vấn đề được đưa ra để t́m hiểu nguyên nhân và hệ quả quyết định của Đấng Sáng Tạo, tại sao con người luôn hiện hữu là nữ hay nam cách dứt khoát. Từ nền tảng này mới có thể giúp chúng ta nắm bắt được giá trị sâu xa của phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ, từ đó mới có thể nói về vị trí sinh động của họ trong Hội Thánh và trong xă hội. Đó chính là chủ đề Tôi muốn tŕnh bày trong tài liệu này. Huấn dụ hậu Thượng Hội đồng sẽ được công bố sau tài liệu này, sẽ đưa ra những đề nghị mục vụ về vị trí của người phụ nữ trong Hội Thánh và trong xă hội; những đề nghị này đă đúc kết những suy tư quan trọng rút từ những chứng cứ của các dự thính viên giáo dân nam nữ đến từ các giáo hội địa phương trên khắp năm châu. Năm Thánh Mẫu 2. Thượng Hội đồng Giám mục vừa qua họp trong năm Thánh Mẫu; năm này thúc đẩy cách đặc biệt để nghiên cứu đề tài do Thông điệp “Mẹ Đấng Cứu Thế – Redemptoris Mater” đề ra. Thông điệp này triển khai và hiện tại hóa giáo lư Công đồng Vaticanô II nơi chương VIII của Hiến chế tín lư về “Hội Thánh – Lumen Gentium”. Chương này có một tựa đề rất ư nghĩa: “Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Đức Kitô và Hội Thánh”. Đức Maria – “người nữ” trong Thánh Kinh (x. St 3,15; Ga 2,4; 19,26) – gắn bó chặt chẽ với mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô và v́ thế hiện diện thật đặc biệt trong mầu nhiệm Hội Thánh. “Hội Thánh trong Đức Kitô được xem như là bí tích… cho sự kết hợp sâu thẳm với Thiên Chúa cũng như sự hợp nhất của cả nhân loại” [10], sự hiện diện đặc biệt của Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Hội Thánh giúp chúng ta suy nghĩ đến mối dây độc đáo giữa “người phụ nữ” này, với toàn thể gia đ́nh nhân loại. Điều này liên hệ đến từng người, nam cũng như nữ, đến tất cả con trai con gái trong nhân loại mà qua bao thế hệ gia sản nền tảng của toàn thể nhân loại được hiện thực, gia sản này gắn kết với mầu nhiệm của “khởi nguyên” theo Thánh Kinh: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh ảnh ḿnh; Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27) [11]. Chân lư ngàn đời về con người như là nam và nữ là một chân lư bất biến dựa theo kinh nghiệm, nhưng chỉ được sáng tỏ trong Ngôi Lời nhập thể. Công đồng dạy: “Đức Kitô đă cho con người biết rơ về chính ḿnh và tỏ cho họ biết thiên chức rất cao cả của họ” [12]. Vậy chúng ta có được phép dựa vào sự kiện “cho con người biết rơ về chính ḿnh” để khám phá vị trí đặc biệt của “người phụ nữ” được trở thành Mẹ của Đức Kitô hay không? Sứ điệp của Đức Kitô được ghi trong Phúc Âm là nền tảng cho trọn Thánh Kinh gồm Cựu ước lẫn Tân ước, có nói ǵ cho Hội Thánh và nhân loại về phẩm giá và ơn gọi của ngươi phụ nữ hay không? Đó chính là đề tài của văn kiện được ban ra cho năm Thánh Mẫu, khi chúng ta tiến gần đến lúc kết thúc thiên niên kỷ thứ hai và khởi đầu cho thiên niên kỷ thứ ba kể từ ngày sinh của Đức Kitô. Đối với Tôi, nên tŕnh bày đề tài này như một bài suy niệm th́ hay hơn.
II. NGƯỜI PHỤ NỮ - MẸ THIÊN CHÚA (THÉOTOKOS) Kết hợp với Thiên Chúa 3. “Khi thời gian tới hồi viên măn, Thiên Chúa đă sai Con ḿnh tới, sinh làm con một người đàn bà”. Với lời trong Thư gởi giáo đoàn Êphêsô (4,4), Thánh Tông đồ Phaolô nối kết những thời điểm chính yếu của việc thực hiện các “mầu nhiệm đă được Thiên Chúa xác định từ trước” (x. Ep 1,9). Chúa Con là Ngôi Lời đồng bản thể với Chúa Cha, đă làm người và được một người phụ nữ sinh ra, khi “thời gian tới hồi viên măn”. Sự kiện này đưa lịch sử loài người, cũng là lịch sử cứu độ, đến đỉnh cao. Điều đáng ghi nhận là Thánh Tông đồ không gọi Mẹ Đức Kitô theo tên riêng “Maria”, nhưng chỉ nói là “một người đàn bà”: điều này phù hợp với những lời trong Tiền Tin Mừng nơi sách Sáng Thế (x. St 3,15). Người nữ này hiện diện ngay trong biến cố trung tâm của mầu nhiệm cứu độ, biến cố này xác định “thời điểm viên măn”: biến cố đă trở thành hiện thực trong Bà và qua Bà. Biến cố trung tâm, biến cố bản lề trong lịch sử cứu độ là cuộc Vượt qua của Chúa đă bắt đầu như thế. Dù vậy, cũng nên nh́n lại biến cố này từ lịch sử tinh thần của con người theo một nghĩa rộng được biểu lộ trong các tôn giáo khác nhau trên thế giới. Công đồng Vaticanô II dạy: “Con người mong đợi các tôn giáo giải đáp về những bí nhiệm tiềm ẩn trong thân phận con người, những bí nhiệm xưa nay vẫn làm tâm hồn họ phải xao xuyến sâu xa: con người là ǵ? Đời người có mục đích và ư nghĩa nào? Sự thiện và tội ác là chi? Đâu là nguyên nhân và mục đích của đau khổ? Đâu là con đường dẫn tới hạnh phúc thật? Cái chết, sự phán xét và thưởng phạt sau khi chết là ǵ? Sau cùng, điều huyền bí tối hậu khôn tả vẫn bao trùm cuộc sống chúng ta là chi, chúng ta phát xuất từ đâu và chúng ta hướng về đâu?” [13]. “Từ xưa đến nay, người ta nhận thấy nơi nhiều dân tộc khác nhau một cảm thức về quyền lực tàng ẩn trong ṿng chuyển biến của sự vật và trong những biến cố của đời người, đôi khi c̣n thấy cả sự nh́n nhận một vị Thần Linh Tối Cao hay một Người Cha” [14]. Từ cái nh́n rộng lớn này, chúng ta nhận thấy tâm tư con người luôn khao khát t́m kiếm Thiên Chúa – đôi khi cũng chỉ “ḍ dẫm” (Cv 17,27) – thế nên “thời gian tới hồi viên măn” như thánh Phaolô nói trong thư, cho thấy lời đáp trả của Thiên Chúa, của Đấng, “chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28). Đấng ấy chính là Thiên Chúa, Đấng “đă phán dạy cha ông chúng ta nhiều lần nhiều cách qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Người đă phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Việc sai Chúa Con đồng bản thể với Chúa Cha và được “một người đàn bà” sinh ra làm người, cho thấy đỉnh điểm của việc Thiên Chúa tự mạc khải cho con người. Việc tự mạc khải này mang tính cứu độ, như Công đồng Vaticanô II đă dạy trong một bản văn khác: “Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đă muốn mạc khải chính ḿnh và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ư Ngài (x. Ep 1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính Thiên Chúa” (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4) [15]. Người phụ nữ hiện diện ngay trung tâm biến cố cứu độ này. Việc tự mạc khải của Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi, biểu lộ nét chính yếu trong mầu nhiệm Truyển tin tại Nazareth. “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. – “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, v́ tôi không biết đến việc vợ chồng?” – “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, v́ thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa… V́ đối với Thiên Chúa, không có ǵ là không thể làm được” (Lc 1,31-37) [16]. Khi suy nghĩ biến cố này trong chiều kích lịch sử Israel, dân được Thiên Chúa tuyển chọn, và Đức Maria cũng thuộc về dân này, chúng ta dễ dàng nhận ra biến cố này trong viễn cảnh của tất cả những con đường nhân loại đi t́m câu trả lời cho những vấn nạn căn bản và quyết định đă làm cho họ luôn khoắc khoải. Trong mầu nhiệm Truyền Tin ở Nazareth, chúng ta đă không thấy được khởi điểm của câu trả lời dứt khoát, qua đó chính Thiên Chúa đụng đến nỗi lo âu của tâm tư con người đó sao? [17] Nơi đây không những nói đến Lời Thiên Chúa được các tiên tri công bố, nhưng c̣n nói đến câu trả lời, đó chính là sự kiện “Ngôi Lời đă làm người” (x. Ga 1,14); nhờ đó, Đức Maria được kết hợp với Thiên Chúa, một sự kết hợp vượt quá mọi mong chờ của tâm trí con người, vượt quá sự mong chờ của toàn dân Israel và đặc biệt cho các thiếu nữ của dân được tuyển chọn, là những người dựa vào lời hứa luôn mong chờ ngày nào đó một trong số họ được trở thành mẹ Đấng Messias. Thế nhưng ai trong số họ biết được rằng Đấng Messias được hứa là “Con Đấng Tối Cao”? Từ quan niệm độc thần của Cựu Ước, khó mà tưởng tượng được. Chỉ có quyền năng của Thánh Thần, Đấng “rợp bóng trên bà”, mới giúp cho Đức Maria có thể chấp nhận điều “đối với loài người th́ không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa th́ không phải thế, v́ đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10,27). Théotokos - Mẹ Thiên Chúa 4. Như thế, “sự viên măn của thời gian” biểu lộ rơ ràng phẩm giá ngoại thường của “người phụ nữ”. Một mặt, phẩm giá này đă được nâng lên cách siêu nhiên để có thể kết hợp với Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô; sự kết hợp này chính là cùng đích sâu xa của con người, ngay tại thế cũng như trong đời sống vĩnh cửu. Theo nghĩa này, “người phụ nữ” sẽ là người đại diện và nguyên ảnh của toàn thể nhân loại: Bà đại diện cho nhân tính của mọi người, nam cũng như nữ. Mặt khác, sự kiện nơi thành Nazareth cho thấy một h́nh thức liên kết với Thiên Chúa hằng sống, mà chỉ có “người phụ nữ” là Đức Maria mới có thể đạt được: sự liên kết giữa Mẹ và Con. Đức Trinh Nữ thành Nazareth đă thực sự trở thành Mẹ Thiên Chúa. Chân lư này đă được niềm tin Kitô giáo đón nhận ngay từ thuở ban đầu và được Công đồng Êphêsô (năm 431) long trọng định tín [18]. Để chống lại ư kiến của Nestorius chỉ muốn nh́n Đức Maria là Mẹ theo nhân tính của Chúa Giêsu mà thôi, Công đồng này tŕnh bày ư nghĩa căn bản chức làm Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria. Ngay trong giây phút Truyền Tin, khi đáp lại bằng tiếng “Fiat – thưa vâng”, Đức Maria đón nhận một con người là Con Thiên Chúa, đồng bản thể với Đức Chúa Cha. V́ thế Mẹ đích thực là Mẹ Thiên Chúa; v́ chức làm mẹ đụng chạm đến toàn thể con người, chứ không riêng ǵ thể xác và cũng không phải chỉ đụng chạm đến “nhân tính”. Như thế, tước hiệu Théotokos – “Đấng sinh Thiên Chúa”, Mẹ Thiên Chúa – đă trở thành tên riêng của Đức Trinh Nữ Maria để nhấn mạnh đến việc liên kết với Thiên Chúa. Sự liên kết đặc biệt của Đấng Théotokos với Thiên Chúa được hiện thực cách tuyệt vời mọi xác định siêu nhiên cho việc liên kết với Chúa Cha (filii in Filio – những người được đón nhận làm con trong Người Con); việc liên kết đặc biệt này hoàn toàn là ân sủng và như thế là một hồng ân của Chúa Thánh Thần. Nhưng đồng thời, qua lời đáp trả của đức tin, Đức Maria nói lên sự tự do của ḿnh để tham dự vào mầu nhiệm Nhập Thể với cả con người, trọn vẹn với nữ tính của ḿnh. Với tiếng thưa vâng Fiat, Đức Maria đă trở thành chủ thể đích thực cho việc liên kết với Thiên Chúa, sự liên kết này được thực hiện trong mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Lời đồng bản thể với Chúa Cha. Mọi hoạt động của Thiên Chúa trong lịch sử loài người đều tôn trọng ư chí tự do của từng “cá nhân”. Đó là điều đă diễn ra nơi mầu nhiệm Truyền tin tại Nazareth. “Phục vụ có nghĩa là thống trị” 5. Biến cố này mang một đặc tính liên vị rơ ràng: đó là một cuộc đối thoại. Chúng ta sẽ không hiểu được cuộc đối thoại này cách trọn vẹn, nếu như không nh́n toàn bộ cuộc trao đổi giữa thiên thần và Đức Maria từ lời chào “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng” [19]. Trọn cuộc đối thoại lúc Truyền Tin cho thấy chiều kích siêu nhiên (kecharitôménê) của biến cố. Ân sủng không bao giờ bỏ qua và cũng không tiêu hủy tự nhiên; ngược lại, ân sủng kiện toàn và thăng hóa tự nhiên. Việc “đầy ân sủng” trang bị cho Đức Trinh Nữ thành Nazareth trở thành Đấng Théotokos, cùng lúc cũng nói lên điểm đặc thù cho người nữ, tràn đầy nữ tính, đă đạt tới sự viên măn tṛn đầy. Nơi đây, chúng ta thấy được đỉnh cao và nguyên mẫu phẩm giá cá nhân của người nữ. Khi đáp lời thiên sứ bằng tiếng Fiat của ḿnh, “Đấng đầy ân sủng” thấy cần phải nói lên thái độ cá nhân đối với quà tặng vừa được mạc khải: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38). Chúng ta không được phép loại bỏ hay giảm thiểu ư nghĩa sâu xa của câu này, nếu như tách rời câu này ra khỏi toàn bộ sự kiện và khỏi toàn bộ nội dung chân lư được mạc khải về Thiên Chúa và về con người. Trong thuật ngữ “Nữ tỳ của Chúa”, Đức Maria hoàn toàn ư thức ḿnh là một thụ tạo trước Thiên Chúa. Dù vậy, thuật ngữ “Nữ tỳ” nằm cuối cuộc đối thoại Truyền Tin đă đóng ấn trọn viễn cảnh lịch sử của người Mẹ và Người Con. Người Con này thực sự là “Con Đấng Tối Cao” và đồng bản thể với Ngài, thường nói về bản thân ḿnh – nhất là vào giờ cao điểm của sứ vụ: “V́ Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10,45). Đức Kitô luôn ư thức ḿnh là “Tôi Tớ của Chúa” theo lời ngôn sứ Isaia (x. Is 42,1; 49,3.6; 52,13), lời này gói trọn nội dung chính yếu sứ vụ Messias của Người: Người ư thức ḿnh là Đấng Cứu độ trần thế. Đức Maria tham gia vào sứ vụ cứu độ của Đức Kitô ngay từ giây phút đầu tiên làm Mẹ Thiên Chúa, từ việc liên kết với Con, Đấng được Chúa Cha sai đến thế gian, “để thế gian, nhờ Người mà được cứu độ” (Ga 3,17) [20]. Việc phục vụ này là nền tảng cho Vương Quốc, trong đó “phục vụ… mang ư nghĩa là cai trị” [21]. Đức Kitô, “Người Tôi Tớ của Thiên Chúa”, mạc khải cho mọi người thấy phẩm giá vương giả của việc phục vụ, liên kết chặt chẽ với ơn gọi của từng người. Với suy tư về thực tại của “người phụ nữ – Mẹ Thiên Chúa”, chúng ta bước vào suy niệm về năm Thánh Mẫu. Thực tại này xác định viễn cảnh chính yếu của việc chiêm niệm về phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ. Khi suy nghĩ, khi nói, khi làm một điều ǵ đó liên hệ đến phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ, th́ lư trí, tâm hồn và hành động không thể nào rời bỏ viễn cảnh này được. Phẩm giá con người và ơn gọi thích hợp với phẩm giá đó chỉ t́m được mực thước dứt khoát từ việc liên kết với Thiên Chúa. Đức Maria – người phụ nữ trong Thánh Kinh – là sự diễn tả tuyệt vời phẩm giá và ơn gọi này. V́ mỗi người – nam cũng như nữ – được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa, chỉ có thể phát triển trong chiều kích của h́nh ảnh và sự giống Thiên Chúa mà thôi.
III. H̀NH ẢNH VÀ SỰ GIỐNG THIÊN CHÚA Sách Sáng thế 6. Chúng ta phải ư thức về bối cảnh bản văn “Khởi nguyên” của Thánh Kinh, tŕnh bày chân lư mạc khải con người như là h́nh ảnh và giống Thiên Chúa, làm thành nền tảng bất biến cho nhân học Kitô giáo [22]. “Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh ảnh ḿnh, Thiên Chúa sáng tạo con người theo h́nh ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). Đoạn văn ngắn ngủi chứa đựng các chân lư về nhân học: con người là chóp đỉnh tŕnh tự sáng tạo của thế giới hữu h́nh; ḍng giống loài người bắt đầu khi người đàn ông và người đàn bà bước vào sự hiện hữu; ḍng giống này là vinh quang của toàn thể công tŕnh sáng tạo – cả hai, nam và nữ, đều là con người, cùng b́nh đẳng ngang nhau, cả hai được sáng tạo theo h́nh ảnh của Thiên Chúa. H́nh ảnh và việc giống Thiên Chúa, thực sự là nền tảng của con người, được người đàn ông và người đàn bà, khi trở thành phu phụ và thành cha mẹ, sẽ tiếp tục trao ban lại cho con cái. “Hăy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất” (St 1,28). Đấng Sáng tạo trao phó “sự thống trị” mặt đất cho loài người, cho tất cả mọi người, cho mọi người đàn ông và đàn bà, v́ họ đă nhận được phẩm giá và ơn gọi ngay từ nguồn gốc ban đầu của ḿnh. Trong sách Sáng Thế c̣n một cách tŕnh bày khác về việc tạo dựng con người, đàn ông và đàn bà (x. 2,18-25), sau đây chúng ta sẽ bàn tới. Dù sao cũng phải xác định đặc tính nhân vị của con người đă được nói rơ trong tŕnh thuật Thánh Kinh, Con người là một nhân vị: điều này được áp dụng cho người nam cũng như người nữ như nhau; cả hai được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa. Điều làm cho con người giống Thiên Chúa là sự kiện – khác với thế giới có sự sống, gồm cả các hữu thể có cảm giác (animalia) – con người là một hữu thể có lư trí (animal rationale) [23]. Nhờ đặc tính này, đàn ông cũng như đàn bà có thể “thống trị” các thụ tạo của thế giới hữu h́nh (x. St 1,28). Trong tŕnh thuật thứ hai về việc tạo dựng con người (x. St 2,7.18-25), ngôn từ diễn tả chân lư về việc tạo dựng con người, đặc biệt là người phụ nữ, rất khác; theo một nghĩa nào đó, không được rơ ràng mấy, có tính mô tả và gợi h́nh, làm cho chúng ta liên tưởng đến ngôn ngữ của các huyền thoại rất quen thuộc thời xưa. Dù vậy không có ǵ đối nghịch giữa hai bài tŕnh thuật. Bản văn St 2,18-25 là một hỗ trợ giúp hiểu rơ câu St 1,27-28 nói lên chân lư căn bản về con người được tạo dựng có nam có nữ theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa. Đoạn St 2,18-25 tŕnh thuật việc Thiên Chúa tạo dựng người đàn bà từ “xương sườn” của người đàn ông, như “cái tôi” thứ hai, như người đồng hành bên cạnh người đàn ông, v́ trước đó ông rất cô đơn giữa thế giới sinh vật mà không t́m được một sự hỗ trợ thích ứng với ḿnh. Người đàn bà vừa được tạo dựng như thế được người đàn ông công nhận “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (St 2,23) và v́ thế được gọi là “người đàn bà”. Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, danh tánh này cho thấy căn tính chính yếu nhờ liên hệ với người đàn ông: ish – ishsha, tiếc rằng ngôn ngữ thời đại không diễn tả hết ư nghĩa của hai từ này. “Nàng này sẽ được gọi là đàn bà (ishsha), v́ đă được rút từ đàn ông (ish) ra” (St 2,23). Bản văn Thánh Kinh cung cấp đủ nền tảng để công nhận sự b́nh đẳng cơ bản giữa người đàn ông và người đàn bà theo nhân tính [24]. Ngay từ đầu, cả hai đều là nhân vị, khác biệt với thế giới sinh vật chung quanh. Người đàn bà là cái “tôi” khác biệt trong cộng đồng nhân bản chung. Ngay từ đầu, cả hai xuất hiện như “sự duy nhất giữa cả hai”; điều này nói lên việc chấm dứt sự cô đơn nguyên thủy khi “con người không t́m được cho ḿnh một trợ tá tương xứng” (St 2,20). Có phải ở đây muốn nói đến một sự “hỗ trợ” để “thống trị mặt đất” (St 1,28)? Thực sự ở đây muốn nói đến người bạn đồng hành mà người đàn ông liên kết như vợ ḿnh, để trở thành “một xương một thịt và v́ thế phải “ĺa cha mẹ ḿnh” (St 2,24). Khi tŕnh thuật về việc tạo dựng người đàn ông và người đàn bà, Thánh Kinh nói về việc Thiên Chúa thiết lập hôn nhân như điều kiện tất yếu cho việc truyền sinh các thế hệ nhân loại; hôn nhân và t́nh yêu hôn nhân tự bản chất được Thiên Chúa xác định vào việc truyền sinh này: “Hăy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất” (St 1,28). Nhân vị – hiệp thông – quà tặng 7. Khi đào sâu tŕnh thuật St 2,18-25 và chú giải dưới ánh sáng chân lư về việc con người được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa (St 1,26-27), chúng ta có thể hiểu đầy đủ đặc tính nhân vị của con người hệ tại ở điều đă làm cho cả hai – nam và nữ – giống Thiên Chúa. Mỗi con người là h́nh ảnh của Thiên Chúa v́ là thụ tạo được phú bẩm lư trí và tự do, có khả năng nhận biết và yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta cũng đọc thấy, con người không thể hiện hữu đơn độc (x. St 2,18); nhưng chỉ có thể hiện hữu “hợp nhất giữa hai người”, trong liên hệ với một nhân vị khác. Ở đây muốn nói đến một liên hệ hỗ tương của người đàn ông với người đàn bà và người đàn bà với người đàn ông. Nhân vị theo h́nh ảnh Thiên Chúa có nghĩa là hiện hữu trong tương quan với một “cái tôi” khác. Điều này có thể giúp chúng ta hiểu việc tự mạc khải của Thiên Chúa Ba Ngôi: sự hợp nhất sống động trong hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Khởi đầu, Thánh Kinh chưa nói điều này cách rơ ràng. Trước hết, toàn bộ Cựu Ước là mạc khải chân lư về Thiên Chúa đơn nhất (Einzigkeit – unicité) và duy nhất (Einheit – unité). Từ chân lư nền tảng về Thiên Chúa của Cựu Ước, Tân Ước hướng đến mầu nhiệm khôn ḍ khôn thấu của đời sống nội tại của Thiên Chúa. Thiên Chúa tự tỏ ḿnh cho con người qua Đức Kitô là sự duy nhất trong Ba Ngôi: sự duy nhất trong hiệp thông (Dieu, qui se fait connaitre aux hommes par le Christ, est l’unité dans la Trinité, il est l’unité dans la communion – Gott, der sich den Menschen durch Christus zu erkennen gibt, ist Einheit in Dreifaltigkeit: Einheit in Gemeinschaft). Điều này đem lại một ánh sáng mới soi rọi cho h́nh ảnh và việc giống Thiên Chúa nơi con người, như sách Sáng Thế đă nói. Việc con người được tạo dựng có nam có nữ theo h́nh ảnh Thiên Chúa không những có nghĩa, từng người trong họ giống Thiên Chúa ở chỗ họ là hữu thể có lư trí và tự do; cũng có nghĩa là, người đàn ông và người đàn bà như sự “hợp nhất giữa cả hai” được tạo dựng cùng chung nhân phẩm, được kêu gọi sống một cộng đoàn t́nh yêu và phản ánh trong thế giới cộng đoàn t́nh yêu chỉ tồn tại trong Thiên Chúa và qua đó Ba Ngôi Vị yêu thương nhau trong mầu nhiệm sâu thẳm của đời sống thiên linh duy nhất. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, một Thiên Chúa duy nhất nhờ sự duy nhất của thiên tính, hiện hữu như các Ngôi Vị qua liên hệ thiên linh sâu thẳm. Chỉ qua cách thức này, chúng ta mới có thể hiểu được chân lư, Thiên Chúa tự tại là T́nh Yêu (x. 1 Ga 4,16). H́nh ảnh và sự giống Thiên Chúa trong con người được tạo dựng có nam có nữ (theo cách loại suy, có thể xem như giữa Đấng Sáng Tạo với thụ tạo) nói lên sự “hợp nhất giữa hai người” trong nhân vị chung. “Sự hợp nhất giữa hai người” này là một dấu chỉ sự hiệp thông liên vị, cho thấy việc tạo dựng con người cũng có một nét nào đó giống với sự hiệp thông của Thiên Chúa (“communio”). Sự giống nhau này được ghi nhận như một đặc tính nhân vị của cả hai nam nữ, đồng thời cũng là phẩm giá và ơn gọi. Toàn bộ luân lư (Ethos) của con người được đặt nền tảng trong h́nh ảnh và sự giống Thiên Chúa mà con người đă mang nơi ḿnh ngay từ thuở ban đầu: Cựu Ước và Tân Ước triển khai Ethos này mà đỉnh cao chính là giới luật t́nh yêu [25]. Trong sự “hợp nhất giữa hai người”, người đàn ông và người đàn bà ngay từ đầu đă được kêu gọi không những “bên cạnh nhau” hay “cùng nhau” hiện hữu, nhưng c̣n được kêu gọi hiện diện “cho nhau”. Điều này giải thích ư nghĩa “trợ tá” được nói đến trong đoạn St 2,18-25: “Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó”. Theo mạch văn Thánh Kinh, chúng ta có thể hiểu từ này theo nghĩa người đàn bà phải “giúp đỡ” người đàn ông – đồng thời người đàn ông cũng phải giúp đỡ người đàn bà – chỉ v́ họ là “những con người có nhân vị”: điều này sẽ giúp cho người nam cũng như người nữ luôn khám phá và xác nhận ư nghĩa trọn vẹn của việc làm người. Trên b́nh điện căn bản này, cũng dễ dàng nhận ra một “sự hỗ trợ” của cả hai phía và đồng thời một “sự hỗ trợ” cho nhau. Là con người có nghĩa là được mời gọi vào sự hiệp thông liên vị. Đoạn St 2,18-25 cho thấy hôn nhân là chiều kích đầu tiên và nền tảng cho ơn gọi này. Nhưng đó không phải là chiều kích duy nhất. Trọn lịch sử nhân loại trên trái đất được thực hiện trong khung của ơn gọi này. Dựa trên nguyên tắc, sự “hiệp thông” liên vị người này hiện diện cho người kia, chúng ta thấy điều “thuộc về nam giới” và điều “thuộc về nữ giới” trong nhân tính theo ư Thiên Chúa muốn, được phát triển liên tục trong suốt lịch sử. Các bản văn Kinh Thánh, khởi đầu với sách Sáng Thế, giúp chúng ta luôn khám phá môi trường nơi chân lư về con người phát triển, một môi trường vững chắc và bất biến giữa biết bao đổi thay trong hiện sinh loài người. Chân lư này cũng liên hệ đến lịch sử cứu độ. Điều này Công đồng Vaticanô II đă nói ở chương về “Cộng đồng nhân loại” trong Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes: “Khi cầu nguyện với Chúa Cha: “Xin cho mọi người nên một… như chúng ta là một” (Ga 17,21-22), Chúa Giêsu mở ra những viễn tượng mà lư trí con người không thể tự đạt tới được. Như vậy, Chúa Giêsu đă nói lên một sự tương tự nào đó giữa sự kết hợp của Ba Ngôi Thiên Chúa với sự kết hợp của các con cái Chúa trong chân lư và đức ái. Sự tương tự này cho thấy con người, thụ tạo duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên v́ chính họ, chỉ có thể gặp lại chính bản thân ḿnh nhờ thành thực hiến dâng” [26]. Với những lời này, bản văn Công đồng tóm kết chân lư về người nam và người nữ – một chân lư đă được tŕnh bày trong những chương đầu của sách Sáng Thế – như nền tảng cho khoa nhân học theo Thánh Kinh và Kitô giáo. Con người – nam cũng như nữ – giữa các thụ tạo của thế giới hữu h́nh, là thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên v́ chính họ; họ là một nhân vị. Nhân vị có nghĩa là: hướng về việc thực hiện chính bản thân ḿnh (bản văn Công đồng nói về “tự t́m thấy chính ḿnh”), đó là điều chỉ có thể thực hiện qua việc “hiến dâng chính ḿnh cách vô vị lợi”. Nguyên mẫu cho ư nghĩa nhân vị chính là Thiên Chúa trong phương diện là Ba Ngôi Thiên Chúa, là sự hiệp thông giữa các Ngôi Vị. Câu nói “con người được dựng nên theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa’’; cũng có ư nghĩa là, con người được mời gọi, hiện hữu cho kẻ khác, trở thành một “quà tặng” cho kẻ khác. Ơn gọi này được áp dụng cho mọi người, nam cũng như nữ; họ sẽ thực hiện điều này theo tính cách riêng của mỗi người. Trong giới hạn của bài suy tư về phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ, chân lư về con người sẽ là khởi điểm tất yếu. Ngay từ đầu, sách Sáng Thế vạch một lược đồ sơ khởi về đặc tính hôn nhân trong liên hệ giữa con người, một nền tảng chân lư về vai tṛ làm mẹ cũng như về sự đồng trinh như hai chiều kích của ơn gọi người phụ nữ trong ánh sáng mạc khải của Thiên Chúa. Hai chiều kích này sẽ được nổi bật “khi thời gian tới hồi viên măn” trong bóng dáng “người phụ nữ” thành Nazareth: đó là người mẹ, đồng thời cũng là trinh nữ. Ngôn từ nhân hóa của Thánh Kinh 8. Cách tŕnh bày con người như “h́nh ảnh và giống Thiên Chúa” ngay khởi đầu Sách Thánh, c̣n có một ư nghĩa khác nữa. Đó là ch́a khóa để hiểu mạc khải Kinh Thánh như là việc Thiên Chúa tự mạc khải chính ḿnh. Khi Thiên Chúa nói về chính ḿnh – có thể qua các “tiên tri”, có thể qua “Người Con” đă làm người (x. Dt 1,1.2) – Ngài nói theo ngôn ngữ loài người, sử dụng ư niệm và h́nh ảnh thuộc ngôn ngữ loài người. Nếu cách diễn tả này có theo lối nhân hóa nào đó th́ lư do là con người được tạo dựng “giống” Thiên Chúa: theo h́nh ảnh và giống Ngài. Như thế chính Thiên Chúa, một cách nào đó, cũng “giống” con người; căn cứ theo sự giống đó mà con người có thể nhận biết Thiên Chúa. Như thế, ngôn từ Thánh Kinh cũng cho thấy rơ ràng giới hạn của sự “giống” này cũng như giới hạn của việc loại suy. Mạc khải Thánh Kinh cho thấy sự giống Thiên Chúa của con người, nhưng về bản chất th́ hoàn toàn “không giống”, điều này tách hẵn thụ tạo với Đấng Sáng Tạo [27]. Đối với con người được tạo dựng theo h́nh ảnh Thiên Chúa, th́ Thiên Chúa vẫn luôn là Đấng “ngự trong ánh sáng siêu phàm” (1 Tm 6,16): Tự bản chất, Người là “Đấng khác”, Đấng “Hoàn toàn khác”. Chúng ta phải luôn ư thức về việc xác định giới hạn loại suy – giới hạn việc giống Thiên Chúa của con người theo ngôn từ Thánh Kinh – dù ngay trong nhiều đoạn Thánh Kinh, chúng ta gặp những so sánh gán cho Thiên Chúa những phẩm tính của người nam hay của người nữ. Trong những so sánh như thế, chúng ta có thể thấy sự xác định gián tiếp về chân lư, cả hai, nam cũng như nữ, được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa. Nếu như có sự tương tự giữa Đấng Sáng Tạo và thụ tạo, th́ cũng hiểu rằng Thánh Kinh sử dụng những cách diễn tả gán cho Thiên Chúa những phẩm tính của người nam cũng như của người nữ. Chúng ta có thể trích vài đoạn đặc thù của tiên tri Isaia: “Sion từng nói: “Đức Chúa đă bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đă quên tôi rồi!” Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của ḿnh hay chẳng thương đứa con ḿnh đă mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, th́ Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,14-15). Một câu khác: “Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; tại Giêrusalem, các ngươi sẽ được an ủi vỗ về” (Is 66,13). Trong nhiều Thánh vịnh, Thiên Chúa được so sánh như người mẹ hiền chăm sóc con thơ: “Hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh b́nh. Như trẻ thơ nép ḿnh ḷng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào Chúa, Israel hỡi!” (Tv 131,2-3). Trong nhiều đoạn khác, t́nh yêu và sự chăm sóc của Thiên Chúa được so sánh như của một người mẹ: như một người mẹ, Thiên Chúa đă “mang” nhân loại và đặc biệt dân tuyển chọn của ḿnh trong ḷng dạ; Ngài đă sinh họ ra trong đau đớn; Ngài đă nuôi nấng và an ủi họ (so Is 42,14; 46,3-4; Gr 3,4-19). T́nh yêu của Thiên Chúa cũng được tŕnh bày trong nhiều đoạn như t́nh yêu “nam tính” của một người yêu và của một người cha (Hs 11,1-4; Gr 3,4-19), đôi khi cũng được tŕnh bày như t́nh yêu “nữ tính” của một người mẹ. Dấu nhấn của ngôn từ Thánh Kinh, cách nói nhân hóa Thiên Chúa cho thấy gián tiếp mầu nhiệm “sinh ra” từ thuở đời đời, thuộc vào đời sống nội tại của Thiên Chúa. Dù vậy, việc “sinh ra” này không có phẩm chất “nam” hay “nữ” ǵ cả, nhưng hoàn toàn là bản tính của Thiên Chúa; một “sự sinh ra” thiêng liêng trọn hảo nhất – chỉ v́ “Thiên Chúa là thần khí” (Ga 4,24) – không có một phẩm chất nào thuộc “nam giới” hay của “nữ giới”. V́ thế “chức vụ là Cha” trong Thiên Chúa hoàn toàn khác, không có chút dấu chứng thể lư “nam giới” như nơi chức vụ là cha nơi loài người. Theo nghĩa này, Cựu Ước nói Thiên Chúa là Cha và hướng về Ngài như hướng về một người Cha. Đức Giêsu Kitô đă đặt chân lư này vào trung tâm Tin Mừng của Người như qui luật cho kinh nguyện Kitô giáo; Người hướng về Thiên Chúa và gọi Ngài là “Abba – Cha ơi!” (Mc 14,36) để minh chứng Người là Con duy nhất và đồng bản thể; Người cũng cho thấy chức vụ làm Cha trong nghĩa siêu thể lư, siêu phàm, hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Là Con, Người nói và liên kết với Cha qua mầu nhiệm “sinh ra” từ vĩnh cửu, nhưng đồng thời Người cũng minh chứng ḿnh là Con của người Mẹ đồng trinh theo nhân tính. Cho dù sự sinh ra từ đời đời của Ngôi Lời Thiên Chúa không có phẩm chất nhân loại và chức làm cha của Thiên Chúa không có dấu chứng “nam giới” theo nghĩa thể lư, th́ chúng ta phải t́m nơi Thiên Chúa nguyên ảnh tuyệt đối của việc sinh hạ trong trần thế của con người. Theo nghĩa này, chúng ta đọc trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô: “V́ lư do đó, tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha, là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,14-15). Mỗi cuộc sinh hạ trên b́nh diện thụ tạo t́m được nguyên mẫu của ḿnh nơi việc sinh hạ của Thiên Chúa, có nghĩa là hoàn toàn thiêng liêng. Mọi “sinh hạ” trong thế giới thụ tạo cũng phải tương tự với mẫu tuyệt đối, tự tại này. V́ thế, tất cả những ǵ đặc thù trong việc sinh hạ ở con người, như t́nh phụ tử và t́nh mẫu tử, cũng mang những nét tương tự và loại suy với việc “sinh hạ” nơi Thiên Chúa, với t́nh phụ tử, nhưng nơi Thiên Chúa lại “rất khác biệt”: hoàn toàn thiêng liêng và theo bản chất hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Nơi con người, việc sinh hạ là chứng cứ của “sự hợp nhất giữa hai người”. Cả hai, người đàn ông và người đàn bà, đều trở thành cha mẹ, những “người sinh thành”.
IV. BÀ EVÀ – BÀ MARIA Sự “khởi đầu” và tội lỗi 9. “Con người được Thiên Chúa thiết đặt trong t́nh trạng công chính, nhưng ngay từ đầu lịch sử, bị ma quỷ cám dỗ, đă lạm dụng tự do, chống lại Thiên Chúa và muốn tạo tương lai của ḿnh không cần đến Thiên Chúa” [28]. Qua những lời này, Công đồng nhắc lại giáo lư đă được mạc khải về tội lỗi và đặc biệt về nguyên tội. “Khởi nguyên” theo Thánh Kinh – nghĩa là việc tạo dựng vũ trụ và con người – c̣n chứa chất chân lư về tội lỗi, cũng c̣n gọi là tội lúc “khởi đầu” của con người trên mặt đất. Dù những ǵ được viết trong sách Sáng Thế được lồng trong tŕnh thuật mang tính biểu trưng, như tŕnh thuật về việc tạo dựng con người có nam có nữ (x. St 2,18-25), qua đó cũng cho thấy “mầu nhiệm tội lỗi” và đầy đủ hơn là “mầu nhiệm sự dữ” trong thế giới do Thiên Chúa sáng tạo. Chúng ta không thể hiểu được “mầu nhiệm tội lỗi” nếu không qui chiếu vào chân lư về “h́nh ảnh và giống Thiên Chúa” của con người là nền tảng nhân học theo Thánh Kinh. Chân lư này cho thấy việc tạo dựng con người là hồng ân đặc biệt của Đấng Sáng Tạo, hồng ân không những chứa chất nền tảng và nguồn gốc phẩm giá chính yếu của con người, nam cũng như nữ, trong vũ trụ được Thiên Chúa tạo dựng, nhưng c̣n cho thấy khởi điểm lời mời cho cả hai được chia sẻ vào đời sống nội tại của Thiên Chúa. Theo ánh sáng mạc khải, sáng tạo đồng thời cũng là khởi điểm của lịch sử cứu độ. Chính ngay lúc khởi đầu này, tội lỗi đă tấn công và xuất hiện như đối kháng và phủ nhận. Có thể nói một cách nghịch lư rằng: tội lỗi được h́nh bày trong chương 3 của sách Sáng Thế như là một sự xác nhận chân lư về h́nh ảnh và giống Thiên Chúa của con người, nếu chân lư này nói lên sự tự do, có nghĩa là ư chí tự do con người có thể sử dụng để chọn điều lành, nhưng con người cũng có thể lạm dụng khi chọn điều xấu nghịch lại ư muốn của Thiên Chúa. Trong ư nghĩa sâu xa, tội lỗi là sự phủ nhận Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, trong tương quan với con người và phủ nhận điều Thiên Chúa muốn cho con người ngay từ đầu và măi măi. Qua việc tạo dựng con người có nam có nữ theo h́nh ảnh và giống ḿnh, Thiên Chúa muốn ban tràn đầy điều thiện hảo cho họ, là hạnh phúc siêu nhiên, do việc tham dự vào đời sống của Ngài. Khi phạm tội, con người chối từ hồng ân này, đồng thời muốn ḿnh “như thần biết điều thiện điều ác” (St 3,5), nghĩa là con người muốn tách ra khỏi Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo của ḿnh, để tự quyết định điều thiện điều ác. Tội ban đầu mang “chiều kích” nhân bản, mức độ nội tại nằm trong ư chí tự do của con người, và đồng thời cũng mang một tính chất “ma quỉ” [29] như đoạn St 3,1-5 đă nói rơ ràng. Tội lỗi gây đổ vỡ sự hợp nhất nguyên thủy mà con người được hưởng khi c̣n trong t́nh trạng công chính ban đầu, gây đổ vỡ sự kết hợp với Thiên Chúa là nguồn gốc sự hợp nhất trong bản thân “cái tôi”, đổ vỡ trong tương quan hỗ tương giữa người nam và người nữ (“communio personarum”) và cuối cùng trong tương quan đối với thế giới bên ngoài, với cả vũ trụ. Tŕnh thuật Thánh Kinh về việc sa ngă trong chương St 3 theo cách “phân định” vai tṛ của người đàn ông và người đàn bà. Sau này, một số đoạn Thánh Kinh cũng nhắc đến việc này, như thư thánh Phaolô gửi cho ông Timôthê: “V́ Ađam được tạo dựng trước, rồi mới đến Evà. Cũng không phải Ađam đă bị dụ dỗ, nhưng là người đàn bà đă phạm tội, khi dụ dỗ” (1 Tm 2,13-14). Không cần đá động đến vai tṛ của ông bà nguyên tổ, Thánh Kinh cho thấy rơ ràng tội lỗi đầu tiên là tội của con người đă được Thiên Chúa tạo dựng có nam có nữ. Đó cũng là tội của “tổ tông”, từ đó tội mang tính di truyền. Theo nghĩa này, chúng ta gọi đó là “nguyên tội”. Như đă nói, chúng ta không thể hiểu tội này cách đúng đắn nếu không liên kết với mầu nhiệm tạo dựng con người có nam có nữ theo h́nh ảnh Thiên Chúa. Việc liên kết này sẽ cho thấy mầu nhiệm “không giống” Thiên Chúa do tội gây nên, biểu lộ qua sự dữ hiện tại trong lịch sử vũ trụ: đó là việc “không giống” Thiên Chúa, “Đấng duy nhất tốt lành” (x. Mt 19,17) và viên măn của sự thiện. Nếu sự “không giống” của tội lỗi so với Thiên Chúa là Đấng Thánh, giả thiết phải có sự “giống” trong lănh vực tự do của ư chí, phải xác định rằng sự “không giống do tội lỗi” lại càng bi đát và đau khổ hơn nữa. Điều này đụng chạm đến chính Thiên Chúa là Đấng Sáng tạo và là Người Cha, “xúc phạm” đến Ngài ngay trong nền tảng hồng ân ban tặng thuộc kế hoạch vĩnh cửu của Ngài dành cho loài người. Cùng một lúc, con người – đàn ông và đàn bà – cũng bị sự dữ của tội lỗi do chính họ gây ra tấn công. Bản văn Thánh Kinh ở chương St 3 cho thấy điều này rơ ràng qua t́nh trạng mới của con người trong thế giới thụ tạo: con người phải “cực nhọc” để sinh tồn (x. St 3,17-19); người đàn bà phải đau đớn khi sinh nở (x. St 3,16); cuối cùng là cái chết chấm dứt cuộc đời con người trên mặt đất. Con người sẽ “trở về với đất, v́ từ đất, con người đă được lấy ra”: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19). Các lời trên đây đă được xác nhận từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các lời này không muốn nói “h́nh ảnh và giống Thiên Chúa” nơi con người bị phá hủy, nhưng chỉ nói “bị xáo trộn” [30] và trong một ư nghĩa nào đó “bị giảm thiểu”. Trong thực tế, tội lỗi đă làm “giảm đi” con người, như Công đồng Vaticanô II đă nói [31]. Nếu do bản tính nhân vị của ḿnh, con người là h́nh ảnh và giống Thiên Chúa, sự vĩ đại và phẩm giá của họ được phát triển trong giao ước với Thiên Chúa, trong sự kết hợp với Ngài, trong cố gắng tiến đến sự hợp nhất do chính Thiên Chúa thiết đặt trong sáng tạo. Sự hợp nhất này thích ứng với chân lư sâu thẳm của các thụ tạo được phú bẩm lư trí, đặc biệt là con người, v́ ngay từ đầu họ đă được Thiên Chúa nâng lên trên mọi thụ tạo của thế giới hữu h́nh qua việc tuyển chọn trong Đức Kitô: “Trong Đức Kitô, Người đă chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ (...); theo ư muốn và ḷng nhân ái của Người, Người đă tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,4-6). Căn cứ vào giáo huấn toàn bộ Thánh Kinh, có thể nói, việc tiền định cho tất cả mọi người đều trực tiếp đến với mỗi người, nam cũng như nữ, không trừ ai. “Nó sẽ thống trị ngươi” 10. Tŕnh thuật Thánh Kinh theo sách Sáng Thế xác định các hệ quả của tội lỗi con người, cũng như cho thấy sự xáo trộn tương quan nguyên thủy giữa đàn ông và đàn bà, tương quan phù hợp với phẩm giá của họ như nhân vị. Con người, đàn ông cũng như đàn bà, là một nhân vị và v́ thế là “thụ tạo duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng v́ chính họ trên trái đất này”, đồng thời là thụ tạo duy nhất tuyệt đối “có thể hiện thực chính bản thân ḿnh qua việc hiến thân trọn vẹn” [32]. Đây là khởi điểm liên hệ hiệp thông nổi bật trong việc “hợp nhất giữa hai người” và phẩm giá của người đàn ông cũng như người đàn bà như các nhân vị. Khi đọc cách Thánh Kinh tŕnh bày về người phụ nữ với những lời như sau: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi” (St 3,16), chúng ta khám phá sự đổ vỡ và hăm dọa liên tục cho sự “hợp nhất giữa hai người”, sự hợp nhất thích ứng với phẩm giá của h́nh ảnh Thiên Chúa trong cả hai. Đối với người phụ nữ, sự hăm dọa này rất trầm trọng. Từ nay sự thống trị xuất hiện ngay trong vị trí “hiến dâng thật sự”, một sự hiến dâng cả cuộc sống cho kẻ khác: “Nó sẽ thống trị ngươi”. Sự “thống trị” này cho thấy sự xáo trộn và làm suy yếu đi sự b́nh đẳng nền tảng mà người nam và người nữ đều có trong sự “hợp nhất giữa hai người”: điều này gây ảnh hưởng xấu nơi người phụ nữ, trong khi sự b́nh đẳng có được do phẩm giá của cả hai như nhân vị mới có thể đem lại cho tương quan hỗ tương đặc tính đích thực của một “communio personarum” (hiệp thông nhân vị). Nếu vi phạm đến sự b́nh đẳng, được Thiên Chúa Sáng Tạo ban cho như quà tặng và quyền lợi, tác hại đến người phụ nữ, sẽ đồng thời cũng giảm đi phẩm giá đích thực của người đàn ông. Ở đây chúng ta đụng chạm đến điểm nhạy cảm nhất trên b́nh diện “luân lư – Ethos” mà ngay từ đầu Đấng Sáng Tạo đă liên kết bằng một thực tại là cả hai được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Ngài. Xác quyết nơi đoạn St 3,16 có một ư nghĩa lớn lao và tầm quan trọng đặc biệt, hướng ư đến liên hệ hỗ tương giữa người nam và người nữ trong hôn nhân. Ở đây muốn nói đến sự: khao khát phát sinh trong t́nh yêu hôn nhân, tác động trên việc “hiến dâng thật sự” về phía người đàn bà để mong chờ một sự “hiến dâng” tương tự như vậy về phía người đàn ông như lời đáp trả và hoàn tất. Chỉ căn cứ trên nền tảng nguyên tắc này mà cả hai và đặc biệt là người phụ nữ mới có thể “t́m được chính ḿnh” như “sự hợp nhất đích thực giữa hai người”, phù hợp với phẩm giá nhân vị của họ. Người phụ nữ không được trở thành đối tượng cho sự thống trị và chiếm đọat của người đàn ông. Các lời Thánh Kinh đụng chạm trực tiếp vào nguyên tội và hậu quả của nó kéo dài trên người đàn ông và người đàn bà. Họ bị tính chất di truyền của tội lỗi hành hạ và luôn mang “mầm mống tội lỗi” ngay nơi ḿnh, có nghĩa là xu chiều vi phạm trật tự luân lư. Xu chiều này nổi bật trong dục vọng có ba mặt, mà theo bản văn tông truyền là “dục vọng của tính xác thịt, của đôi mắt và thói cậy ḿnh có của” (x. 1 Ga 2,16). Các lời trong sách Sáng Thế được trích dẫn bên trên (3,16) cho thấy rơ dục vọng ba mặt này như “mầm mống tội lỗi” đè nặng trên liên hệ hỗ tương giữa người đàn ông và người đàn bà. Những lời trong sách Sáng Thế trực tiếp nói đến hôn nhân; gián tiếp đến những lănh vực khác của đời sống xă hội: những hoàn cảnh người phụ nữ bị thua thiệt hay bị khinh miệt chỉ v́ là đàn bà. Chân lư mạc khải về việc sáng tạo con người có nam có nữ được xem như nền tảng chính yếu chống lại các t́nh trạng thực sự có hại một cách khách quan, có nghĩa là bất công, chứa chất và làm nổi bật gia sản tội lỗi mà mỗi người mang lấy trong ḿnh. Trong nhiều đoạn, các sách Thánh xác nhận những t́nh trạng thực tế này và nói lên sự cần thiết phải hoán cải, có nghĩa là phải thanh tẩy khỏi sự xấu và giải thoát ḿnh khỏi tội lỗi: tức là khỏi những ǵ xúc phạm đến kẻ khác, những ǵ “giảm thiểu” con người, không những nơi người bị xúc phạm mà cả người đă làm như thế. Đó là sứ điệp bất biến của lời Thiên Chúa mạc khải. Chính trong sứ điệp đó, “luân lư” theo Thánh Kinh mới được biểu lộ với tất cả sự triệt để của ḿnh [33]. Trong thời đại chúng ta, vấn đề “quyền của người phụ nữ” đă đạt được ư nghĩa mới trong liên hệ các quyền nhân vị của con người. Khi soi sáng đề án luôn được giải thích và nhắc nhớ qua nhiều h́nh thức này, sứ điệp của Thánh Kinh và của Phúc Âm bảo vệ chân lư về sự hợp nhất giữa cả hai người, có nghĩa là về phẩm giá và ơn gọi do sự khác biệt và tính chất đặc thù của người nam và người nữ. V́ thế, việc phản đối hợp lư của phụ nữ chống lại lời nói trong Thánh Kinh: “Nó sẽ thống trị ngươi” (St 3,16) trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không thể đưa đến việc “nam hóa” người đàn bà. Dù nhân danh việc giải phóng khỏi “sự thống trị” của đàn ông, người phụ nữ không thể loại bỏ đặc tính nữ giới của ḿnh để nhận những đặc thù cơ bản của nam giới được. Thực sự có một sự lo sợ khi thực hiện như thế, người phụ nữ không thể tự triển nở, nhưng ngược lại trở nên dị dạng và mất đi sự phóng phú tất yếu của ḿnh. Đó là một sự phong phú vĩ đại. Theo tŕnh thuật Sáng Thế của Thánh Kinh, tiếng kêu đầy kinh ngạc của con người đầu tiên khi nh́n thấy người phụ nữ vừa được tạo dựng là một tiếng kêu đầy thán phục và ngây ngất, tiếng kêu này đă xuyên suốt trọn lịch sử của loài người. Những khả năng cá nhân của tính chất nữ giới không thấp hơn các khả năng của nam giới, chỉ khác biệt mà thôi. Người phụ nữ – cũng như người đàn ông – phải cố gắng “hiện thực” như là nhân vị, phẩm giá và ơn gọi dựa theo nền tảng các khả năng này, phù hợp với sự phong phú thuộc nữ giới, đó là điều người phụ nữ đă đón nhận ngay từ lúc được tạo dựng và đón nhận tính chất đặc thù là h́nh ảnh của Thiên Chúa như gia sản của ḿnh. Chỉ theo cách thức đó mới có thể chiến thắng được gia sản tội lỗi mà Thánh Kinh đă nói qua câu: “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi”. Việc vượt thắng gia sản xấu xa này phải lá trách nhiệm của mỗi người, đàn ông cũng như đàn bà và từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực vậy, trong mọi trường hợp người đàn ông đều phải chịu trách nhiệm về sự xúc phạm phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ, qua đó họ cũng hành động chống lại phẩm giá và ơn gọi của chính ḿnh. Tiền Tin Mừng 11. Sách Sáng Thế xác định tội lỗi là điều xấu ở “thuở ban đầu” của loài người cùng với các hậu quả của nó, từ ngày đó vẫn đè nặng trên toàn thể nhân loại, đồng thời sách cũng có lời loan báo đầu tiên về chiến thắng trên điều xấu, chiến thắng tội lỗi. Đoạn St 3,15 thường được gọi là Tiền Tin Mừng minh chứng điều này: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa ḍng giống mi và ḍng giống người ấy; ḍng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”. Đây là lời loan báo về Đấng Cứu độ, Đấng Cứu Chuộc trần gian; lời này lại liên quan đến “người phụ nữ”. Người phụ nữ này được gợi lên ở vị trí đầu tiên trong Tiền Tin Mừng, được xem là tổ mẫu của Đấng Cứu độ loài người [34]. Nếu việc cứu độ được thành tựu qua cuộc chiến chống điều xấu do sự “hận thù” giữa miêu duệ người nữ và miêu duệ của “cha sự dối trá” (Ga 8,44) là kẻ gây ra tội lỗi trong lịch sử loài người, th́ đó cũng là sự hận thù giữa nó và người nữ. Các lời này khai mở toàn bộ mạc khải, trước tiên là sự chuẩn bị cho Tin Mừng và tiếp đến là chính Tin Mừng. Trong viễn cảnh này có bóng dáng hai người nữ: đó là bà Eva và Đức Maria, liên kết với nhau dưới danh xưng là “người nữ”. Dưới ánh sáng của Tân Ước, các lời Tiền Tin Mừng làm nổi bật sứ vụ của người phụ nữ trong cuộc chiến của Đấng Cứu độ chống lại tác giả sự xấu trong lịch sử nhân loại. Việc so sánh Eva-Maria luôn xuất hiện trong suy tư về gia sản đức tin được lănh nhận từ mạc khải của Thiên Chúa; đây là một đề tài thường được các giáo phụ, các văn sĩ Hội Thánh và các nhà thần học triển khai [35]. Việc so sánh này làm nổi bật sự khác biệt, một sự tương phản. Bà Eva là “mẹ chúng sinh” (St 3,20), nhân chứng của “khởi nguyên” theo Thánh Kinh,trong đó chứa chất chân lư về việc tạo dựng con người theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa và chân lư về nguyên tội. Đức Maria là chứng nhân của “khởi nguyên” mới và “sáng tạo” mới (x. 2 Cr 5,17). Chính Mẹ là “người đầu tiên được cứu trong lịch sử cứu độ, v́ thế được gọi là “thụ tạo mới”: Mẹ là “Đấng đầy ân sủng”. Chúng ta sẽ không thể hiểu được tại sao các lời trong Tiền Tin Mừng lại nhấn mạnh đến “người phụ nữ”, nếu không chấp nhận giao ước mới và đứt khoát của Thiên Chúa với nhân loại, đó là giao ước được kư kết trong máu cứu độ của Đức Kitô, đă khởi đầu nơi bà. Giao ước bắt đầu với một phụ nữ, đó là người “phụ nữ” trong mầu nhiệm Truyền tin tại Nazareth. Đó là điều tuyệt đối mới của Tin Mừng: biết bao lần trong Cựu Ước, Thiên Chúa nói với nhiều người phụ nữ, tỉ như với người mẹ của tiên tri Samuel và của ông Samson, để can thiệp vào lịch sử của dân Ngài; để kư kết một giao ước với nhân loại; Ngài cũng nói với nhiều đàn ông: ông Noe, ông Abraham… Nhưng khởi đầu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu và bất biến, lại xuất hiện người phụ nữ: Đức Trinh Nữ thành Nazareth. Đó là một dấu chỉ, trong “Đức Giêsu Kitô” “không c̣n việc phân biệt đàn ông hay đàn bà” (Gl 3,28). Trong Người, sự đối kháng giữa người nam và người nữ – gia sản của nguyên tội – đă được thắng vượt cách triệt để. Như Thánh Tông đồ đă viết: “Tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,28). Những lời này nhằm đến “sự hợp nhất nguyên thủy giữa hai người” được đặt trong liên hệ với việc tạo dựng con người có nam có nữ, theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa, theo nguyên mẫu của sự hiệp thông nhân vị trọn vẹn nhất, chính là Thiên Chúa. Lời của thánh Phaolô xác nhận mầu nhiệm cứu độ loài người trong Đức Giêsu Kitô, Con của Đức Maria, lấy lại và canh tân điều phù hợp với kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa trong mầu nhiệm sáng tạo. V́ thế vào ngày tạo dựng con người có nam có nữ: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đă làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31). Theo nghĩa nào đó, ơn cứu độ được xem như việc thiết đặt lại tận gốc rễ điều thiện hảo đă bị suy giảm ngay trong bản chất v́ tội lỗi và hậu quả của tội trong lịch sử loài người. Người phụ nữ trong Tiền Tin Mừng được đưa vào viễn ảnh của ơn cứu độ. Sự so sánh giữa Eva và Đức Maria có thể hiểu theo nghĩa, Đức Maria là mầu nhiệm của “người phụ nữ” mà khởi điểm của mầu nhiệm này là bà Eva, “mẹ chúng sinh” (St 3,20); Đức Maria đón nhận mầu nhiệm này vào chính bản thân ḿnh và đưa mầu nhiệm này vào trong mầu nhiệm của Đức Kitô – “vị Ađam mới và cuối cùng” (1 Cr 15,45) – Đấng đón nhận bản tính của Ađam đầu tiên vào trong con người của ḿnh. Bản chất của Giao Ước mới hệ tại ở chỗ Con Thiên Chúa đồng bản thể với Chúa Cha vĩnh cửu, đă làm người: Người đón nhận nhân tính vào ngôi vị thiên linh duy nhất của Ngôi Lời. Đấng hoàn tất công cuộc cứu độ cũng là con người đích thực. Mầu nhiệm cứu độ trần gian giả thiết Chúa Con đă thu nhận nhân tính như gia sản của Ađam, trong nhân tính đó Người trở nên giống Ađam và từng người chúng ta trong mọi sự “ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4,15). Như Công đồng Vaticanô II dạy: “Người tỏ lộ đầy đủ con người cho con người và giúp họ khám phá ơn gọi cao thượng của ḿnh” [36]. Người đă giúp tái khám phá “con người là ai” (x. Tv 8,5). Trong truyền thống đức tin và suy tư Kitô giáo qua mọi thời đại, việc so sánh Ađam – Đức Kitô thường đi sóng đôi với việc so sánh Eva – Maria. Người ta muốn nói ǵ khi so sánh Đức Maria như bà “Eva mới”? Chắc chắn có nhiều ư nghĩa, nhưng phải dừng lại ư nghĩa mạc khải gán cho Đức Maria những ǵ chứa đựng trong thuật ngữ “phụ nữ” theo Thánh Kinh, một mạc khải sâu xa theo chiều kích mầu nhiệm cứu độ. Theo nghĩa này, Đức Maria vượt qua những ranh giới mà sách Sáng Thế nói đến (St 3,16) và trở về “khởi điểm”, nơi chúng ta gặp được người phụ nữ trong công tŕnh tạo dựng, có nghĩa là trong kế hoạch muôn đời của Thiên Chúa, trong ḷng của Ba Ngôi Cực Thánh. Đức Maria là “khởi điểm mới” cho phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ, cho mọi người phụ nữ và cho từng người phụ nữ [37]. Những lời của tác giả Phúc Âm gán vào miệng Đức Maria sau cuộc Truyền Tin, khi Mẹ đến viếng thăm bà Elisabeth, có thể giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm trên: “Đấng Toàn Năng đă làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49). Những lời này rơ ràng đề cập đến việc thụ thai “Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,32), cũng là “Đấng Thánh” của Thiên Chúa, nhưng cũng có nghĩa như một sự khám phá nhân tính đặc thù của người phụ nữ. “Đấng Toàn Năng đă làm cho tôi biết bao điều cao cả”: đó chính là việc khám phá sự phong phú trọn vẹn, các khả năng cá nhân của nữ giới, tính chất đặc thù được phú ban từ muôn thuở của người phụ nữ như Thiên Chúa muốn, như một con người độc lập, nhưng đồng thời thực hiện được chính ḿnh qua việc “hiến thân vô vị lợi”. Việc khám phá này đi đôi với ư thức về hồng ân, về ḷng quảng đại của Thiên Chúa. Ngay từ “ban đầu”, tội lỗi đă làm lu mờ ư thức này, có thể nói là bóp nghẹt ư thức này, như chúng ta thấy trong tŕnh thuật về cơn cám dỗ đầu tiên do “cha sự dối trá” (St 3,1-5) gây nên. Khi “thời viên măn” (Gl 4,4) đến trong lịch sử nhân loại, lúc mầu nhiệm cứu độ bắt đầu được thực hiện, ư thức này đă trỗi dậy với tất cả sự mạnh mẽ trong lời của “người phụ nữ” thành Nazareth. Trong Đức Maria, bà Eva khám phá lại phẩm giá đích thực của người phụ nữ, của nữ giới. Việc khám phá này phải luôn đánh động tâm hồn mỗi người phụ nữ, đem lại ư nghĩa cho ơn gọi và đời sống của họ.
V. ĐỨC GIÊSU KITÔ “Các ông ngạc nhiên v́ thấy Người nói chuyện với người phụ nữ” 12. Các lời Tiền Tin Mừng trong sách Sáng Thế giúp chúng ta bước vào b́nh diện Tin Mừng. Việc cứu độ loài người đă được loan báo trong các lời đó nay trở thành hiện thực nơi con người và sứ vụ của Đức Giêsu Kitô, nhờ đó chúng ta khám phá được thực tại của ơn cứu độ mang ư nghĩa ǵ đối với phẩm giá và ơn gọi người phụ nữ. Ư nghĩa này xuất hiện rơ ràng trong lời và thái độ của Đức Kitô đối với phụ nữ, một thái độ đơn thuần, nhưng rất khác thường trong thời đại của Người: một thái độ mang đậm nét sâu xa và sáng tỏ. Nhiều phụ nữ xuất hiện trên bước đường sứ vụ của Đức Giêsu thành Nazareth, và cuộc gặp gỡ của Người với từng bà là một xác nhận “đời sống mới” theo Tin Mừng mà chúng ta đă nói tới. Mọi người đều chấp nhận – kể cả những người có lập trường phê phán Tin Mừng Kitô giáo – đối với những người đồng thời, Đức Kitô đă trở thành trạng sư bênh vực phẩm giá đích thực của người phụ nữ và ơn gọi phù hợp với phẩm giá đó. Điều này gây bất ngờ và thán phục, nhưng đôi khi cũng gây cớ vấp phạm: “Các ông ngạc nhiên v́ thấy Người nói chuyện với một phụ nữ” (Ga 4,27); v́ thái độ này rất lạ lẫm đối với người thời đại. Các môn đệ của Người cũng kinh ngạc. Khi người đàn bà tội lỗi bước vào nhà người Pharisêu để xức dầu thơm lên chân Chúa Giêsu, ông ta nghĩ: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, th́ hẳn phải biểt rơ người đàn bà đang đụng vào ḿnh là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!” (Lc 7,39). Khi nghe Chúa Giêsu nói: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31), những thính giả tự măn đă bực tức và “phẫn nộ v́ sự thánh thiện”. Đấng đă nói và hành động như thế, cho thấy rơ Người thấu hiểu các “mầu nhiệm Vương Quốc”. Chính Người “biết có ǵ trong ḷng con người” (Ga 2,25), trong thâm sâu, trong “tâm tư” của họ. Người là chứng nhân kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa về việc con người có nam có nữ, nhờ Người mà được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Ngài. Người cũng ư thức rơ ràng các hậu quả của tội lỗi, về “mầu nhiệm sự dữ” đang làm xáo trộn h́nh ảnh Thiên Chúa nơi tâm hồn con người. Việc tranh luận quan trọng về hôn nhân và đặc tính bất khả phân ly của hôn nhân giữa Chúa Giêsu với các thầy “thông luật” mang nhiều ư nghĩa, khi Người viện dẫn về “lúc khởi đầu!”. Vấn nạn được đưa ra về quyền của người đàn ông “có được phép rẫy vợ ḿnh v́ bất cứ lư do nào không?” (Mt 19,3), nhưng cũng đụng đến quyền của người phụ nữ, đến vị trí đúng đắn của họ trong hôn nhân, đến phẩm giá của họ. Những người đối thoại với Chúa Giêsu dựa theo luật lệ của Môisê đang thịnh hành trong Israel: “Thế sao ông Môisê lại truyền cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?” (Mt 19,7). Chúa Giêsu trả lời: “V́ các ông ḷng chai dạ đá, nên ông Môisê đă cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu” (Mt 19,8). Chúa Giêsu nại đến “thuở ban đầu”, đến việc tạo dựng con người có nam có nữ và vào trật tự của Thiên Chúa đặt nền tảng cho cả hai được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Ngài. Chính v́ thế, khi người đàn ông “ĺa cha mẹ ḿnh” mà gắn bó với vợ ḿnh, để cả hai trở thành một xương một thịt, th́ lề luật nền tảng này của Thiên Chúa vẫn luôn có giá trị: “Vậy, sự ǵ Thiên Chúa đă phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6). Luật nền tảng cho “Ethos – Luân lư” này được xác định ngay lúc khởi đầu sáng tạo, giờ đây được Đức Kitô xác nhận, chống lại truyền thống kỳ thị người phụ nữ. Trong truyền thống này, người đàn ông “thống trị” không đếm xỉa ǵ đến người phụ nữ và phẩm giá của họ, mà “luân lư” của sáng tạo đặt nền tảng cho những liên hệ hỗ tương của hai nhân vị kết hợp trong hôn nhân. “Luân lư” này được lời của Đức Kitô gợi lại và củng cố: đó là “luân lư” của Tin Mừng và của ơn cứu độ. Các phụ nữ trong Phúc Âm 13. Khi đọc Phúc Âm, chúng ta thấy có một số đông phụ nữ thuộc nhiều lứa tuổi và hoàn cảnh khác nhau. Có những phụ nữ bệnh tật, đau đớn trong thân xác, như bà “bị quỷ làm cho tàn tật đă mười tám năm. Lưng bà c̣ng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được” (Lc 13,11), hay bà mẹ vợ của ông Phêrô “lên cơn sốt, nằm trên giường” (Mc 1,30), hay là người đàn bà “bị loạn huyết mười hai năm”, không được phép đụng chạm đến ai, v́ sự đụng chạm của bà sẽ làm cho người ta ra ô uế (x. Mc 5,25-34). Mỗi phụ nữ trong số các người này đều được cứu chữa, và bà cuối cùng (bị loạn huyết) chạm đến áo Chúa Giêsu “giữa đám đông” (Mc 5,27) được Người khen ngợi v́ ḷng tin của bà: “Ḷng tin của con đă cứu chữa con” (Mc 5,34). Con gái của ông Giarô được Chúa Giêsu cho sống lại bằng một lời đầy t́nh thương: “Này bé, Thầy truyền cho em: trỗi dậy đi!” (Mc 5,41). C̣n bà góa thành Naim, v́ Chúa Giêsu động ḷng thương, đă cho con trai duy nhất của bà được sống lại: “Trông thấy bà, Chúa chạnh ḷng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa” (Lc 7,13). Cuối cùng là người đàn bà thành Canaan, một người đàn bà với t́nh mẫu tử đầy niềm tin, khiêm tốn và quảng đại, đă được Chúa Giêsu công nhận cách đặc biệt: “Này bà, ḷng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao th́ sẽ được vậy” (Mt 15,28). Bà này van xin Chúa cứu chữa cho con gái của bà. Những người phụ nữ gặp gỡ Chúa Giêsu và đón nhận nhiều ân sủng vĩ đại của Người, tháp tùng Người, khi Người cùng với các môn đệ rảo qua các thành phố và các làng mạc để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa; “các bà này đă lấy của cải ḿnh mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ”. Phúc Âm nêu danh tánh của họ, trong đó có bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lư của vua Herôđê, bà Susanna và “nhiều bà khác nữa” (x. Lc 8,1-3). Đôi khi bóng dáng người phụ nữ cũng xuất hiện trong các dụ ngôn được Đức Giêsu thành Nazareth sử dụng để nói về Nước Thiên Chúa cho các thính giả của ḿnh, như dụ ngôn về đồng tiền bị thất lạc (x. Lc 15,8-10), về nắm men (x. Mt 13,32), về các cô thiếu nữ khôn ngoan và khờ dại (x. Mt 25,1-13). Đặc biệt nhất là tŕnh thuật về đồng tiền kẽm của bà góa nghèo. Trong khi “những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền (…), một bà góa túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm”. Chúa Giêsu nói: “Bà góa nghèo này đă bỏ vào nhiều hơn ai hết (…); c̣n bà này, th́ rút từ cái túng thiếu của ḿnh, mà bỏ vào đó tất cả những ǵ bà có để sống” (Lc 21,1-4). Đức Giêsu đặt bà làm gương cho mọi người và bênh đỡ bà, chỉ v́ trong hệ thống xă hội và luật lệ vào thời đó, các bà góa không được ai bảo vệ cả (x. Lc 18,1-7). Trong tất cả giáo huấn cũng như thái độ của Đức Giêsu, chúng ta không thấy kỳ thị nào đối với phụ nữ, là điều rất phổ biến trong thời đại Người. Ngược lại, lời nói và hành động của Người đều toát lên sự tôn trọng và đề cao người phụ nữ cách xứng đáng. Người đàn bà c̣ng lưng được Người gọi là “con gái của Abraham” (Lc 13,16) trong khi tước hiệu này (dưới h́nh thức “con Abraham”) trong toàn bộ Thánh Kinh chỉ dành cho người đàn ông. Trên đường khổ nạn lên Golgotha, Đức Giêsu nói với các người đàn bà: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc tôi làm ǵ!” (Lc 23,28). Cách nói về người phụ nữ và với người phụ nữ, cũng như cách tiếp xúc với họ biểu lộ một cái ǵ “hoàn toàn mới” so với phong tục thời đó. Điều này lại càng nổi bật hơn nơi các phụ nữ bị người đời khinh chê như các bà tội lỗi, đĩ điếm và ngoại t́nh. Như người đàn bà xứ Samarie được tiếp xúc với Đức Giêsu; Người nói: “Chị đă năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”. Khi bà ta thấy Người thấu rơ những điều sâu kín của cuộc đời ḿnh, đă công nhận Người là Đấng Messias và vội vă công bố cho những người đồng hương biết. Cuộc đối thoại đi trước nhận thức này thuộc về những đoạn đẹp nhất trong Phúc Âm (x. Ga 4,7-27). Một bà tội lỗi công khai, dù bị mọi người kết án, vẫn bước vào nhà người Pharisêu, để xức dầu thơm vào chân Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với người đàn bà trước vị chủ nhà đang khó chịu v́ thái độ này: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đă được tha, bằng cớ là chị đă yêu mến nhiều” (x. Lc 7,37-47). Cuối cùng là trường hợp nổi bật nhất trong các cuộc tiếp xúc này: người ta đem đến cho Đức Giêsu một người đàn bà bị bắt tại trận đang phạm tội ngoại t́nh. Đức Giêsu trả lời cho câu hỏi “Trong sách Luật, ông Môisen truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. C̣n Thầy, Thầy nghĩ sao?”: “Ai trong các ông sạch tội, th́ cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Chân lư nằm trong câu trả lời này thật mạnh mẽ, đến độ “họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi”. Chỉ c̣n Đức Giêsu và người đàn bà ở lại. “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” – “Thưa ông, không ai cả!” – “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”(Ga 8,3-11). Các mẩu chuyện trên đây tạo thành một bức tranh tổng hợp thật trong sáng. Đức Kitô là Đấng “biết có ǵ trong ḷng con người”, trong người nam cũng như nơi người nữ. Người biết phẩm giá con người, giá trị của họ trước mặt Thiên Chúa. Người là Đấng Cứu độ, là sự xác nhận cuối cùng của giá trị này. Thái độ của Đức Giêsu đối với các phụ nữ mà Người gặp trên đường phục vụ cứu độ, phản ánh kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng từng người, tuyển chọn và yêu mến họ trong Đức Kitô (x. Ep 1,1-5). V́ thế mỗi người nữ là “thụ tạo độc đáo được Thiên Chúa muốn v́ chính họ”. Mỗi người nữ “ngay từ ban đầu” lănh nhận phẩm giá nhân vị là phụ nữ. Đức Giêsu thành Nazareth xác nhận phẩm giá này, gợi lại, canh tân và tạo phẩm giá này thành nội dung của Tin Mừng và của ơn cứu độ, v́ chính điều này mà Người được sai đến trần gian. Chúng ta phải đặt từng lời của Đức Kitô khi tiếp xúc với phụ nữ và từng cử chỉ của Người trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục sinh. Chỉ với cách thức đó chúng ta mới có thể thấy hết ư nghĩa của chúng. Người đàn bà bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại t́nh 14. Đức Giêsu thông cảm hoàn cảnh cụ thể của người phụ nữ, hoàn cảnh bị di sản tội lỗi hành hạ. Di sản này xuất hiện qua các tập tục kỳ thị phụ nữ để tôn vinh người đàn ông; điều này ăn sâu vào người phụ nữ. Dưới cái nh́n này, câu chuyện về người đàn bà “bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại t́nh” (Ga 8,3-11) mang đặc tính thuyết phục. Vào lúc cuối, Đức Giêsu nói với bà ta: “Từ nay đừng phạm tội nữa”; nhưng trước đó Người gợi lên ư thức tội lỗi nơi những người đàn ông đang tố cáo bà, chỉ muốn ném đá bà cho chết; đồng thời Người cho thấy ḿnh có khả năng nh́n thấu lương tâm và hành động con người. Gần như Đức Giêsu muốn nói với những người tố cáo: người đàn bà này với tất cả tội lỗi của ḿnh có phải là chứng cứ cho sự vi phạm lề luật của các ông, sự bất công của “giới đàn ông”, sự lạm dụng của các ông đó không? Sự thật này có giá trị cho toàn thể nhân loại. Sự kiện được tường tŕnh trong Phúc Âm thánh Gioan cũng có thể thấy trong vô số hoàn cảnh tương tự như thế trong mọi thời đại. Một người đàn bà bị bỏ rơi một ḿnh, bị tŕnh diện trước công chúng với “tội lỗi” của bà, trong khi đó sau lưng tội của bà c̣n có một người đàn ông là tội nhân, can dự “tội người khác”, đồng trách nhiệm vào tội lỗi này. Thế mà, tội của ông ta không được mọi người chú ư, được lặng lẽ bỏ qua: h́nh như ông ta không có trách nhiệm ǵ với “tội của kẻ khác”! Đôi khi ông lại trở thành nguyên cáo như trong câu chuyện này và dễ dàng quên đi tội lỗi của ḿnh. Biết bao lần người phụ nữ phải bị đền tội theo cách thức đó (có thể trong nhiều trường hợp người phụ nữ cũng can dự vào tội của người đàn ông); nhưng chỉ có bà phải đền tội và trả giá một ḿnh. Đă biết bao lần người phụ nữ bị bỏ rơi với chức vụ làm mẹ của ḿnh; trong khi người đàn ông, cha của đứa bé, không muốn mang lấy trách nhiệm? Bên cạnh không biết bao nhiêu “bà mẹ độc thân” trong xă hội, chúng ta cũng phải nghĩ đến tất cả chị em dưới áp lực nào đó cả về phía người đàn ông phạm tội, phải “bỏ” con của họ trước khi được sinh ra đời. Họ “tự giải thoát cho họ”: nhưng với giá nào đây? Ư kiến thời đại t́m mọi cách để đừng nói đến điều xấu của tội này, nhưng thường lương tâm của người phụ nữ không thể nào quên được, chính bà đă cướp đi mạng sống của con ḿnh, chỉ v́ bà không có khả năng bôi xóa “luân lư” đă được khắc ghi từ lúc ban đầu để đón nhận sự sống. Thái độ của Đức Giêsu trong sự kiện được tŕnh bày trong chương 8 Phúc Âm thánh Gioan (8,3-11) rất có ư nghĩa. Chỉ trong một số ít đoạn, Người tỏ lộ quyền lực của Người – quyền lực của sự thật – đối với lương tâm con người. Đức Giêsu b́nh thản, trầm lặng và suy tư. Nơi đây cũng như trong cuộc đối thoại với những người Pharisêu (x. Mt 19,3-9) lại không có sự liên hệ giữa ư thức của Người với mầu nhiệm “thuở ban đầu” hay sao? khi con người được tạo dựng có nam có nữ và người phụ nữ được tạo dựng với những điểm đặc thù của phụ nữ cũng như khả năng làm mẹ, được trao phó cho người đàn ông hay sao? Cả người đàn ông cũng được Đấng Sáng Tạo trao phó cho người đàn bà. Họ được trao phó cho nhau như những nhân vị, được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa. Mức độ t́nh yêu được đánh giá theo mức độ của việc trao phó này, đó là t́nh yêu hôn nhân: để trở thành việc “hiến thân vô vị lợi” cho nhau, cả hai người phải ư thức về trách nhiệm của việc hiến dâng này. Mức độ t́nh yêu đă được xác định cho cả hai – người nam và người nữ – ngay từ “ban đầu”. Sau khi phạm nguyên tội, những sức lực đối kháng hoành hành trong người nam cũng như người nữ, theo theo dục vọng có ba mặt, là “mầm mống của tội lỗi”. Những sức lực đối kháng này tác động từ thâm tâm con người. V́ thế, Đức Giêsu đă nói trong Bài Giảng trên núi: “Ai nh́n người phụ nữ mà thèm muốn, th́ trong ḷng đă ngoại t́nh với người ấy rồi” (Mt 5,28). Những lời này trực tiếp nói với người đàn ông cho thấy chân lư nền tảng về trách nhiệm của ông ta đối với người phụ nữ: về phẩm giá, chức vụ làm mẹ và ơn gọi của người phụ nữ. Gián tiếp các lời này nói với người phụ nữ. Đức Kitô đă làm hết khả năng của ḿnh, để người phụ nữ – trong phong tục và tương quan xă hội vào thời đó – t́m lại được nhân vị và phẩm giá của họ trong giáo huấn và thái độ của Người. Căn cứ vào ư định của Thiên Chúa về “sự hợp nhất giữa hai người”, phẩm giá này trực tiếp thuộc về người phụ nữ như chủ thể mang trách nhiệm cho chính ḿnh và đồng thời cho người đàn ông như trách nhiệm. Do đó, Đức Kitô kêu gọi trách nhiệm của người đàn ông. Trong bài suy niệm về phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ hôm nay, phải quy chiếu về cách đặt vấn đề mà chúng ta đă đọc được trong Phúc Âm. Phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ – cũng như của người đàn ông – có nguồn gốc vĩnh cửu trong t́nh yêu Thiên Chúa và gắn chặt vào “sự hợp nhất giữa hai người” trong những điều kiện thời đại của hiện sinh con người. V́ thế mỗi người đàn ông cần phải nhận thức rơ ràng những người phụ nữ được Thiên Chúa trao phó cho ḿnh như chị em trong cùng nhân vị, như hôn thê và vợ, trong tâm tư ḿnh có thể trở thành đối tượng cho việc ngoại t́nh hay không, những người phụ nữ cùng đồng hiện hữu với ḿnh theo nhiều cách thức trong trần gian có bị trở thành “đối tượng” hay không: đối tượng để hưởng thụ, để bóc lột. Những người phụ nữ bảo vệ sứ điệp Tin Mừng 15. Hành động và lời nói của Đức Giêsu làm nổi bật tính cách hoạt động của Người, đó là một sự phản kháng chống lại mọi xúc phạm đến phẩm giá người phụ nữ. V́ thế, các người phụ nữ thường tiếp xúc với Đức Kitô khám phá ra những chân lư Người dạy và thực hiện, dù đó là sự thật về t́nh trạng tội lỗi của các bà. Họ cảm thấy nhờ sự thật này mà ḿnh được giải phóng, được trở về chính ḿnh: họ cảm thấy được yêu với “t́nh yêu vĩnh cửu”, một t́nh yêu nổi bật trong Đức Kitô. Trong môi trường hoạt động của Đức Kitô, vị trí xă hội của họ được thay đổi. Họ cảm nhận được Đức Giêsu nói với họ về những vấn đề mà trong thời đại đó người ta ít trao đổi với phụ nữ. Một thí dụ nổi bật về điều này có lẽ là cuộc đối thoại với một bà vùng Samari bên bờ giếng Giacóp ở Sychar. Đức Giêsu biết rơ bà là một kẻ tội lỗi và cũng nói với bà điều này, nhưng Người vẫn nói với bà về những mầu nhiệm sâu xa của Thiên Chúa. Người nói với bà về quà tặng vô giá của t́nh yêu Thiên Chúa, giống như “mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Người nói với bà về Thiên Chúa, Đấng là Thần Khí, và về việc tôn thờ đích thực trong tinh thần và trong chân lư dành cho Thiên Chúa là Cha (x. Ga 4,24). Cuối cùng, Người mạc khải cho bà biết chính Người là Đấng Messias được Thiên Chúa hứa ban cho Israel (x. Ga 4,26). Đây là biến cố chưa từng xảy ra: một người phụ nữ, lại c̣n là một kẻ tội lỗi, trở thành “nữ môn đệ” của Đức Kitô; sau khi nhận ra Người, bà loan báo về Đức Kitô cho dân thành Samari và họ đă tin Người (x. Ga 4,39-42). Đây là một biến cố chưa từng xảy ra, nếu như chúng ta so sánh thái độ của các thầy thông luật trong Israel đối xử cách chung với các phụ nữ, trong khi đó cách đối xử của Đức Giêsu thành Nazareth lại là một sự kiện thông thường. Cũng trong liên hệ này nên nhắc đến hai chị em của Lazarô: “Đức Giêsu quư mến cô Matta, cùng hai người em là cô Maria và anh Lazarô” (Ga 11,5). Maria chăm chú nghe Đức Giêsu: nhưng khi thấy Matta tất bậc lo việc phục vụ, Người cho thái độ của Maria là “tốt nhất” (x. Lc 10,38-42). Trong lần gặp gỡ khác – sau khi Lazarô chết – Đức Kitô nói chuyện với Matta; trong cuộc trao đổi này, Chúa đề cập đến những chân lư sâu xa về mạc khải và đưc tin. “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đă không chết” – “Em chị sẽ sống lại” – “Con biết, em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Đức Giêsu trả lời: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, th́ dù đă chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” – “Thưa Thầy có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. (Ga 11,21-27). Sau việc tuyên xưng đức tin, Đức Giêsu làm cho Lazarô sống lại. Cuộc đối thoại với Matta là một trong những cuộc đối thoại quan trọng nhất của Phúc Âm. Đức Kitô nói với các phụ nữ về Thiên Chúa và họ đă hiểu Người: một sự đón nhận của tâm hồn và lư trí, một lời đáp trả của đức tin. Trước lời đáp trả “mang tính nữ giới”, Đức Giêsu cho thấy sự đánh giá cao và kinh ngạc, như trong trường hợp bà Canaan (x. Mt 15,28). Đôi khi Người đem đức tin sống động đầy t́nh yêu ra làm gương mẫu: Người lấy lời đáp trả xuất phát từ tinh thần và con tim của một phụ nữ làm khởi điểm cho lời rao giảng của ḿnh. Như trường hợp “người đàn bà tội lỗi” trong nhà người Pharisêu, Đức Giêsu lấy hành động cùa bà làm khởi điểm nói lên chân lư về việc tha thứ tội lỗi: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đă được tha, bằng cớ là chị đă yêu mến (tôi) nhiều. C̣n ai được tha ít th́ yêu mến ít” (Lc 7,47). Trong một lần xức dầu khác, Đức Giêsu bảo vệ người phụ nữ và hành động của chị trước mặt các môn đệ, đặc biệt là Giuđa: “Sao lại muốn gây chuyện với người phụ nữ này? Quả thật, cô ấy vừa làm cho Thầy một việc nghĩa (…). Cô ấy đổ dầu thơm trên ḿnh Thầy để mai táng Thầy đấy. Thầy bảo thật anh em: khắp thế gian, Tin Mừng này được loan báo ở đâu, người ta cũng kể lại việc cô ấy vừa làm mà nhớ tới cô”(Mt 26,6-13). Thực vậy, các sách Phúc Âm không những tường thuật điều người phụ nữ thành Betania đă làm trong nhà ông Simon bị bệnh phong, nhưng c̣n làm nổi bật sự kiện là chỉ có các bà hiện diện dưới chân thập giá trong giây phút thử thách quyết định cuối cùng và trọn vẹn cho sứ vụ Messias của Đức Giêsu thành Nazareth. Trong số các Tông đồ, chỉ có thánh Gioan là người trung thành, c̣n phụ nữ th́ nhiều. Ngoài mẹ của Đức Kitô, “chị của bà thân mẫu, vợ ông Clôphát và bà Maria thành Magdala” (Ga 19,25), c̣n có “nhiều người phụ nữ nh́n xem từ đàng xa; các bà này đă theo Đức Giêsu từ Galilê để giúp đỡ Người” (Mt 27,55). Trong thử thách nặng nề về đức tin và sự trung thành, như chúng ta thấy, các người phụ nữ mạnh mẽ hơn các môn đệ, trong giây phút nguy hiểm này t́nh yêu đă giúp họ chiến thắng sự sợ hăi. Ngay trên con đường thập già cũng có mặt những người phụ nữ “các bà vừa đấm ngực vừa than khóc Người” (Lc 23,27). Trước đó nữa bà vợ ông Philatô đă cảnh cáo chồng ḿnh: “Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, v́ hôm nay, trong chiêm bao, tôi đă khổ nhiều v́ ông ấy” (Mt 27,19). Những chứng nhân đầu tiên của cuộc Phục sinh 16. Ngay khi Đức Kitô khởi đầu sứ vụ, người phụ nữ đă chú tâm đến Người và nhạy cảm với mầu nhiệm của Người, phù hợp với đặc tính nữ giới của họ. Điều này càng thấy rơ nơi mầu nhiệm Vượt qua, không những dưới chân thập giá, nhưng ngay ở buổi sáng ngày Phục sinh. Các bà là những người đầu tiên đến bên mộ. Họ là những người đầu tiên nh́n thấy mộ trống. Họ là những người đầu tiên được nghe những lời loan báo: “Người không có ở đây, v́ Người đă trỗi dậy như Người đă nói” (Mt 28,6). Họ là những người đầu tiên ôm lấy chân Chúa (x. Mt 28,9). Họ là những người đầu tiên được trao trách nhiệm loan báo sự thật này cho các môn đệ (x. Mt 28,1-10; Lc 24,8-11). Phúc Âm thánh Gioan (so với Mc 16,9) làm nổi bật vai tṛ của bà Maria thành Magdala. Bà là người đầu tiên được gặp Đức Kitô phục sinh. Trước đó bà nhận lầm Người là ông giữ vườn; nhưng nhận ra Người khi Người gọi tên bà. “Đức Giêsu gọi bà: Maria! bà quay lại và nói bằng tiếng Hipri: “Rabbuni!” (nghĩa là ‘Lạy Thầy’). Đức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, v́ Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hăy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em!”. Bà Maria Magdala đi báo cho các môn đệ: “Tôi đă thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đă nói với bà” (Ga 29,16-18). V́ thế, người ta đă gọi bà là “tông đồ của các Tông đồ” [38]. Trước cả các Tông đồ, bà Maria Magdala là chứng nhân đầu tiên của Đức Kitô phục sinh và v́ thế là người đầu tiên làm chứng cho Người trước mặt các Tông đồ. Theo nghĩa nào đó, biến cố này như đỉnh cao cho những ǵ đă nói bên trên về việc Đức Kitô đă trao phó mầu nhiệm Thiên Chúa cho các phụ nữ – cũng như cho các ông. Chúng ta có thể nói rằng, lời các tiên tri đă ứng nghiệm: “Sau đó, Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ” (Ge 3,1). Năm mươi ngày sau cuộc phục sinh, những lời này lại được xác nhận nơi pḥng Tiệc ly tại Giêrusalem lúc Chúa Thánh Thần, Đấng Phù Trợ, ngự xuống (x. Cv 2,17). Tất cả những ǵ nói về thái độ của Đức Kitô đối với phụ nữ bây giờ được xác nhận và soi sáng trong Thánh Thần chân lư triệt để về “sự b́nh đẳng” của cả hai – đàn ông và đàn bà. V́ cả hai – nam và nữ – đều được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa, nên cả hai có cùng khả năng đón nhận quà tặng thần linh và t́nh yêu trong Thánh Thần. Cả hai đón nhận “việc thăm viếng” mang ơn cứu độ và thánh hiến. Sự kiện là nam hay nữ không tạo một rào cản nào; như lời Thánh Tông đồ, hoạt động cứu độ và thánh hóa của Chúa Thánh Thần trong con người cũng không bị giới hạn, v́ “không c̣n chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do… V́ tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,28). Sự hợp nhất này loại bỏ mọi sự khác biệt. Chúa Thánh Thần tạo ra sự hợp nhất này trong trật tự siêu nhiên, cũng làm cho “con cái các ngươi thành ngôn sứ” trong cùng một mức độ, kể cả “con gái của các ngươi”. Ngôn sứ dùng lời nói và đời sống của ḿnh để “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (x. Cv 2,11) trong khi vẫn bảo vệ chân lư và nét đặc thù của cá nhân là nam hay nữ. Sự “b́nh đẳng” theo Tin Mừng, sự “b́nh quyền” giữa nam và nữ trước những kỳ công của Thiên Chúa, như những kỳ công này bộc lộ rơ ràng trong hoạt động và lời nói của Đức Giêsu thành Nazareth, tạo thành nền tảng hiển nhiên nhất cho phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ trong Hội Thánh và trong xă hội. Mỗi ơn gọi đều mang tính chất cá nhân và ngôn sứ sâu xa. Hiểu ơn gọi như thế, nữ tính trong một cá nhân sẽ đạt được chiều kích “các kỳ công của Thiên Chúa” mà người phụ nữ là chủ thể sống động và là chứng nhân không thể thay thế được.
VI. CHỨC VỤ LÀM MẸ – SỰ ĐỒNG TRINH Hai chiều kích trong ơn gọi của người phụ nữ 17. Bây giờ chúng ta hướng suy niệm về sự đồng trinh và chức làm mẹ, hai chiều kích đặc biệt tạo thành nhân cách nữ giới. Dưới ánh sáng Tin Mừng, hai chiều kích này t́m được ư nghĩa trọn vẹn và giá trị của ḿnh trong Đức Maria, Đấng đă trở thành Mẹ đồng trinh của Con Thiên Chúa. Hai chiều kích của ơn gọi người phụ nữ được liên kết và hợp nhất trong Mẹ cách độc đáo, đến độ chiều kích này không loại bỏ chiều kích kia, ngược lại bổ túc nhau cách tuyệt vời. Tŕnh thuật Truyền tin nơi Phúc Âm thánh Luca cho thấy chính Đức Maria cũng cảm thấy không thể thực hiện được. Khi nghe lời loan báo: “Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu”, Đức Maria liền đáp: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, v́ tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Theo tự nhiên, chức vụ làm mẹ chỉ có thể là kết quả của “việc nhận biết” hỗ tương giữa người đàn ông và người đàn bà qua sự kết hợp trong hôn nhân. Đức Maria quyết tâm giữ đức đồng trinh đă đặt câu hỏi cho vị thiên sứ và nhận được lời giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà”; chức vụ làm mẹ của bà không phải là hiệu quả của việc “kết hợp trong hôn nhân”, nhưng là công tŕnh của Chúa Thánh Thần và “quyền năng Đấng Tối Cao” sẽ “rợp bóng” trên mầu nhiệm thụ thai và sinh hạ người Con. Đức Maria xác quyết sự đồng trinh của ḿnh “Tôi không biết người đàn ông nào” (x. Lc 1,34), nhưng đồng thời đă trở thành mẹ. Sự đồng trinh và chức vụ làm mẹ kết hợp cùng một lúc nơi bà. Hai chiều kích không đối nghịch và cũng không ngăn cản nhau. Con người của Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta – đặc biệt là cho mọi người nữ – khám phá làm thế nào hai chiều kích này và hai con đường của ơn gọi người phụ nữ như nhân vị giải thích và bổ túc cho nhau. Chức làm mẹ 18. Để tham gia vào việc “khám phá” này, một lần nữa chúng ta phải đào sâu chân lư về nhân vị con người mà Công đồng Vaticanô II đă gợi lại cho chúng ta. Con người – nam hay nữ – là thụ tạo duy nhất trên trần gian mà Thiên Chúa tạo dựng cho chính họ. Con người là một nhân vị, một chủ thể tự quyết định cho chính bản thân ḿnh, đồng thời “chỉ thực hiện bản thân ḿnh qua việc hiến thân cách vô vị lợi” [39]. Người ta nói rằng cách diễn tả này, theo nghĩa nào đó là một định nghĩa về nhân vị phù hợp với chân lư căn bản theo Thánh Kinh về việc tạo dựng con người – nam cũng như nữ – theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa. Đây không phải là một ư nghĩa thuần lư hay một định nghĩa trừu tượng, v́ nó đem lại ư nghĩa sự hiện hữu của con người cách căn bản, khi nhấn mạnh đến giá trị của việc tự hiến cá nhân. Quan niệm nhân vị này ngầm chứa “luân lư” được triển khai cách đầy đủ trong các sách Khải Huyền, đặc biệt trong các sách Phúc Âm khi đặt liên hệ với chân lư sáng tạo. Chân lư về con người khai lối để hiểu sâu xa hơn chức vụ làm mẹ của người phụ nữ. Chức vụ làm mẹ là hiệu quả của sự kết hợp trong hôn nhân giữa một người nam và một người nữ mà Thánh Kinh gọi là “biết” như ở sách Sáng Thế: “Cả hai trở thành một xương một thịt” (St 2,24); với cách thức đó – về phía người đàn bà – việc “hiến dâng” cách đặc biệt như cách biểu lộ t́nh yêu hôn nhân, trong đó đôi vợ chồng gắn bó với nhau thật thâm sâu, để trở thành “một thịt”. Việc “biết” theo Thánh Kinh chỉ có thể hiện thực dựa theo chân lư về con người khi quà tặng chính ḿnh cho nhau không do sự ham muốn của người đàn ông để trở thành “chủ” người đàn bà “Hắn sẽ thống trị bà”, cũng không do sự đ̣i hỏi theo bản năng nơi người đàn bà “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi” (St 3,16). Việc trao ban con người của ḿnh cho nhau trong hôn nhân được mở rộng ra cho quà tặng là một cuộc sống mới, một con người mới, cũng là con người theo h́nh ảnh của cha mẹ ḿnh. Ngay từ đầu, chức vụ làm mẹ đă hàm chứa sự sẵn sàng đón nhận một con người mới: đó là vai tṛ thực sự của người phụ nữ. Trong sự sẵn sàng đón nhận và sinh con, “người phụ nữ hiến dâng chính ḿnh cách vô vị lợi”. Quà tặng của việc sẵn sàng đón nhận và sinh con được liên kết chặt chẽ với sự kết hợp trong hôn nhân, – như đă nói – một giây phút đặc biệt cho việc dâng hiến cho nhau về phía người đàn ông và người đàn bà. Sự đón nhận và sinh hạ một con người mới, theo Thánh Kinh, luôn kèm theo một lời của “người đàn bà” và là “người mẹ”: “Nhờ Đức Chúa, tôi đă được một người” (St 4,1). Tiếng reo mừng của bà Eva, mẹ chúng sinh, được lập lại mỗi lần có con người mới xuất hiện trên trần gian, biểu lộ niềm vui và ư thức của người phụ nữ, được chia sẻ vào mầu nhiệm thẳm sâu của việc sinh hạ vĩnh cửu nơi Thiên Chúa. Đôi vợ chồng tham dự vào quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa! Chức làm mẹ của người phụ nữ giữa thời gian thụ thai và sinh hạ là một tiến tŕnh sinh lư và tâm lư, mà ngày nay chúng ta hiểu rơ hơn hôm qua và trở thành đề tài học hỏi đang được đào sâu. Việc phân tích theo khoa học xác nhận cách đầy đủ cấu trúc thể lư của người phụ nữ; cơ thể của phụ nữ được xếp đặt cách tự nhiên để làm mẹ, để thụ thai, mang thai và sinh hạ con cái sau sự kết hợp hôn nhân với người đàn ông. Đồng thời, tất cả đều phù hợp với cấu trúc tâm sinh lư của người phụ nữ. Tất cả những ǵ các ngành khoa học khác nói về đề tài này đều quan trọng và hữu ích, nếu không hạn hẹp vào cách giải thích thể lư về người phụ nữ và chức vụ làm mẹ. Một h́nh ảnh “thu ngắn” như thế sẽ đưa đến cách giải thích duy vật quan niệm về con người và vũ trụ. Trong trường hợp như vậy th́ thật đau buồn v́ người ta đánh mất điều thiết yếu: chức làm mẹ như sự kiện và hiện tượng nhân bản chỉ có thể được giải thích trên nền tảng chân lư về con người mà thôi. Chức làm mẹ liên hệ với cấu trúc cá nhân của nữ giới, với chiều kích cá nhân của việc dâng hiến: “Nhờ Đức Chúa, tôi đă được một con người” (St 4,1). Đấng Sáng Tạo ban tặng cho cha mẹ một người con. Về phía người phụ nữ, điều này liên kết cách đặc biệt với “việc hiến thân chính ḿnh cách vô vị lợi”. Những lời của Đức Maria trong giây phút Truyền Tin: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”, nói lên sự sẵn sàng của người nữ để hiến dâng và đón nhận một sự sống mói. Trong chức vụ làm mẹ, liên kết với chức vụ làm cha của người đàn ông, phản ánh mầu nhiệm vĩnh cửu trong Thiên Chúa Ba Ngôi về sự sinh hạ (x. Ep 3,14-15). Việc sinh hạ về mặt con người đều do người nam và người nữ cùng chung với nhau. Khi người phụ nữ với t́nh yêu nói với chồng ḿnh: “Em sẽ tặng anh một đứa con”, lời này có nghĩa: “Đó là đứa con của chúng ta”. Cho dù cả hai trở thành cha mẹ của đứa bé; nhưng chức làm mẹ của người đàn bà góp phần đặc biệt trong chức phụ mẫu chung này, một vai tṛ có nhiều đ̣i hỏi nhất. Chức làm cha làm mẹ thuộc về hai người, nhưng thuộc về người phụ nữ nhiều hơn, nhất là trong giai đoạn trước khi sinh. Người phụ nữ phải trực tiếp “trả giá” cho việc chung cùng mang đến một cuộc sống mới, sự trả giá này bắt người đàn bà phải tiêu hao sức lực thể xác lẫn tinh thần. V́ thế người đàn ông phải ư thức đầy đủ về món nợ đặc biệt đối với vợ ḿnh trong chức vụ phụ mẫu của ḿnh. Không một dự án “b́nh đẳng” giữa người nam và người nữ có giá trị, nếu như người ta không ư thức về trách nhiệm quyết định trong vấn đề này. Chức làm mẹ mang một sự hiệp thông đặc biệt với mầu nhiệm sự sống, đang phát triển trong dạ mẹ: người mẹ luôn ngạc nhiên trước mầu nhiệm này và “đón nhận” với một bản năng độc đáo những ǵ đang diễn ra trong chính ḿnh. Trong ánh sáng của “khởi nguyên”, người mẹ đón nhận người con đang mang trong dạ, như một nhân vị và yêu thương nó. Việc tiếp xúc duy nhất này với một con người mới đang h́nh thành, tạo cho người nữ một thái độ đúng đắn với con người – không những đối với đứa con, nhưng cách chung đối với mọi người – nhờ đó đặc tính của người nữ được nổi bật. Mọi người đều thấy rằng, người nữ có nhiều khả năng tôn trọng con người cụ thể hơn người đàn ông và chức làm mẹ đặt nền tảng để điều này triển khai tốt hơn. Người đàn ông – dù có tham gia vào chức phụ mẫu – luôn đứng “ngoài” tiến tŕnh mang thai và sinh hạ đứa con, v́ thế phải học hỏi nơi người mẹ “chức làm cha” của ḿnh. Người ta có thể nói, đây là điều b́nh thường trong tiến tŕnh phát triển tính phụ mẫu, cho dẫu sau này vẫn tiếp tục phát triển khi đứa con đă được sinh ra, nhất là trong những thời gian đầu. Nói cách chung, việc giáo dục con cái phải là trách nhiệm chung của cha mẹ: sự đóng góp của cha và mẹ. Tuy nhiên chính vai tṛ của người mẹ mới quyết định cho nhân cách của đứa con. Chức làm mẹ trong liên hệ với Giao ước 19. Suy niệm của chúng ta quay về với nguyên mẫu của người phụ nữ trong Tiền Tin Mừng. Người “đàn bà” trong vai tṛ làm mẹ và là người giáo dục đầu tiên của con người (việc giáo dục là chiều kích tinh thần của chức phụ mẫu) có một ưu thế đặc biệt so với người đàn ông. Cho dù, chức làm mẹ, trước tiên về mặt thể lư, tùy thuộc vào người đàn ông, nhưng cũng mang một “dấu ấn” quyết định trên tiến tŕnh h́nh thành nhân cách của những con trai, con gái mới mẻ của nhân loại. Chức làm mẹ của người phụ nữ trên b́nh diện thể lư h́nh như thụ động: tiến tŕnh tạo một cuộc sống mới “diễn ra” trong cơ quan của người nữ, và gắn chặt vào cơ quan này. Đồng thời chức làm mẹ trên b́nh diện cá nhân và đạo đức làm nổi bật tính sáng tạo đầy ư nghĩa của người phụ nữ, mà nhân cách của con người mới hoàn toàn lệ thuộc vào đó. Trong ư nghĩa này, chức làm mẹ của người phụ nữ cho thấy một tiếng gọi đặc biệt và một thách thức đối với người đàn ông và chức làm cha của ông ta. Nguyên mẫu của người phụ nữ theo Thánh Kinh đạt được đỉnh cao trong chức là mẹ của Mẹ Thiên Chúa. Những lời trong Tiền Tin Mừng “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà” được xác nhận cách mới mẻ ở đây. Thiên Chúa khai mở một giao ước mới với nhân loại trong Mẹ, vâng, trong tiếng “thưa vâng – Fiat” đầy t́nh mẫu tử (“Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”). Đó chính là giao ước vĩnh cửu và dứt khoát trong Đức Kitô, trong Thịt Máu của Người, trong Thập giá và sự phục sinh của Người. Chính v́ giao ước được hoàn tất trong “Thịt và Máu”, nên đă khởi đầu nơi người mẹ. “Con Đấng Tối Cao” chỉ có thể nhờ Mẹ, qua tiếng Fiat thật trinh khiết và đầy t́nh mẫu tử, mới có thể nói với Chúa Cha: “Chúa đă tạo cho con một thân thể. Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ư Ngài” (Dt 10,5.7). Chức làm mẹ của người phụ nữ được Thiên Chúa đưa vào trật tự giao ước được kư kết với nhân loại trong Đức Giêsu Kitô. Và mỗi lần, chức làm mẹ được lập lại trong lịch sử nhân loại, th́ luôn luôn nằm trong liên hệ với giao ước mà Thiên Chúa đă kư kết với loài người qua chức làm mẹ của Mẹ Thiên Chúa. Thực tại này đă được minh chứng trong lời nói của Đức Giêsu khi trả lời cho người đàn bà giữa đám đông kêu lớn tiếng chúc tụng Người qua chức làm mẹ của Mẹ Người: “Phúc thay người mẹ đă cưu mang và cho Thầy bú mớm!” Đức Giêsu trả lời: “Đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Đức Giêsu xác nhận ư nghĩa của chức làm mẹ trong chiều kích thể lư; nhưng đồng thời hướng đến một ư nghĩa sâu xa hơn, nằm trong trật tự tinh thần: đó là dấu chỉ giao ước với Thiên Chúa, Đấng là “thần khí” (x. Ga 4,24). Điều này áp dụng trước tiên cho chức vụ làm mẹ của Mẹ Thiên Chúa. Theo ánh sáng Tin Mừng, chức làm mẹ của các bà mẹ khác không chỉ do “thịt và máu”: chức vụ này c̣n biểu lộ việc “lắng nghe Lời Chúa hằng sống” và sự sẵn sàng để “ǵn giữ” lời này, đó là “lời của sự sống vĩnh cửu” (x. Ga 6,68). Thực vậy, những người con trai, con gái của nhân loại được, các bà mẹ trần thế sinh ra, cũng được Con Thiên Chúa ban cho quyền “trở thành con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Chiều kích giao ước mới trong Máu thánh Đức Kitô thấm thấu vào việc sinh hạ của con người và trở thành thực tại và trách nhiệm “của một sáng tạo mới” (x. 2 Cr 5,17). Từ cái nh́n về lịch sử từng cá nhân, chức làm mẹ là ngưỡng cửa đầu tiên phải vượt qua và cũng là điều kiện cho việc “tỏ lộ các con cái của Thiên Chúa” (x. Rm 8,19). “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn, v́ đến giờ của ḿnh, nhưng sinh con rồi, th́ không c̣n nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui v́ một con người đă sinh ra trong thể gian” (Ga 16,21). Các lời của Đức Kitô trong phần thứ nhất gợi lên “những sự đau đớn khi sinh con” thuộc về hậu quả của nguyên tội; đồng thời cho thấy liên hệ giữa chức làm mẹ của người phụ nữ với mầu nhiệm Vượt qua, v́ trong mầu nhiệm này cũng có sự đau đớn của người Mẹ dưới chân thập giá – chia sẻ trong đức tin mầu nhiệm run động việc tự hạ của Con ḿnh. “Đó là “kenosis” – sự tự hạ sâu xa nhất của đức tin trong lịch sử nhân loại” [40]. Khi nh́n vào người mẹ mà “một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn” (x. Lc 2,32), chúng ta bắt buộc phải suy nghĩ đến tất cả phụ nữ trên thế giới đang đau khổ trong thể lư lẫn tinh thần. Trong đau khổ này, tính nhạy cảm sâu xa của người phụ nữ giữ một vai tṛ quan trọng, dù họ biết kháng cự đau khổ tốt hơn người đàn ông. Không thể nào kể hết mọi thứ đau khổ: chúng ta có thể nghĩ đến sự chăm lo của người mẹ đối với các đứa con, đặc biệt khi chúng đau ốm hay hư hỏng; đối mặt với cái chết của người thân, đến sự cô đơn của các bà mẹ bị con cái trưởng thành quên lăng hay sự cô đơn của các bà góa; đến các đau khổ của những người phụ nữ phải chiến đấu một ḿnh để sống c̣n, và những phụ nữ phải chịu đựng bất công và bệnh tật hay bị bóc lột. Cuối cùng cũng có những đau khổ lương tâm v́ tội lỗi hành hạ phẩm giá con người hay phẩm giá của người mẹ, mà rất khó cứu chữa. Chúng ta phải đứng dưới thập giá của Đức Kitô với tất cả những đau khổ này. Nhưng các lời của Phúc Âm về người đàn bà âu lo v́ đến giờ phải sinh con, cũng làm nổi bật niềm vui. Đó là niềm vui “v́ một con người đă sinh ra trong thế gian”. Cả niềm vui này cũng liên hệ đến mầu nhiệm Vượt qua, có nghĩa là niềm vui mà các Tông đồ được chia sẻ vào ngày phục sinh của Đức Kitô: “Bây giờ anh em lo buồn” (lời Đức Giêsu nói một ngày trước cuộc khổ nạn và cái chết của ḿnh), “nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, ḷng anh em sẽ vui mừng và niềm vui của anh em không ai lấy mất” (Ga 16,22). Khiết tịnh và Nước Trời 20. Trong giáo huấn của Đức Kitô, chức làm mẹ được liên kết với sự khiết tịnh, nhưng khác biệt với sự khiết tịnh. Lời căn bản này được Đức Giêsu nói trong tranh luận về tính bất khả phân ly của hôn nhân. Sau khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu với người Pharisêu, các môn đệ đă hỏi Người: “Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, th́ thà đừng lấy vợ c̣n hơn” (Mt 19,10). Không đi từ ư nghĩa câu “thà đừng” theo cách hiểu của các môn đệ, Đức Kitô lấy ư kiến sai lệch của họ để dạy về giá trị của sự độc thân: Người phân biệt độc thân v́ sự thiếu sót tự nhiên, có khi do con người tạo nên, với khiết tịnh v́ Nước Trời. Người nói: “Và có những người là hoạn nhân do họ tự ư sống như thế v́ Nước Trời” (Mt 19,11). Ở đây nhắm tới sự khiết tịnh tự do về phía con người, v́ chọn định hướng vào ơn gọi cánh chung để được kết hợp với Thiên Chúa. Người c̣n nói thêm: “Ai hiểu được th́ hiểu”, câu này nhằm tất cả những ǵ Người đă nói lúc khởi đầu cuộc tranh luận về độc thân (x. Mt 19,11). V́ thế độc thân v́ Nước Trời không những là hiệu quả của một quyết định tự do về phía con người, nhưng c̣n là một ân sủng đặc biệt về phía Thiên Chúa, Đấng kêu gọi con người để sống độc thân. Nếu việc độc thân là dấu chỉ đặc biệt cho việc Nước Thiên Chúa sẽ đến, th́ đồng thời cũng cho thấy đây là sự dấn thân trọn vẹn cho vương quốc cánh chung ngay trong đời sống tại thế với tất cả sức mạnh của thể xác và tinh thần. Lời của Đức Giêsu là câu trả lời cho vấn nạn của các môn đệ, nhằm trực tiếp vào những người đặt câu hỏi; trong trường hợp này là những người đàn ông. Dù vậy, câu trả lời của Đức Kitô cũng có giá trị cho đàn ông cũng như cho đàn bà. Trong văn mạch, lời này cho thấy lư tưởng Phúc Âm về đức khiết tịnh, một lư tưởng hoàn toàn “mới” so với truyền thống Cựu Ước. Truyền thống này liên kết chặt chẽ với sự mong chờ của dân Israel, đặc biệt với người phụ nữ Do Thái, hy vọng rằng Đấng Messias sẽ đến và là “con của người đàn bà”. Lư tưởng độc thân và khiết tịnh v́ sự gần gũi với Thiên Chúa sắp đến, không phải là quá xa lạ với người Do Thái, nhất là trong thời trước khi Đức Giêsu xuất hiện. Thế nhưng sự độc thân v́ Nước Trời, tức là sự khiết tịnh, là một điều mới không cần tranh cải, liên kết chặt chẽ với việc Thiên Chúa nhập thể. Từ khi Đức Kitô đến, sự mong chờ của dân Thiên Chúa hướng về vương quốc cánh chung sắp đến; chính Đức Kitô sẽ dẫn “dân Israel mới” vào vương quốc này. Cần phải có một ư thức đức tin mới cho định hướng và thay đổi này. Đức Kitô nhấn mạnh hai lần: “Ai hiểu được th́ hiểu” – “Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu” (Mt 19,11.12). Đức Maria là người đầu tiên có được ư thức mới này khi hỏi thiên thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, v́ tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34). Dù “đă đính hôn với một người tên là Giuse”, Đức Maria quyết định giữ đức khiết tịnh; chức làm mẹ đang được thực hiện trong ḷng ḿnh, hoàn toàn do “quyền năng Đấng Tối Cao” và là hiệu quả của việc Chúa Thánh Thần bao phủ trên Mẹ (x. Lc 1,35). Chức làm mẹ thần linh là câu trả lời thật bất ngờ cho việc mong chờ nhân bản của các phụ nữ trong dân Israel: chức làm mẹ đến với Đức Maria như ân huệ của chính Thiên Chúa. Ân huệ này là khởi điểm và nguyên mẫu của một sự mong chờ mới mẻ của mọi người trong chiều kích giao ước vĩnh cửu, trong chiều kích của lời hứa mới mẻ và dứt khoát của Thiên Chúa: đó là dấu chứng của hy vọng cánh chung. Dựa trên Tin Mừng, ư nghĩa của sự khiết tịnh được khai triển và đào sâu như ơn gọi của người phụ nữ, trong đó phẩm giá của họ được xác nhận theo h́nh ảnh của Đức Trinh Nữ thành Nazareth. Tin Mừng đề ra lư tưởng về việc thánh hiến con người, điều này mang ư nghĩa một sự thánh hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa dựa trên lối sống theo các lời khuyên Tin Mừng, đặc biệt với đức khiết tịnh, sự vâng phục và khó nghèo. Chính Đức Giêsu Kitô là sự nhập thể tuyệt hảo của lối sống này. Ai muốn bước theo Người cách triệt để, phải chọn lối sống theo các lời khuyên này. Các lời khuyên này khác với các giới răn và cho người Kitô hữu thấy con đường triệt để của Tin Mừng. Ngay lúc ban đầu của Kitô giáo, nhiều người – đàn ông lẫn đàn bà – đă chọn con đường này, v́ lư tưởng Tin Mừng mời gọi mọi người, không phân biệt giới tính. Trong mạch văn rộng lớn hơn, sự khiết tịnh phải được xem là con đường cho người phụ nữ, một con đường hiện thực chính cá nhân ḿnh là phụ nữ khác hơn trong hôn nhân. Để hiểu con đường này, chúng ta phải trở về với tư tưởng nền tảng của nhân học Kitô giáo. Người phụ nữ xác định thực sự ḿnh là nhân vị trong sự khiết tịnh đă được tự do lựa chọn, như một hữu thể được Đấng Sáng Tạo ngay từ ban đầu đă muốn cho chính Ngài [41] và đồng thời họ thực hiện giá trị cá nhân là nữ giới của ḿnh, khi “hiến dâng vô vị lợi” cho Thiên Chúa, Đấng tự mạc khải trong Đức Kitô, và khi “dâng hiến” cho Đức Kitô, Đấng Cứu độ loài người và cũng là Hôn Phu của mọi tâm hồn: đó là một việc “hiến dâng” mang tính chất hôn nhân. Chúng ta không thể nào hiểu cách đúng đắn, việc thánh hiến người phụ nữ trong sự khiết tịnh, nếu không đặt liên hệ đến t́nh yêu hôn nhân: chỉ trong t́nh yêu như thế con người mới có thể “hiến dâng” cho một người khác [42]. Ngoài ra, cũng phải hiểu cách tương tự như thế với việc thánh hiến người nam trong sự độc thân linh mục hay trong bậc tu tŕ. Nền tảng tự nhiên hướng về hôn nhân của nữ giới được hiểu như lời đáp trả cho sự khiết tịnh. Người phụ nữ “ngay từ đầu” đă được mời gọi để được yêu và yêu; trong ơn gọi sống khiết tịnh, người mà họ gặp gỡ đầu tiên chính là Đức Kitô, Đấng yêu thương họ “cho đến cùng” qua việc hiến dâng chính bản thân ḿnh và người phụ nữ đáp trả quà tặng này bằng việc hiến dâng trọn cuộc sống ḿnh cách vô vị lợi. Họ hiến dâng ḿnh cho vị Hôn Phu thần linh; và việc hiến thân cá nhân hướng đến việc kết hợp mang đặc tính thiêng liêng: dưới tác động của Thánh Thần, họ trở thành “một tinh thần” với Đức Kitô, vị Hôn Phu của họ (x. 1 Cr 6,17). Đó là lư tưởng Phúc Âm về sự khiết tịnh, qua đó phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ được hiện thực cách đặc biệt. Tính triệt để của Tin Mừng biểu lộ trong sự độc thân được hiểu như là bỏ tất cả để bước theo Đức Kitô (x. Mt 19,17). Người ta không thể so sánh điều này với việc sống độc thân hay của những người không muốn lập gia đ́nh, v́ sự khiết tịnh không hạn hẹp trong một sự “phủ nhận”, nhưng c̣n bao gồm một tiếng “vâng” sâu xa trong chiều kích hôn nhân: việc hiến dâng bản thân để yêu một cách trọn vẹn, không chia sẻ. Chức làm mẹ thiêng liêng 21. Theo nghĩa Tin Mừng, sự khiết tịnh bao gồm việc từ bỏ hôn nhân và qua đó từ bỏ luôn chức làm mẹ theo thể lư. Việc từ bỏ cách làm mẹ như vậy đối với tâm hồn người nữ là một hiến dâng lớn lao, sẽ chuẩn bị cho người phụ nữ một kinh nghiệm về chức làm mẹ cách khác: chức làm mẹ “theo tinh thần” (x. Rm 8,4). Sự khiết tịnh không làm mất đi nơi người nữ những đặc tính riêng của ḿnh. Chức làm mẹ tinh thần có rất nhiều h́nh thức. Các nữ tu sống theo đặc sủng và luật lệ của nhiều Hiệp hội khác nhau có tính tông đồ, chức làm mẹ đó được thể hiện qua việc chăm sóc con người, đặc biệt những người cần giúp đỡ nhất: bệnh nhân, khuyết tật, những người bị bỏ rơi, trẻ mồ côi, người già yếu, trẻ em, thanh thiếu niên, tù nhân, và nói chung là những người sống bên lề xă hội. Người nữ tu t́m được Hôn Phu của ḿnh, vừa khác biệt vừa duy nhất trong mọi người và trong từng người, theo như lời Người nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đă làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). T́nh yêu hôn nhân luôn sẵn sàng đón nhận những người trong phạm vi hoạt động của ḿnh. Trong hôn nhân, sự sẵn sàng này dù được mở ra cho mọi người, nhưng hệ tại đặc biệt ở t́nh yêu của cha mẹ dành cho con cái. Trong sự khiết tịnh, thái độ này cũng mở ra cho mọi người, v́ họ là đối tượng t́nh yêu của Đức Kitô, Hôn Phu của ḿnh. V́ liên hệ với Đức Kitô, Đấng Cứu độ của mọi người và từng người, nên t́nh yêu hôn nhân đang ngự trị trong tâm hồn người nữ tu, vị hôn thê đồng trinh của Đức Kitô, luôn sẵn sàng mở ra cho mọi người và từng người. Điều này được thể hiện trong các cộng đoàn tu tŕ có đời sống tông đồ; nhưng thực hiện cách khác biệt trong các cộng đoàn chiêm niệm hay viện tu. Ngoài ra cũng có những h́nh thức khác của ơn gọi khiết tịnh v́ Nước Trời, tỉ như tu hội đời hay cộng đoàn của các người đă được thánh hiến, như trong các phong trào, các nhóm hay hiệp hội; trong những h́nh thức này, bản chất đích thực của chức làm mẹ thiêng liêng của những người sống đức khiết tịnh cũng được thể hiện dưới những hỉnh thức rất đa dạng. Ở đây không những nhắm đến cách sống cộng đoàn, nhưng cũng có những h́nh thức riêng tư. Cuối cùng đức khiết tịnh như ơn gọi của người phụ nữ vẫn luôn là ơn gọi của một cá nhân cụ thể và duy nhất. Chức làm mẹ thiêng liêng được sống như ơn gọi mang đậm nét cá nhân. Từ nền tảng này, chúng ta thấy có sự gần gũi đặc biệt giữa đức khiết tịnh của những người phụ nữ không kết hôn với chức làm mẹ của những người phụ nữ lấy chồng. Sự gần gũi này không những giữa chức làm mẹ với sự khiết tịnh, như chúng ta đă thấy bên trên; mà c̣n trong ư nghĩa khiết tịnh với hôn nhân, được hiểu như h́nh thức ơn gọi của người phụ nữ, trong đó bà trở thành mẹ của những đứa con sinh ra từ ḷng dạ ḿnh. Điểm xuất phát của sự suy luận thứ hai này là ư nghĩa của việc kết hôn. Trong thực tế, người phụ nữ “kết hôn” qua Bí tích Hôn Phối hay qua việc “kết hôn” cách thiêng liêng với Đức Kitô. Trong trường hợp này hay trường hợp kia cho thấy sự kết hôn là sự “hiến thân vô vị lợi” của người hôn thê cho người hôn phu. Theo cách này, người ta có thể nói rằng, ư nghĩa hôn nhân phản ánh cách linh thiêng trong đức khiết tịnh. Nếu như nói đến chức làm mẹ theo thể lư, th́ chức vụ này có thể là chức vụ làm mẹ thiêng liêng chăng, để thích ứng với chân lư trọn vẹn về con người như là một sự thống nhất thể xác và tinh thần? Có nhiều lư do để nh́n vào hai con đường khác nhau này – hai ơn gọi cho đời sống người phụ nữ – khám phá ra một sự bổ sung và một sự thống nhất sâu xa trong bản chất nội tại của con người. “Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa” 22. Tin Mừng cho thấy và giúp chúng ta suy nghĩ chính chắn về cách hiện hữu này của con người. Tin Mừng giúp đỡ từng con người, nam cũng như nữ, để sống và hiện thực chính bản thân ḿnh. Trong thực tế, có một sự b́nh đẳng hoàn toàn trong liên hệ với các hồng ân của Chúa Thánh Thần, liên hệ với “những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2,11). Nhưng không phải chỉ có thế. Khi nh́n vào những kỳ công của Thiên Chúa, vị Tông đồ – là một người đàn ông – cảm thấy cần đến điều thuộc về nữ tính để giúp ngài làm nổi bật sự thật về sứ vụ tông đồ của ḿnh. Thánh Phaolô thành Tarsus đă làm như thế khi viết cho giáo đoàn Galat: “Hỡi anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi đă quặn đau sinh ra một lần nữa” (Gl 4,19). Trong thư thứ nhất gửi cho giáo đoàn Côrinthô, vị Tông đồ nói lên sự ưu tiên của đức khiết tịnh so với hôn nhân, một giáo lư kiên vững của Hội Thánh trong tinh thần của những lời Đức Kitô được Phúc Âm thánh Matthêu nhắc lại (19,10-12), mà không làm lu mờ ư nghĩa chức làm mẹ theo thể lư và theo tinh thần. Để có thể thấy sứ vụ nền tảng của Hội Thánh, thánh Phaolô không t́m được so sánh nào hơn là qui chiếu về chức làm mẹ. Chúng ta gặp lại âm vang của chân lư này trong Hiến chế tín lư về Hội Thánh. Đức Maria là “h́nh ảnh” của Hội Thánh [43]. “Thực vậy, trong mầu nhiệm Hội Thánh, chính Hội Thánh cũng được gọi cách hợp pháp là Mẹ và Trinh Nữ (…) Đức Maria đi tiên phong, tỏ ra là một người mẹ và một trinh nữ gương mẫu tuyệt vời và hiếm có (…) Mẹ sinh Con, Người Con mà Thiên Chúa đă đặt làm trưởng tử trong nhiều anh em (Rm 8,29), nghĩa là các tín hữu, mà Ngài cộng tác vào việc sinh hạ và giáo dục với t́nh thương của một người mẹ” [44]. “Tuy nhiên, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện kỳ bí và noi gương đức ái của Đức Maria, và khi trung thành chu toàn thánh ư Chúa Cha, Hội Thánh v́ trung thành lănh nhận lời Thiên Chúa, nên cũng được làm mẹ: thực vậy, nhờ việc rao giảng và ban phép rửa, Hội Thánh sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh ra do Thiên Chúa để họ lănh nhận một đời sống mới và bất diệt” [45]. Ở đây nói tới chức làm mẹ thiêng liêng đối với các con trai con gái của nhân loại. Như đă nói, một chức làm mẹ như thế, trở thành “vai tṛ” của người phụ nữ trong sự khiết tịnh. Hội Thánh cũng là trinh Nữ, v́ đă ǵn giữ lời hứa trung thành cách toàn vẹn và tinh tuyền đối với Phu Quân [46]. Điều này đă được thực hiện cách trọn hảo nhất nơi Đức Maria. “Noi gương Mẹ Chúa ḿnh, nhờ thần lực của Thánh Thần, Hội Thánh bảo tồn cách tinh tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy bền vững và một đức mến chân thành” [47]. Công đồng xác quyết không thể nào hiểu được mầu nhiệm Hội Thánh, thực tại cũng như sức sống cơ bản của Hội Thánh, nếu không qui chiếu về Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta qui chiếu cách gián tiếp nguyên ảnh theo Thánh Kinh về người Phụ nữ, như được diễn tả rơ ràng ngay “lúc khởi đầu” (x. St 3,15) và trong quá tŕnh từ sáng tạo ngang qua tội lỗi đến ơn cứu độ. Chúng ta thấy rơ có một liên hệ sâu xa giữa những ǵ thuộc con người và những ǵ thuộc kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử loài người. Thánh Kinh minh chứng nếu không có ơn gọi phù hợp với yếu tố “nữ giới”, sẽ không có cách giải thích phù hợp với con người và nhân tính của họ. Cũng tương tự như thế đối với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: nếu muốn hiểu kế hoạch này trong liên hệ lịch sử loài người, chúng ta không thể bỏ qua mầu nhiệm “người nữ” – trinh nữ, người mẹ và người vợ – ra khỏi chiều kích đức tin của chúng ta.
VII. HỘI THÁNH – HIỀN THÊ CỦA ĐỨC KITÔ “Mầu nhiệm cao cả” 23. Những lời trong thư của thánh Phaolô gửi giáo đoán Êphêsô có một ư nghĩa nền tảng cho vấn đề này: “Hỡi người làm chồng, hăy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến ḿnh v́ Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như chính thân thể ḿnh. Yêu vợ là yêu chính ḿnh. Quả vậy, có ai ghét thân xác ḿnh bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác ḿnh, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, v́ chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: chính v́ thế, người đàn ông sẽ ĺa cha mẹ mà gắn bó với vợ ḿnh, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả; tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,25-32). Trong thư này, tác giả nói đến chân lư về Hội Thánh là hiền thê của Đức Kitô, đồng thời cho thấy chân lư này đặt nền tảng trên Thánh Kinh về việc tạo dựng con người có nam có nữ. Được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa “như sự hợp nhất giữa hai người”, cả hai được mời gọi để đi đến t́nh yêu phu phụ. Dựa theo tŕnh thuật sáng tạo trong đoạn St 2,18-25, có thể nói rằng ơn gọi nền tảng này xuất hiện cùng lúc với việc tạo dựng người phụ nữ và được Đấng Sáng Tạo ghi vào định chế hôn nhân; định chế này theo đoạn St 2,24 ngay từ đầu đă mang đặc tính của một sự hiệp thông nhân vị (communio personarum). Dù không trực tiếp, nhưng cách tŕnh bày về “khởi nguyên” (x. St 1,27 và 2,24) cho thấy toàn bộ “luân lư – Ethos” của những liên hệ hỗ tương giữa người đàn ông và người đàn bà phù hợp với chân lư nhân bản sự hiện hữu của họ. Tất cả những điều này đă được bàn đến bên trên. Thư gửi cho giáo đoàn Êphêsô củng cố chân lư đă được tŕnh bày và đồng thời so sánh đặc tính hôn nhân của t́nh yêu giữa người đàn ông và người đàn bà với mầu nhiệm Đức Kitô và Hội Thánh. Đức Kitô là hôn phu của Hội Thánh, Hội Thánh là hôn thê của Đức Kitô. Cách suy luận này đă có từ trước và chuyển sang Tân Ước những ǵ đă có trong Cựu Ước, đặc biệt nơi các tiên tri Hôsê, Giêrêmia, Êdêkien và Isaia [48]. Những đoạn này cần được phân tích đặc biệt. Chúng ta chỉ trích một đoạn thôi. Thiên Chúa phán với dân được tuyển chọn qua vị tiên tri như sau: “Đừng sợ chi: ngươi sẽ không phải xấu hổ, chớ e thẹn: ngươi sẽ không phải nhục nhằn. Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh xuân và không c̣n nhớ bao nhục nhằn thời góa bụa. V́ Đấng Sáng tạo của ngươi là hôn phu của ngươi! Người được gọi là “Chúa các đạo binh”. Đấng Thánh của Israel là Đấng giải thoát ngươi. Người được gọi là “Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ” (…) Người vợ cưới lúc thanh xuân, ai mà rẫy cho đành? Thiên Chúa ngươi phán như vậy. Trong một thời gian ngắn, Ta đă ruồng bỏ ngươi, nhưng v́ ḷng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp. Lúc lửa giận bừng bừng, Ta đă một thời ngoảnh mặt chẳng nh́n ngươi, nhưng v́ t́nh nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh ḷng thương xót, Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi phán như vậy (…) Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, t́nh nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước ḥa b́nh của Ta cũng chẳng chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy” (Is 54,4-8.10). Nếu Con người – đàn ông và đàn bà – được tạo dựng theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa, th́ Thiên Chúa dùng miệng tiên tri để nói về chính ḿnh, bằng cách sử dụng ngay ngôn ngữ loài người. Trong bản văn của tiên tri Isaia được trích dẫn, cách thức diễn tả t́nh yêu Thiên Chúa thật “nhân bản”; nhưng t́nh yêu lại mang tính cách thần linh. V́ là t́nh yêu của Thiên Chúa nên t́nh yêu cũng có đặc tính hôn nhân thần linh, dù được tŕnh bày theo cách so sánh với t́nh yêu của người nam dành cho người nữ. Người phụ nữ và người vợ này chính là Israel, là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, và việc tuyển chọn này có nguồn gốc trong t́nh yêu của Thiên Chúa. Nhờ t́nh yêu này mà giao ước đă kư kết được tŕnh bày như một cuộc hôn nhân nối kết Thiên Chúa lại với dân được Ngài tuyển chọn. Về phía Thiên Chúa, giao ước này như một sự “cam kết” bền vững: Thiên Chúa vẫn luôn trung tín với t́nh yêu hôn nhân của Ngài, dù người vợ đă biết bao lần bất trung. H́nh ảnh về t́nh yêu phu phụ với h́nh ảnh của vị hôn phu thần linh – một h́nh ảnh thật rơ ràng trong các bản văn tiên tri – được xác nhận và đạt tới đỉnh cao trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô (5,23-32). Đức Kitô được Gioan Tẩy Giả kính chào là vị Hôn Phu (x. Ga 3,27-29). Đức Kitô sử dụng cách so sánh nơi các tiên tri để áp dụng vào chính ḿnh (x. Mc 2,19-20). Thánh Phaolô nắm vững gia sản Cựu Ước, viết cho giáo đoàn Côrinthô: “V́ anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi đă đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết” (2 Cr 11,2). Nhưng trong lá thư gửi cho giáo đoàn Êphêsô, chúng ta mới gặp được cách diễn tả mạnh mẽ nhất chân lư về t́nh yêu của Đức Kitô, Đấng Cứu độ, dựa theo t́nh yêu phu thê trong hôn nhân: “Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến ḿnh v́ Hội Thánh” (Ep 5,25); qua đó chúng ta thấy thánh nhân xác nhận Hội Thánh là hôn thê của Đức Ki tô: “Đấng Thánh của Israel là Đấng giải phóng ngươi” (Is 54,5). Trong bản văn của thánh Phaolô, sự so sánh liên hệ hôn nhân có hai hướng tạo thành “Mầu nhiệm cao cả – sacramentum magnum”. Giao ước giữa đôi vợ chồng “nói lên” đặc tính phu thê của việc liên kết của Đức Kitô và Hội Thánh; việc liên kết này như “mầu nhiệm cao cả” và là “Bí tích” xác định tính bí tích của hôn nhân như giao ước thánh thiện của đôi vợ chồng, của người đàn ông và của người đàn bà. Khi đọc bản văn phong phú và phức hợp này như toàn bộ sự so sánh vĩ đại, chúng ta phải phân biệt giữa thực tại của những tương quan liên vị và “Mầu nhiệm cao cả” được tŕnh bày theo ngôn ngữ biểu trưng. Tính chất “mới mẻ” của Tin Mừng 24. Thánh Phaolô muốn nói với các đôi vợ chồng, những người đàn ông và những người đàn bà cụ thể, và nhắc họ nhớ lại “luân lư – Ethos” của t́nh yêu hôn nhân được Thiên Chúa thiết đặt cho hôn nhân từ “thuở ban đầu”. Chân lư về sự thiết đặt này đáp ứng đ̣i buộc: “Hỡi các người chồng, hăy yêu thương vợ ḿnh”; t́nh yêu này dựa trên nền tảng dây liên kết đặc biệt và duy nhất, qua đó người nam và người nữ trở thành “một xương một thịt” trong hôn nhân (St 2,24; Ep 5,31). Trong t́nh yêu này, chúng ta thấy có một sự xác định căn bản về người phụ nữ như một nhân vị, nhờ đó mà cá tính nữ giới có thể phát huy đầy đủ và phong phú. Cũng thế, Đức Kitô hoạt động như vị hôn phu của Hội Thánh, muốn nh́n thấy Hội Thánh “xinh đẹp lộng lẫy, không t́ vết, không vết nhăn” (Ep 5,27). Đây là “phong cách” của Đức Kitô đối với phụ nữ. Người chồng phải đón nhận tất cả các yêu tố của “phong cách” này làm của ḿnh để đối xử với vợ; tương tự như thế, người đàn ông cũng phải đối xử như vậy đối với phụ nữ trong mọi hoàn cảnh. Như vậy, cả hai, người nam và người nữ, mới sống “hiến dâng vô vị lợi”. Tác giả thư Êphêsô không thấy có mâu thuẫn ǵ giữa lời khuyên được viết như thế với việc đ̣i buộc “người vợ hăy tùng phục chồng như tùng phục Chúa (Kitô); v́ chồng là đầu của vợ” (Ep 5,22-23). Tác giả biết rằng thái độ này nằm sâu trong phong tục và truyền thống tôn giáo thời đại, nên phải hiểu và sống cách mới mẻ: “V́ ḷng kính sợ Đức Kitô, anh em hăy tùng phục lẫn nhau” (Ep 5,21). Hơn nữa, người chồng được gọi là “đầu” của người vợ, như Đức Kitô là Đầu Hội Thánh, chỉ v́ Người “hiến ḿnh cho Hội Thánh” (Ep 5,25), th́ người chồng cũng phải hiến dâng cả cuộc đời cho người vợ. Trong liên hệ Đức Kitô – Hội Thánh, chỉ có Hội Thánh phải tùng phục; sự tùng phục trong liên hệ giữa người chồng và người vợ không phải là một chiều nhưng là song phương cho nhau. Trong liên hệ với “điều cũ” th́ đây là “điều mới”: Đó là “điều mới” của Tin Mừng. Chúng ta gặp nhiều đoạn trong các sách tông đồ làm nổi bật “điều mới” này, cho dù nơi họ, “điều cũ” đă ăn sâu trong truyền thống Israel, trong cách hiểu và tŕnh bày Sách Thánh, tỉ như đoạn St 2 [49]. Lá thư của Thánh tông đồ gửi cho những người sống trong môi trường có cùng suy tư và hành động giống nhau. “Điều mới” mà Đức Kitô đem đến là một thực tại, tạo nền tảng cho một nội dung rơ ràng của sứ điệp Tin Mừng và là kết quả của ơn cứu độ. Đồng thời, ư thức về “việc tùng phục lẫn nhau v́ ḷng kính sợ Đức Kitô” trong hôn nhân không phải chỉ dành cho người phụ nữ đối với chồng ḿnh, nhưng phải thấm nhập vào tâm hồn, lương tâm, thái độ và phong tục. Từ ngày xưa, lời mời gọi này không bao giờ ngưng thúc đẩy những thế hệ tiếp nối; đây là lời mời gọi mà con người phải luôn đón nhận cách mới mẻ. Thánh Tông đồ không những viết: “Trong Đức Giêsu Kitô không c̣n chuyện phân biệt đàn ông hay đàn bà (…)”, nhưng c̣n thêm: “không c̣n nô lệ hay tự do” (GI 3,28). Dù vậy, biết bao thế hệ phải lợi dụng câu này để tạo thành nền tảng trong lịch sử nhân loại qua việc xóa bỏ chế độ nô lệ! Và c̣n biết bao h́nh thức lệ thuộc cách nô lệ của con người và các dân tộc vẫn chưa biến khỏi môi trường thế giới? Dù vậy, sự thách thức “luân lư” của ơn cứu độ vẫn rơ ràng và đứt khoát. Tất cả mọi lư do cho sự “tùng phục” người phụ nữ đối với người đàn ông trong hôn nhân phải được giải thích theo nghĩa “tùng phục nhau” của cả hai “trong sự kính sợ Đức Kitô”. Chiều kích t́nh yêu phu phụ đích thực có nguồn gốc sâu xa trong Đức Kitô, vị Hôn Phu của Hội Thánh là hôn thê của Người. Chiều kích biểu trưng của “mầu nhiệm cao cả” 25. Trong thư Êphêsô, chúng ta c̣n thấy một chiều kích thứ hai của việc so sánh này được sử dụng toàn bộ để phục vụ cho “mầu nhiệm cao cả”. Đó là chiều kích biểu trưng. Nếu t́nh yêu Thiên Chúa đối với con người và với dân Israel được tuyển chọn, được các tiên tri tŕnh bày như t́nh yêu của hôn phu đối với hôn thê của ḿnh, sự so sánh như vậy sẽ làm nổi bật đặc tính “hôn nhân” và đặc tính thần linh chứ không phải nhân bản của t́nh yêu Thiên Chúa: “Đấng Sáng Tạo ngươi là chồng ngươi (…) Người được gọi là “Thiên Chúa của toàn thể vũ trụ” (Is 54,5). Điều này cũng áp dụng vào t́nh yêu của Đức Kitô, Đấng Cứu độ: “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đă ban Con Một” (Ga 3,16). Ở đây t́nh yêu Thiên Chúa được làm nổi bật qua ơn cứu độ do Đức Giêsu hoàn tất. Theo thư thánh Phaolô, t́nh yêu này “tương tự” như t́nh yêu hôn nhân của những đôi vợ chồng, nhưng đương nhiên là không “giống” như thế. V́ sự so sánh nói lên sự giống nhau, nhưng đồng thời cũng cho thấy sự “không giống nhau”. Chúng ta dễ dàng nhận ra điều này khi nh́n vào người vợ. Theo thư Ephêsô, Hội Thánh chính là người vợ, cũng như đối với các tiên tri, Israel là người vợ: bà là chủ thể tổng hợp chứ không phải cá nhân đơn độc. Chủ thể tổng hợp này là dân Thiên Chúa, có nghĩa là do nhiều người, đàn ông, đàn bà, một cộng đoàn chung với nhau. “Đức Kitô đă yêu thương Hội Thánh” như là một cộng đoàn, là dân Thiên Chúa; và đồng thời Người yêu từng cá nhân trong Hội Thánh này; Hội Thánh được gọi là “thân thể” của Người (x. Ep 5,23), chỉ v́ Đức Kitô đă cứu độ tất cả mọi người, nam cũng như nữ, không loại trừ ai. Chính trong ơn cứu độ, chúng ta thấy nổi bật t́nh yêu này của Thiên Chúa và đặc tính hôn nhân được hoàn thành trong lịch sử nhận loại và vũ trụ. Đức Kitô bước vào lịch sử và ở lại như người chồng, “dâng hiến ḿnh (cho vợ)”. “Dâng hiến” ở đây có nghĩa “hiến thân vô vị lợi” cách tuyệt hảo và triệt để nhất: “Không có t́nh yêu nào cao cả cho bằng t́nh yêu này” (Ga 15,13). Theo quan niệm này, qua Hội Thánh, mọi người – nam cũng như nữ – đă mời gọi trở thành hôn thê của Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian. Như thế “là hôn thê” và như vậy, tính chất “nữ giới” trở thành biểu trưng của mọi “nhân bản”, như thánh Phaolô nói: “Không c̣n đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28). Về phương diện ngôn ngữ, chúng ta có thể nói rằng sự so sánh t́nh yêu phu thê theo thư Êphêsô, đă đưa “điều thuộc nam tính” hướng về “điều thuộc nữ tính”, v́ như chi thể của Hội Thánh, người đàn ông cũng được đưa vào ư niệm “hôn thê”. Điều này không làm cho chúng ta ngạc nhiên; v́ Thánh tông đồ diễn tả sứ vụ của ngài trong Đức Kitô và trong Hội Thánh như việc “phải quặn đau để sinh những đứa con ra một lần nữa” (Gl 4,19). Đứng về mặt “nhân tính”, những ǵ tạo thành con người, có sự phân biệt giữa “nam giới” và “nữ giới”, nhưng đồng thời cả hai bổ túc và soi sáng cho nhau. Điều này chúng ta thấy rơ trong sự so sánh vĩ đại về “vị hôn thê” trong thư Êphêsô. Trong Hội Thánh, mỗi người – nam hay nữ – đều là “hôn thê”, chỉ v́ họ cảm nghiệm được t́nh yêu của Đức Kitô, Đấng Cứu độ như một sự “hiến dâng” và họ cố gắng để đáp trả bằng sự hiến dâng chính bản thân ḿnh. Đức Kitô là vị hôn phu. Điều này nổi lên sự thật về t́nh yêu Thiên Chúa, Đấng yêu thương trước nhất (x. 1 Ga 4,19) và là Đấng vượt trên mọi chờ đợi của con người qua hồng ân sản sinh ra t́nh yêu phu thê cho con người: “Người minh chứng t́nh yêu của ḿnh đối với họ cho đến cùng” (Ga 13,1). Vị hôn phu – là Người Con đồng bản thể với Chúa Cha – trở thành Con Đức Trinh Nữ Maria, là “Con Người” và là con người thật, một người đàn ông. Biểu trưng của vị Hôn phu thuộc về nam tính. Trong biểu trưng nam giới, đặc tính nhân bản của t́nh yêu được tŕnh bày, trong đó Thiên Chúa ban t́nh yêu của Người cho Israel, cho Hội Thánh, cho mọi người. Khi suy niệm những ǵ các Phúc Âm tường tŕnh về thái độ của Đức Kitô đối với phụ nữ, chúng ta có thể rút kết luận rằng, Người là một người nam, là con cái Israel, làm sáng tỏ phẩm giá “những con gái của Abraham” (x. Lc 13,16), phẩm giá mà người phụ nữ đă có ngay từ thuở ban đầu giống như người nam. Đồng thời, Đức Kitô cho thấy tính độc đáo giúp phân biệt người nữ khác hẳn người nam, sự phong phú trọn vẹn được Thiên Chúa ban cho trong mầu nhiệm sáng tạo. Trong thái độ của Đức Kitô đối với phụ nữ, chúng ta thấy ư niệm về “vị hôn phu” trong thư Êphêsô được thực hiện một cách gương mẫu nhất. Chỉ v́ t́nh yêu thiên linh của Đức Kitô là t́nh yêu của một hôn phu, đặc biệt là t́nh yêu của những người nam. Bí tích Thánh Thể 26. Chiều kích rộng lớn của “mầu nhiệm cao cả” diễn tả liên hệ phu thê giữa Đức Kitô và Hội Thánh, có thể giúp chúng ta hiểu được việc kêu gọi “nhóm Mười Hai”. Nếu như Đức Kitô kêu gọi chỉ có người đàn ông làm Tông đồ, th́ Người hoàn toàn tự do và độc lập để làm việc này. Người hành động với sự tự do như khi nhấn mạnh phẩm giá và ơn gọi người phụ nữ với tất cả thái độ của ḿnh, không dựa vào phong tục hiện hành cũng như truyền thống do luật lệ thời đại qui định. Điều này phù hợp với giả thiết, Người chỉ chọn đàn ông làm tông đồ chỉ v́ theo tâm thức phổ biến vào lúc đó, nhưng giả thiết này lại không đúng với cách hành động của Đức Kitô. “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa (…), v́ Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta” (Mt 22,16). Lời này diễn tả trọn vẹn thái độ của Đức Giêsu thành Nazareth, trong đó hàm chứa lời giải thích cho việc gọi “Nhóm Mười Hai”. Nhóm này hiện diện với Đức Kitô trong suốt buổi Tiệc Ly; chỉ ḿnh họ lănh nhận mệnh lệnh bí tích liên kết với việc thiết lập Bí tích Thánh Thể: “Hăy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy!” (Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Vào chiều ngày phục sinh, họ lănh nhận Chúa Thánh Thần để tha thứ tội lỗi: “Anh em tha tội cho ai, th́ người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, th́ người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Chúng ta đang ở ngay trung tâm mầu nhiệm Vượt qua, mầu nhiệm mạc khải t́nh yêu phu thê của Thiên Chúa. Đức Kitô là vị Hôn phu, chỉ v́ Người “tận hiến bản thân ḿnh”: Ḿnh Người đă được “trao ban”, Máu Người bị “đổ ra””(x. Lc 24,19.20). Như thế Người “minh chứng t́nh yêu của ḿnh cho đến cùng” (Ga 13,1). Việc “hiến thân vô vị lợi” nơi hy tế thập giá đă nâng ư nghĩa phu thê của t́nh yêu một cách đứt khoát. Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, là Hôn phu của Hội Thánh. Bí tích Thánh Thể là Bí tích của ơn cứu độ chúng ta. Đó là Bí tích của hôn phu và của hôn thê. Bí tích Thánh Thể hiện diện hóa và hiện thực hóa cách bí tích hành động cứu độ của Đức Kitô thật mới mẻ, Đấng “tạo dựng” Hội Thánh như thân thể của ḿnh. Với “Thân thể” này, Đức Kitô liên kết như hôn phu với vị hôn thê. Tất cả những điều này đă được nói trong thư Êphêsô. “Sự hợp nhất giữa hai người” đă được thiết đặt từ ban đầu giữa người đàn ông và người đàn bà nay được đưa vào “mầu nhiệm cao cả” của Đức Kitô và Hội Thánh. Khi thiếp lập Bí tích Thánh Thể, Đức Kitô rơ ràng nối kết Bí tích này với thừa tác vụ linh mục của các Tông đồ, nên chúng ta cũng có thể nhận ra rằng với cách thức này, Người muốn làm nổi bật liên hệ như Thiên Chúa muốn trong mầu nhiệm sáng tạo cũng như mầu nhiệm cứu độ giữa người nam và người nữ, giữa “nữ giới” và “nam giới”. Trong Bí tích Thánh Thể, hành động cứu độ của Đức Kitô, của vị Hôn Phu đối với vị hôn thê là Hội Thánh, được hiện thực cách bí tích. Điều này lại càng rơ ràng và trong sáng, khi thừa tác vụ của bí tích Thánh Thể, do vị linh mục hành động “nhân danh Đức Kitô – in persona Christi“, được một người đàn ông hoàn tất. Ư nghĩa này xác nhận giáo lư trong Tuyên ngôn Inter Insigniores được công bố theo lệnh Đức Giáo hoàng Phaolô VI, để trả lời các câu hỏi về vấn đề cho phụ nữ lănh nhận chức linh mục [50]. Việc hiến dâng của hôn thê 27. Công đồng Vaticanô II canh tân ư thức về chức tư tế cộng đồng trong Hội Thánh. Trong Giao ước mới chỉ có một hy tế và một tư tế: đó là Đức Kitô. Tất cả mọi người đă được rửa tội, nam cũng như nữ, được tham dự vào chức tư tế duy nhất này, v́ họ “hiến dâng thân ḿnh làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp ḷng Thiên Chúa” (Rm 12,1), bất cứ nơi nào họ làm chứng cho Đức Kitô và tŕnh bày niềm hy vọng về đời sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người đang khao khát” (x. 1 Pr 3,15) [51]. Việc tham dự chung vào hy lễ của Đức Kitô, trong hy lễ này Đấng cứu độ dâng lên Chúa Cha cả thế giới và đặc biệt là cả nhân loại, tác động để mọi thành phần Hội Thánh trở thành “một vương quốc tư tế” (Kh 5,10; x. 1 Pr 2,9), nghĩa là không những họ được tham dự vào sứ vụ tư tế mà cả sứ vụ tiên tri và vương đế của Đức Kitô, của Đấng Messias. Hơn nữa, việc tham dự này kéo theo sự kết hợp về mặt cơ cấu với Hội Thánh như dân Thiên Chúa với Đức Kitô. Đồng thời “mầu nhiệm cao cả” của thư Êphêsô cũng xuất hiện trong sự tham dự này: như cách vị hôn thê kết hợp với Hôn Phu của ḿnh; kết hợp, v́ hôn thê sống cuộc sống của Hôn Phu; kết hợp v́ hôn thê tham dự vào sứ vụ ba mặt của hôn Phu (tria munera Christi); kết hợp theo cách thức, hôn thê đáp trả cho hồng ân vô lượng t́nh yêu của vị Hôn Phu, Đấng Cứu độ trần gian, bằng việc “hiến thân vô vị lợi” của ḿnh. Điều này liên hệ đến tất cả mọi người trong Hội Thánh, nữ cũng như nam, và liên hệ tự nhiên đến những người tham dự vào thừa tác vụ tư tế mang tính phục vụ [52]. Trong chiều kích “mầu nhiệm cao cả” của Đức Kitô và của Hội Thánh, mọi người được mời gọi như hôn thê đáp trả sự hiến dâng vô ngần vô lượng của t́nh yêu Đức Kitô, Đấng Cứu độ cũng là Hôn Phu duy nhất của Hội Thánh, bằng sự dâng hiến cuộc sống của ḿnh. Trong chức “tư tế vương giả” chung cho mọi người, chúng ta cũng thấy được sự hiến dâng của người hôn thê. Đây là ư nghĩa nền tảng để Hội Thánh có thể hiểu được bản chất đặc thù của ḿnh và đồng thời tránh cho Hội Thánh cách gán ghép theo những tiêu chuẩn giải thích và đánh giá, không liên hệ ǵ đến Hội Thánh, như “cơ chế” do nhiều người hợp thành, mang dấu ấn lịch sử. Dù Hội Thánh có một cơ chế “phẩm trật” [53], nhưng cơ chế này được thiết lập cho sự thánh thiện của các chi thể Hội Thánh. Sự thánh thiện này được xác định từ “mầu nhiệm cao cả”, nơi đó hôn thê đáp trả sự hiến dâng của hôn phu bằng sự hiến dâng t́nh yêu, và thực hiện điều này “trong Thánh Thần”; “v́ Thiên Chúa đă đổ t́nh yêu của Người vào ḷng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Khi xác nhận giáo lư về thánh truyền, Công đồng Vaticanô II nhắc lại, trong phẩm trật của sự thánh thiện, chính người nữ, Đức Maria thành Nazareth, là “h́nh ảnh” của Hội Thánh. Mẹ luôn đi trước chúng ta trên con đường thánh thiện; trong bản thân Mẹ, “Hội Thánh đă đạt được sự hoàn hảo, làm cho ḿnh không c̣n tỳ ố, không vết nhăn” (x. Ep 5,27) [54]. Trong nghĩa này, chúng ta có thể nói, Hội Thánh vừa mang đặc tính “thánh mẫu” vừa có đặc tính “tông đồ” và đặc tính “thuộc về Phêrô” [55]. Trong thời kỳ đầu của Hội Thánh, bên cạnh các người đàn ông – cũng có nhiều người đàn bà – làm nổi bật sự đáp trả của hôn thê đối với t́nh yêu cứu độ của vị Hôn Phu. Đầu tiên là những người phụ nữ đă gặp gỡ Đức Kitô và theo chân Người; sau khi Người giả biệt, họ đă cùng các Tông đồ “kiên tŕ cầu nguyện” trong nhà Tiệc Ly tại Giêrusalem cho đến ngày Hiện Xuống. Ngày đó, Chúa Thánh Thần nói qua “các con trai con gái” của dân Thiên Chúa và hoàn tất những ǵ tiên tri Giôen báo trước (x. Cv 2,17). Những người phụ nữ này – và những bà khác sẽ tiếp nối – tham gia cách tích cực và năng động vào đời sống Hội Thánh sơ khai qua hồng ân và các việc phục vụ thật đa dạng, dựa theo cơ cấu của những cộng đoàn đầu tiên và tiếp nối. Các tác phẩm tông truyền c̣n ghi tên các bà này, tỉ như bà “Phêbê, nữ trợ tá Hội Thánh Cenchrées” (Rm 16,1); bà Priscilla và chồng là ông Aquila (x. 2 Tm 4,19), Evodia và Syntychê (x. Pl 4,2), Maria, Tryphêna, Persis, Tryphose (x. Rm 16,6.12). Thánh tông đồ nói về “sự nhọc nhằn” của họ về Đức Kitô: các bà này minh chứng trong nhiều lănh vực khác nhau công việc phục vụ tông đồ trong Hội Thánh, khởi đầu từ “Giáo hội tại gia”. Trong “Giáo hội tại gia” này, niềm tin đúng đắn được chuyển trao từ người mẹ sang người con và cháu chắt, như trường hợp trong nhà của ông Timôthê (x. 2 Tm 1,5). Điều này lập đi lập lại từ thế hệ này sang thế hệ khác suốt bao thế kỷ, như lịch sử Hội Thánh minh chứng. Khi bảo vệ phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ, Hội Thánh nói lên sự tôn trọng và biết ơn đối với những bà – trung thành với Phúc Âm – tham gia vào sứ vụ tông đồ của toàn dân Thiên Chúa trong mọi thời gian. Đó là các nữ thánh tử đạo, các nữ đồng trinh, các bà mẹ gia đ́nh làm chứng cách can đảm cho niềm tin và giáo dục con cái trong tinh thần Phúc Âm, tiếp tục trao phó đức tin và truyền thống của Hội Thánh. Trong mọi thời đại và trong mọi nước, chúng ta thấy rất nhiều phụ nữ thật “đảm đang” (Cn 31,10), dù bị bách hại, khó khăn và bị kỳ thị vẫn tham gia vào sứ vụ của Hội Thánh. Ở đây chỉ nêu lên: bà Monica, mẹ thánh Augustinô; Macrina; Olga thành Kiev; Mathilda thành Toscana; Hedwig vùng Schlesien và Hedwig thành Cracovie; Elisabeth thành Thuringe; Brigitte của Thụy Điển; Jeanne xứ Arc; Rosa thành Lima; Elizabeth Seton và Mary Ward. Chứng cứ và hoạt động của các bà Công giáo này chói sáng vào đời sống Hội Thánh và xă hội. Cho dù bị xă hội kỳ thị nặng nề, các thánh nữ này vẫn “tự đo” hoạt động nhờ được củng cố bằng sự liên kết với Đức Kitô. Cũng nhờ sự liên kết và trong sự tự do bắt nguồn từ Thiên Chúa giúp chúng ta hiểu được hoạt động vĩ đại của thánh nữ Catharina thành Siene trong đời sống công khai của Hội Thánh và của thánh nữ Têrêsa thành Avila trong đời sống tu tŕ chiêm niệm. Ngày hôm nay, Hội Thánh được phong phú nhờ chứng cứ của rất nhiều người phụ nữ đang thực hiện ơn gọi nên thánh của họ. Các phụ nữ thánh thiện là hiện thân của lư tưởng nữ giới; họ cũng là mẫu gương cho tất cả Kitô hữu, một mẫu gương “bước theo Đức Kitô”, một thí dụ cho việc hôn thê đáp trả bằng t́nh yêu cho t́nh yêu của Hôn Phu. VIII. CAO TRỌNG HƠN CẢ LÀ ĐỨC MẾN Đối mặt với những đổi thay 28. “Hội Thánh tin rằng Đức Kitô đă chết và đă phục sinh v́ chúng ta; nhờ Thánh Thần, Người ban ánh sáng và sức mạnh để con người có thể đáp lại ơn gọi cao sang của ḿnh” [56]. Chúng ta có thể áp dụng những lời Hiến chế Gaudium et Spes của Công đồng vào đề tài này. Việc nhấn mạnh vào phẩm giá và ơn gọi người phụ nữ trong thời đại chúng ta có thể và phải được đón nhận trong “ánh sáng” và “sức lực” được Thánh Thần của Đức Kitô ban cho con người trong thời đại quá thay đổi này. Hội Thánh “tin rằng khởi điểm, trung tâm và cùng đích của con người và toàn thể lịch sử nhân loại đều ở trong Đức Kitô là Chúa và là Thầy của Hội Thánh”; Hội Thánh “xác nhận rằng qua mọi thay đổi, có nhiều điều vẫn không thay đổi v́ nền tảng cuối cùng của những điều không thay đổi này là Đức Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và măi măi” [57]. Với những lời này, Hiến chế về Hội Thánh trong thế giới ngày nay cho chúng ta thấy con đường phải theo để chu toàn các trách vụ liên quan đến phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ trước những thay đổi đầy ư nghĩa của thời đại. Chúng ta chỉ có thể đối mặt với những đổi thay này cách thẳng thắn và chính xác, nếu chúng ta quay về nền tảng vững chắc trong Đức Kitô, về những chân lư và giá trị “bất biến” mà Người là “chứng nhân trung tín” (Kh 1,5) và là Thầy dạy. Nếu hành động khác sẽ đưa chúng ta đến những kết quả đáng nghi ngờ, nếu không nói thẳng là sai lệch và dối trá. Phẩm giá của người phụ nữ và trật tự t́nh yêu 29. Đoạn thư Êphêsô đă được trích dẫn (Ep 5,21-23) tŕnh bày mối tương quan giữa Đức Kitô và Hội Thánh như dây liên kết giữa hôn phu và hôn thê, cũng gợi lên cơ chế hôn nhân theo sách Sáng Thế (x. St 2,24). Đoạn này liên kết chân lư về hôn nhân như bí tích nguyên sơ với việc tạo dựng người nam và người nữ theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa (x. St 1,27; 5,1). Nhờ sự so sánh đầy ư nghĩa này của thư Êphêsô, chúng ta thấy rơ điều xác định phẩm giá của người phụ nữ trước mặt Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo và Cứu độ, và trước mặt con người, cả người nam lẫn người nữ. Căn cứ trên nền tảng kế hoạch ngàn đời của Thiên Chúa, người phụ nữ là gốc rễ của trật tự t́nh yêu trong thế giới thụ tạo của con người. Trật tự t́nh yêu thuộc về cuộc sống nội tại của Thiên Chúa, thuộc về đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong đời sống nội tại của Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần là hiện thân cá vị của t́nh yêu. Nhờ Chúa Thánh Thần, hồng ân tự tại, t́nh yêu trở thành một ân huệ cho tất cả mọi người được Thiên Chúa tạo dựng. T́nh yêu, xuất phát từ Thiên Chúa, được chia sẻ cho các thụ tạo: “Thiên Chúa đă đổ t́nh yêu của Người vào ḷng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Ơn gọi người phụ nữ hiện diện bên cạnh người đàn ông (“một trợ tá tương xứng với nó”: St 2,18) trong “sự hợp nhất giữa hai người” đem lại những điều kiện đặc biệt trong thế giới hữu h́nh của thụ tạo, để Thiên Chúa tuôn đổ t́nh yêu của Người vào trong tâm hồn của những thụ tạo giống h́nh ảnh Ngài. Khi gọi Đức Kitô là Hôn Phu và Hội Thánh là hôn thê, tác giả thư Êphêsô với sự so sánh này cũng xác nhận cách gián tiếp chân lư về người phụ nữ là hôn thê. Hôn Phu là người yêu. Hôn thê là người được yêu, nhận t́nh yêu để đến phiên ḿnh yêu lại. Đoạn sách Sáng Thế – được đọc cách mới mẻ dưới ánh sáng của biểu trưng hôn thê theo thư Êphêsô – giúp chúng ta thấy một chân lư mang tính quyết định cho vấn đề phẩm giá cũng như ơn gọi của người phụ nữ: phẩm giá người phụ nữ được thẩm định từ trật tự t́nh yêu, trong bản chất cũng là trật tự công bằng và t́nh yêu tha nhân [58]. Chỉ có con người, như một nhân vị, mới biết yêu và chỉ có con người mới được yêu. Đó là một xác định của hữu thể học, từ đó đưa đến tính chất đạo đức. T́nh yêu là một nhu cầu hữu thể và đạo đức của con người xét như là nhân vị. Con người cần được yêu; v́ chỉ có t́nh yêu mới phù hợp với con người. Điều này giúp chúng ta hiểu Giới răn yêu thương đă có trong Cựu Ước (x. Đnl 6,5; Lv 19,18) và được Đức Kitô đặt làm trung tâm cho nền luân lư Tin Mừng (x. Mt 22,36-40; Mc 12,28-34); cũng giúp chúng ta hiểu sự ưu tiên của t́nh yêu, được thánh Phaolô nói trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô: “Cao trọng hơn cả là đức mến” (13,13). Nếu không sử dụng trật tự và sự ưu tiên này, chúng ta không thể có câu trả lời đầy đủ và đúng đắn cho vấn đề phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ. Nếu chúng ta nói, người phụ nữ đón nhận t́nh yêu để đến phiên ḿnh yêu lại, th́ trước tiên chúng ta không nghĩ ngay đến liên hệ phu thê trong hôn nhân, nhưng nghĩ đến điều phổ biến nhất, căn cứ trên thực tế của nữ giới trong tương quan liên vị, tạo thành cuộc sống và hoạt động chung của các nhân vị, của người đàn ông và người đàn bà, dưới nhiều dạng khác nhau. Trong liên hệ rộng lớn và đa dạng này, người phụ nữ tŕnh bày một giá trị đặc biệt như nhân vị và đồng thời như nhân vị cụ thể trong tính chất nữ giới của ḿnh. Điều này áp dụng cho tất cả phụ nữ và cho từng người trong họ, độc lập khỏi môi trường văn hóa họ đang sống, và độc lập khỏi những đặc tính tinh thần, tâm lư và thể lư, như tuổi tác giáo dục, sức khỏe, lao động, đă lập gia đ́nh hay độc thân. Đoạn thư Êphêsô trên giúp chúng ta nghĩ đến một loại “tiên tri” của phụ nữ trong nữ tính của họ. Việc so sánh Hôn phu và hôn thê gợi lên t́nh yêu mà mỗi người, đàn ông và đàn bà, được Thiên Chúa yêu mến trong Đức Kitô. Dù vậy trong mạch văn của sự so sánh theo Thánh Kinh và căn cứ trên suy luận nội tại của bản văn, chính người phụ nữ, vị hôn thê, biểu lộ tất cả chân lư này. Đặc tính “tiên tri” này của người phụ nữ trong nữ tính của ḿnh t́m được cách diễn tả tuyệt vời trong Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa. Nơi Mẹ, sự kết hợp nội tại của trật tự t́nh yêu – trật tự xuất hiện giữa trần gian do một người phụ nữ – với Chúa Thánh Thần được thể hiện cách hoàn hảo và trực tiếp nhất. Đức Maria đă nghe vào lúc truyền tin các lời này: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” (Lc 1,35). Ư thức về một sứ vụ 30. Phẩm giá của người phụ nữ liên kết chặt chẽ với t́nh yêu mà họ lănh nhận trong nữ tính và với t́nh yêu mà họ sẽ trao ban khi đến phiên ḿnh. Như thế chân lư về nhân vị và về t́nh yêu được xác nhận. Về vấn đề chân lư nhân vị, chúng ta phải trở lại với Công đồng Vaticanô II: “Con người, thụ tạo duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên v́ chính họ, chỉ có thể gặp lại bản thân ḿnh nhờ thành thực hiến dâng” [59]. Điều này áp dụng cho mỗi người như một nhân vị được tạo dựng theo h́nh ảnh Thiên Chúa, cho người đàn ông cũng như người đàn bà. Xác quyết thuộc lănh vực hữu thể cũng gợi lên chiều kích đạo đức của ơn gọi làm người. Người phụ nữ sẽ không t́m được chính ḿnh, nếu không trao ban t́nh yêu của ḿnh cho người khác. Ngay lúc “khởi nguyên”, người phụ nữ – cũng như người đàn ông – được Thiên Chúa tạo dựng và được Người đặt vào trật tự t́nh yêu. Nguyên tội không phá hũy trật tự này cũng không xóa bỏ triệt để. Điều này được Tiền Tin Mừng minh chứng (x. St 3,15). Chúng ta đă thấy trong suy niệm bên trên, vị trí duy nhất của “người phụ nữ” trong bản văn then chốt của mạc khải. Ngoài ra, cũng chính người “phụ nữ” trở thành “nguyên mẫu” của Thánh Kinh được nh́n thấy trong chiều kích cánh chung của vũ trụ và con người trong sách Khải huyền của thánh Gioan [60]. Nơi đó, bà là “một người phụ nữ ḿnh khoác mặt trời”, chân đạp mặt trăng và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Chúng ta có thể nói: một người phụ nữ trong chiều kích vũ trụ, trong chiều kích toàn thể công tŕnh sáng tạo. Nhưng đồng thời “bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại” (Kh 12,2) như bà Eva, “Mẹ chúng sinh” (x. St 3,20). Bà đau đớn, “v́ con rồng đứng trước người đàn bà sắp sinh con” (Kh 12,4), “con rồng to lớn chính là Con Rắn xưa” (Kh 12,9) mà chúng ta đă biết trong Tiền Tin Mừng: đó là Thần Dữ, “Cha kẻ dối trá” và của tội lỗi (x. Ga 8,44). “Con Rắn xưa” muốn “nuốt con bà (đứa con của người phụ nữ)” (Kh 12,4). Nếu chúng ta thấy được trong bản văn này một phản ánh Tin Mừng thời thơ ấu (x. Mt 2,13.16), chúng ta có thể nghĩ nguyên mẫu của người “phụ nữ” cũng ngầm chứa cuộc chiến chống cái xấu và Thần Xấu từ đầu lịch sử cho đến kết thúc lịch sử. Đó là cuộc chiến cho con người, cho hạnh phúc đích thực của họ, cho ơn cứu độ của họ. Thánh Kinh muốn nói với chúng ta rằng qua người “phụ nữ”, bà Eva và Đức Maria, lịch sử nhận ra cuộc chiến bi đát v́ con người, cuộc chiến v́ tiếng “thưa vâng” hay sự “từ khước” Thiên Chúa và kế hoạch vĩnh cửu của Ngài đối với con người. Nếu phẩm giá của người phụ nữ minh chứng t́nh yêu mà họ đă lănh nhận, để rồi tới phiên ḿnh sẽ đáp trả lại, th́ nguyên mẫu Thánh Kinh về người “phụ nữ” cho thấy trật tự đúng đắn của t́nh yêu xác định ơn gọi của người phụ nữ. Điều này muốn nói đến ơn gọi trong nghĩa cơ bản và phồ quát, thể hiện qua những dạng cụ thể và đưa đến nhiều “ơn gọi” đạ dạng của người phụ nữ trong Hội Thánh và trong thế giới. Sức mạnh luân lư và tinh thần của các người phụ nữ liên kết chặt chẽ với ư thức, Thiên Chúa đă trao phó con người cách đặc biệt cho họ. Đương nhiên Thiên Chúa trao con người cho tất cả và cho từng người; nhưng chính sự trao phó này nhắm vào người phụ nữ cách đặc biệt – chính v́ nữ tính của họ – và điều này xác định cách đặc biệt về ơn gọi của họ. Nắm vững ư thức vào điều Thiên Chúa trao phó, nhiều người phụ nữ thể hiện sức mạnh tinh thần của họ trong thời Cựu Ước, trong thời Đức Kitô, trong các thời đại tiếp theo cho đến hôm nay. Người phụ nữ trở nên mạnh mẽ nhờ ư thức trách nhiệm được trao phó, mạnh mẽ v́ Thiên Chúa gửi gắm con người cho họ ở mọi nơi, mọi lúc, ngay cả trong môi trường bị xă hội kỳ thị mà họ phải sống. Ư thức vào ơn gọi nền tảng này giúp người phụ nữ nhớ đến phẩm giá mà ḿnh đă lănh nhận từ Thiên Chúa; điều này giúp họ mạnh mẽ và xác tín hơn vào ơn gọi của ḿnh. Như thế “người phụ nữ đảm đang” (x. Cn 31,10) trở thành chỗ dựa không thể thay thế được và thành nguồn sức mạnh tinh thần cho nhiều người khác, những kẻ đón nhận năng lực tinh thần của họ. Gia đ́nh của họ và thường là nhiều quốc gia đều biết ơn các “người phụ nữ đảm đang” này. Trong thời đại chúng ta, những thành tựu khoa học và kỹ thuật giúp tạo dựng an sinh vật chất trong trong mức độ chưa từng có, một số người được hưởng lợi, nhưng số khác lại bị đẩy ra bên lề xă hội. Trong những điều kiện như thế, sự tiến bộ một chiều có thể từng bước đưa đến việc đánh mất sự quan tâm đối với con người, những ǵ căn bản thuộc về con người. Trong nghĩa này, nhất là trong thời đại chúng ta, người ta mong chờ “thiên tài” của người phụ nữ xuất hiện để bảo đảm sự quan tâm đối với con người trong mọi hoàn cảnh chỉ v́ họ là con người; chỉ v́: “Cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,13). Việc chú tâm suy nghĩ về nguyên mẫu người “phụ nữ” – từ sách Sáng Thế cho đến sách Khải Huyền – cho thấy phẩm giá và ơn gọi của người phụ nữ hệ tại vào đâu và điều ǵ là bất biến và luôn hoạt động nơi họ, v́ những điều này có “nền tảng cuối cùng trong Đức Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và măi măi vẫn như thế” [61]. Nếu Thiên Chúa trao phó con người cách đặc biệt phụ nữ, th́ điều này cũng có nghĩa là Đức Kitô tin tưởng người phụ nữ để chu toàn “chức tư tế vương giả” (1 Pr 2,9), đấy không phải là hồng ân phong phú Người ban tặng cho con người đó sao? Đức Kitô, vị Thượng tế duy nhất của giao ước mới và vĩnh cửu, và là Hôn Phu của Hội Thánh, luôn dâng lên Chúa Cha gia sản này trong Chúa Thánh Thần, để “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28) [62]. Lúc đó, chân lư “đức mến cao trọng hơn cả” (1 Cr 13,13) được hoàn tất cách dứt khoát. IX. KẾT LUẬN “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban” 31. “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban” (Ga 4,10), đó là câu nói của Đức Giêsu với người phụ nữ thành Samarie trong một cuộc đối thoại tuyệt vời cho thấy Người đề cao phẩm giá và ơn gọi của từng người phụ nữ, cho phép họ tham gia vào sứ vụ Messias của Người. Những suy tư trên, đến lúc phải kết thúc, giúp chúng ta nhận ra giữa các “hồng ân của Thiên Chúa” những ǵ Ngài là Đấng Sáng Tạo và Cứu độ trao phó cho từng người phụ nữ. Trong Thánh Thần của Đức Kitô, người phụ nữ có thể khám phá tất cả ư nghĩa nữ tính của ḿnh, sẵn sàng “hiến dâng chính ḿnh cách vô vị lợi” cho kẻ khác và qua đó t́m được chính ḿnh. Trong năm Thánh Mẫu, Hội Thánh muốn nói lên tiếng cảm tạ Thiên Chúa Ba Ngôi v́ “mầu nhiệm người phụ nữ” và cảm tạ v́ từng người phụ nữ, v́ chiều kích vĩnh cửu của phẩm giá người phụ nữ, v́ “những kỳ công của Thiên Chúa” được thực hiện nơi người phụ nữ và qua người phụ nữ trong lịch sử các thế hệ loài người. Điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đă thực hiện nơi người phụ nữ và qua người phụ nữ trong lịch sử nhân loại trên trái đất này – đó không phải là Mầu nhiệm nhập thể của Thiên Chúa đó sao? Hội Thánh cám ơn tất cả các phụ nữ và từng người phụ nữ: cám ơn các bà mẹ, chị em, các người vợ, các phụ nữ được thánh hiến cho Thiên Chúa để sống khiết tịnh; cám ơn các người phụ nữ dấn thân cho không biết bao nhiêu người, những người mong chờ t́nh thương vô vị lợi của kẻ khác; cám ơn các bà chăm sóc con cái trong gia đ́nh là dấu chứng nền tảng của xă hội loài người; cám ơn các phụ nữ đang hoạt động nghề nghiệp và phải gánh lấy trách nhiệm xă hội; cám ơn các phụ nữ “đảm đang” và các phụ nữ “yếu đuối” – cám ơn tất cả phụ nữ: v́ họ xuất phát từ trái tim của Thiên Chúa trong sự diễm lệ và phong phú tràn đầy của nữ tính; v́ họ đă được che chở từ t́nh yêu vĩnh cửu; v́ họ, cùng với người đàn ông, đồng hành trên trái đất này là quê hương trần thế của con người và cũng có lúc biến thành “thung lũng đầy nước mắt”; v́ họ cùng với người đàn ông đón nhận trách nhiệm cho số phận của nhân loại, trong những nhu cầu hằng ngày và theo vận mệnh chung cuộc mà gia đ́nh nhân loại có được trong Thiên Chúa, trong ḷng Ba Ngôi Cực Thánh. Hội Thánh cám ơn tất cả những “thiên tài” nữ giới, biểu hiện trong ḍng lịch sử các dân tộc và quốc gia; Hội Thánh cảm tạ các đặc sủng Chúa Thánh Thần ban cho các người phụ nữ trong lịch sử dân Chúa, cảm ơn những chiến thắng nhờ đức tin, đức cậy và đức mến của các phụ nữ: Hội Thánh cám ơn mọi hoa trái do sự thánh thiện của nữ giới. Đồng thời, Hội Thánh mong muốn rằng “những mạc khải vô giá của Thánh Thần” (x. 1 Cr 12,4tt) được tuôn ban cách quảng đại cho các “con gái” của Giêrusalem vĩnh cửu, được quan tâm công nhận và đánh giá cao, để đem lại lợi ích chung cho Hội Thánh và nhân loại, đặc biệt trong thời đại chúng ta. Trong khi suy niệm mầu nhiệm theo Thánh Kinh về “người phụ nữ”, Hội Thánh cũng mong ước mọi người phụ nữ t́m lại được chính ḿnh và ơn gọi của ḿnh trong mầu nhiệm này. Nguyện xin Mẹ Maria, Đấng đi trước Hội Thánh “trên con đường đức tin, t́nh yêu và sự hợp nhất toàn hảo với Đức Kitô” [63], trong năm nay, năm mà chúng con dâng kính Mẹ, nơi ngưỡng cửa của thiên niên kỷ thứ ba sau khi Đức Kitô đến, cũng lănh nhận được “hoa trái đó” cho mọi người. Với những ước nguyện này, Tôi xin ban Phép Lành cho tất cả mọi tín hữu, đặc biệt cho các phụ nữ là những chị em trong Đức Kitô.
Ban hành tại Rôma, bên cạnh Đền thờ thánh Phêrô, vào ngày 15.08.1988, nhân dịp lễ Đức Maria hồn xác về trời, trong năm thứ 10 triều đại Giáo hoàng của Tôi. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Ghi Chú
38. Raban Maur, De vita beata Mariae Magdalena, XXVII: PL 112,1474. 39. GS số 24. 40. RM số 18. 41. GS số 24. 42. Diễn từ ngày 7 và 14.4.1982: Insegnamenti V, 1. 43. LG số 63. 44. Ibid số 63. 45. Ibid số 64. 46. Ibid số 64. 47. Ibid số 64 48. Tỉ dụ:Hs 1,2; 2,16-18; Gr 2,2: Ed 16,8; Is 50,1; 54,5-8. 49. Cl 3,18; 1 Pr 3,1-6; Tt 2,4-5; Ep 5,22-24; 1 Cr 11,3-16; 14,33-35; 1 Tm 2,11-15. 50. UBGLDT ngày 15.10.1976: AAS 69 (1977), trang 98-116. 51. LG số 10. 52. Ibid số 10. 53. Ibid số 18-29. 54. Ibid số 65 và 63; RM số 2-6. 55. Osservatore Romano, 23.12.1987. 56. GS số 10. 57. Ibid số 10. 58. Augustin, De Trinitate, L. VIII, VII, 10-X, 14: CCL 50, 284-291. 59. GS số 24. 60. Pseudo Augustin, De symb ad catech. Sermo IV: PL 40, 661. 61. GS số 10. 62. LG số 36. 63. LG số 63
CHƯƠNG HAI
CÁC TÍN ĐIỀU VỀ ĐỨC TRINH NỮ MARIA
1. Tín Điều Đức Maria Là Mẹ Thiên Chúa
Công đồng Êphêsô (431) Công đồng Êphêsô là công đồng chung thứ ba của Kitô giáo. Vào thế kỷ thứ 5 Nestorio, giáo chủ Constantinopolis chủ trương rằng: "Chúa Giêsu có hai bản tính nên có hai ngôi vị. Đức Maria chỉ là Mẹ ngôi vị nhân tính của Chúa Giêsu, nên không phải là Mẹ Thiên Chúa". Công đồng được hoàng đế Theodosius II triệu tập vào năm 431 để giải quyết cuộc tranh luật. Cyrillô, giáo chủ thành Alexandria chủ toạ công đồng gồm khoảng 250 Giám mục Đông phương, một Giám mục Tây phương và một phó tế thành Carthage cùng với ba đặc sứ của Giáo hoàng Cêlestinô I. Mặc dù có sự phản kháng của 68 Giám mục ủng hộ lập trường của Nestorio và sự ngăn cản của đại diện hoàng đế, công đồng vẫn khai mạc ngày 22 tháng 6 năm 431.Công đồng xác định Chúa Giêsu có hai bản tính nhưng chỉ có một ngôi vị duy nhất là Thiên Chúa. Mẹ Maria là Mẹ thật của Chúa Giêsu nên mẹ thật là Mẹ Thiên Chúa.
Bối Cảnh Chính Trị Thời kỳ này giáo chủ của Alexandria và Constantinopolis thường đối lập nhau. Giám mục xứ Ai Cập được nhiều người tôn sùng như là: "Giáo hoàng thành Alexandria". Vốn có uy thế từ lâu và một nguồn tài chính dồi dào, uy thế của giáo chủ Alexandria rất lớn cả hoàng đế cũng phải khiêng nể. Ngoài ra c̣n có cả một đạo binh lớn gồm các "khổ tu sĩ trên sa mạc" cùng những nhà hộ giáo. C̣n Giám mục Constantinopoli lại thường là những nhà giảng thuyết lừng danh, được chính quyền bao gồm cả hoàng đế kính nể, và dành cho nhiều quyền lợi. Đứng giữa Constantinopoli và Alexandria là Giám mục thành Antiokia và các Giám mục xứ Syria, Pont và Tiểu Á. C̣n Rôma lúc này đang nằm trong đế quốc Tây phương thường không rành các tác phẩm thần học bằng tiếng Hy Lạp của Đông phương. Giám mục ở Rôma cũng có nhiều liên hệ với Alexandria hơn là với Constantinopoli, trong khi nhiều Giám mục ở Constantinopoli muốn xóa bỏ quyền thừa kế thiêng liêng của "Roma đệ nhất".
Thần học Sau khi những tranh luận về Chúa Ba Ngôi kết thúc ở Công đồng Constantinopolis I. Các tranh luận lại nổ ra xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể, việc kết hợp giữa thiên tính Ngôi Lời và con người Đức Giêsu. Ngôi Lời vĩnh cửu c̣n Đức Giêsu được sinh ra, chịu chết [1]. Do đó nổi lên hai khuynh hướng thần học. Tại Alexandria: người ta khởi từ Ngôi Lời, nhấn mạnh sự duy nhất nơi Đức Kitô. Đức Kitô là Ngôi Lời mang xác phàm, đó là điều kiện để con người được thần hóa (lược đồ Ngôi Lời - Xác). Tại Antiokia: người ta nhấn mạnh về hai phương diện nơi Đức Kitô, khởi từ hai bản tính để đi đến thống nhất. Họ cố bảo vệ trọn vẹn nhân tính Đức Giêsu (lược đồ Ngôi Lời - Người). Hai quan điểm trên đưa đến cuộc tranh luận giữa Cyrillo Giám mục Alexandria và Nestorio Giám mục của Constantinopoli. Nestorio chủ trương Chúa Kitô (sinh bởi bà Maria) chỉ là một người được phúc tiền định mặc Thiên tính trở nên "Đền thờ" của Ngôi Lời (2 ngôi vị). Khoảng năm 424, Nestorio cấm các tín hữu khẩn cầu Đức Maria như Théotokos, nghĩa là Mẹ Thiên Chúa. Theo ông, Kinh Thánh không có hạn từ này và Đức Maria chỉ là Mẹ của nhân vật Giêsu [2]. Ngược lại, Cyrillo muốn bảo vệ sự duy nhất nơi Đức Kitô. Ông bênh vực Đức Kitô gần như chỉ có một bản tính. Cyrillo liên lạc với Giáo hoàng Cêlestinô I kết án Nestorio. Ông yêu cầu Nestorio kư vào bản văn xác định nơi Đức Giêsu, Ngôi Lời và Con người kết hợp thành một. C̣n Nestorio liền nhờ bạn hữu ở Antiokia là các Giám mục Gioan và Theodoret tố cáo Cyrillo theo lạc thuyết Appolinarius.
Công đồng Triệu tập và chủ tọa Hoàng đế Theodosius II triệu tập Công đồng để giải quyết cuộc tranh luận. Thời gian và địa điểm được ấn định vào tháng 6 năm 431 tại Êphêsô. Ông yêu cầu các tỉnh đều cử đại biểu. Thánh Augustino cũng được mời, nhưng qua đời trước khi đến công đồng. Ngay sau Lễ phục sinh, Nestorio đă đến địa điểm họp cùng với đông đảo dân chúng, tại đây ông gặp gỡ nhiều Giám mục khác để tranh thủ sự ủng hộ. C̣n Cyrillo th́ đến khoảng Lễ hiện xuống (40 ngày sau) mới đến. Juvénal, Giám mục Giêrusalem đến sau Lễ Hiện xuống năm ngày. Giám mục Antiokia là Gioan cố t́nh tŕ hoăn chuyến đi. Cyrillo được Giám mục Rôma ủy quyền chủ tọa công đồng, cùng với 50 Giám mục vùng Ai Cập, 110 vị ở Palestina và Tiểu Á, đă quyết định khai mạc công đồng khi các Giám mục vùng Antiokia và Syria chưa kịp đến, mặc cho đại diện của hoàng đế và 60 Giám mục c̣n lại yêu cầu hoăn cuộc họp [3].
Nội dung Thánh Cyrillo thành Alexandiria Mở đầu cuộc tranh luận, Cyrillo dùng lời lẽ mạnh mẽ để làm rối trí đối thủ Nestorio. Nestorio nói với Cyrillo: "Tôi không thể gọi con người đă từng là đứa trẻ hai ba tháng là Thiên Chúa, v́ vậy tôi vô tội về máu của ngài, từ nay tôi không họp chung với ngài nữa". Công đồng chia làm hai phe. Nestorio họp riêng với các Giám mục theo khuynh hướng của ông [4]. Các Giám mục c̣n lại tiếp tục họp công đồng với Cyrillo và đ̣i Nestorio phải ra ṭa xét xử. Nestorio tŕ hoăn không đến. Cyrillo và các vị khác xem xét các bài giảng của Nestorio và đưa ra phán quyết là chúng có nội dung nghịch đạo và chống báng Chúa Kitô. Ngay lập tức nhóm của Cyrillo tuyên bố cách chức Nestorio vắng mặt, cùng 12 mệnh đề bị kết án[5]: V́ Chúa Giêsu Kitô bị Nestôriô xỉ nhục, Thánh Công Đồng này đă tuyên bố Nestôriô bị loại trừ khỏi chức phẩm Giám mục và khỏi mọi hiệp thông linh mục [6]. Đồng thời các nghị phụ công nhận từ ngữ Theotokos (Mẹ Thiên Chúa) là chính đáng: “Nếu ai không tuyên xưng Emmanuel là Thiên Chúa thật, và do đó Rất Thánh Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, v́ Mẹ sinh ra xác phàm của Ngôi Lời nhập thể, th́ mắc vạ tuyệt thông” [7]. Công Đồng lên án những ai muốn tách rời, phân chia Đức Kitô, chỉ coi con người của Ngài mới sinh ra, mới chịu chết cho chúng ta, c̣n chính Ngài là Con Thiên Chúa th́ không. Như vậy, chỉ có một Thiên Chúa và một con người kề sát nhau, chứ không phải là một Đấng duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Con của Đức Mẹ [8]. Quyết định của công đồng được đưa ra nhanh đến độ các đại diện của Roma không kịp tới, tuy các vị này đến sau đă chấp nhận việc làm của công đồng. Riêng các nghị phụ xứ Syria khi tới nơi đă phản đối việc cách chức Nestorius, phủ nhận lối tŕnh bày của Cyrillô, cho rằng có những từ ngữ quá đáng hoặc không chỉnh. Ngược lại các Giám mục thuộc phe Nestorio trong phiên họp riêng cũng tuyên bố kết án Cyrillo và Giám mục Êpheso là Memmon. Khi đó Giám mục Gioan thành Antiokia mới đến dự công đồng. Ông trách Cyrillo đă gây nên xáo trộn v́ hấp tấp và tuyên bố cách chức Cyrillo. Đối lại, Cyrillo và Giám mục Juvénal cũng tuyên bố cách chức Gioan. Cuộc hỗn độn khiến cho người ta không rơ ai trong các Giám mục ai không bị kết án nữa. Đại diện của hoàng đế liền ra lệnh bắt cả hai, Cyrillo trốn kịp, được dân Alexandria tiếp đón. C̣n Nestorio bị lưu đày và qua đời tại Lybia.
Tác Động Công đồng Êphêsô bênh vực Đức Kitô duy nhất. Không c̣n ai tranh căi về "Mẹ Thiên Chúa". Dân chúng biểu lộ niềm hân hoan và chúc mừng Công đồng bằng cuộc rước đuốc vĩ đại đêm 22 tháng 6 tung hô Mẹ Thiên Chúa. Kinh: "Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội" đă được soạn ra trong dịp này. Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa đă đặt nền tảng cho việc tôn sùng Đức Maria ở cả Đông và Tây phương. Tuy vậy, các Giám mục Tiểu Á không chấp nhận lối tŕnh bày của Cyrillo và cho rằng nhiều từ ngữ chưa chỉnh. Năm 433, do tác động của Giám mục Gioan thành Antiokia, một công thức mới được đưa ra: "Có sự hợp nhất của hai bản tính (...) và v́ sự hợp nhất này, chúng tôi tuyên xưng Đức Nữ Trinh là Mẹ Thiên Chúa". Công thức này sau đó được Cyrillo chấp nhận và Giáo hoàng Xíttô II phê chuẩn.
_______________________
2. Tín Điều Đức Mẹ Đồng Trinh
Công đồng Lateran (649) Hầu hết người Tin Lành ngày nay tin rằng Chúa Giêsu được sinh ra bởi một Trinh Nữ, nhưng không chấp nhận quan niệm là Đức Mẹ đồng trinh trọn đời. Đây không phải là giáo huấn mới của Hội Thánh Công Giáo. Niềm tin này bắt nguồn từ Tông truyền, và không trái nghịch với Thánh Kinh. Các Giáo Phụ, ông Tertullian, ông Origen, Thánh Athanasiô, Thánh Gioan Chrysostom, Thánh Gregoy thành Nyssa, Thánh Giêrônimô, Thánh Ambrosiô, và Thánh Augustinô,.. cho đến các ông tổ Tin Lành, Lutherô và Calvin, đều công nhận rằng Đức Mẹ Trọn Đời Đồng Trinh. Mặc dầu người Tin Lành thời nay cố gắng dùng Thánh Kinh để chứng minh rằng Đức Mẹ có con khác ngoài Chúa Giêsu. Lư luận của họ không có ǵ mới cả. Vào thế kỷ thứ tư, Helviđiô là người đầu tiên dùng cùng những câu Thánh Kinh (này) để đả kích giáo điều này, và thánh Giêrônimô, một học giả Kinh Thánh lừng danh, đă dùng Kinh Thánh để quở trách ông. Thánh nhân gọi luận điệu của Helviđiô là mới lạ, ác tâm, và cả gan lăng mạ đức tin của cả nhân lọai. (Về Việc Trọn Đời Đồng Trinh cuả Đức Nữ Maria – chống lại Helvidiô). Đây là những luận điệu họ đưa ra để chứng mimh rằng Đức Mẹ có nhiều con khác sau khi sinh Chúa Giêsu. 1) Tân Ước nói về anh chị em của Chúa Giêsu. 2) Chữ “cho đến khi” và “con đầu ḷng” trong Mathêu 1:25. Họ đúng khi đưa ra việc Chúa Giêsu có anh chị em, nhưng họ không thể chứng minh được rằng những người này là con Đức Mẹ. Có 218 câu trong Tân Ước dùng chữ “anh em.” Hầu hết dùng để chỉ bà con họ hàng. Có rất ít dùng cho anh em ruột như trường hợp thánh Gioan và Giacôbê. Trong trường hợp anh em Chúa Giêsu, nếu chúng ta đọc kỹ Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng họ là anh em họ của Chúa Giêsu như được tả trong Matthew 27:56; Mc 15:40, 16:1; Lc 24:10 và Ga 19:25. Các câu này chứng minh rằng Giacôbê và Giuse là con của một bà Maria khác, vợ của ông Clêopa, là chị em của Đức Mẹ. Khi sứ thần Gabriel chào Mẹ, và loan báo việc Nhập Thể của Chúa Giêsu, Mẹ trả lời; “Chuyện đó xảy đến sao được, v́ tôi không có quan hệ với người nam?” Nếu Mẹ không tính giữ ḿnh trọn đời đồng trinh th́ Mẹ đă không ngạc nhiên khi nghe báo là sẽ có con. Khi Đức Chúa Giêsu lên Đền Thánh với Cha Mẹ Người lúc 12 tuổi, Tin Mừng không nói ǵ đến anh chị em của Chúa cả, nhưng nói rằng “hai ông bà t́m Người trong số bà con thân quyến.” Sau hết, trên Thánh Giá, Chúa Giêsu gửi Đức Mẹ cho thánh Gioan và “từ lúc đó, người môn đệ này đem Bà về nhà ḿnh.” Nếu Đức Maria có các con khác th́ tại sao thánh Gioan phải săn sóc cho Mẹ sau khi Chúa chịu chết? Chữ “cho đến khi” trong câu “Ông không có liên hệ vợ chồng với bà cho đến khi bà sinh một con trai” chỉ nói rằng hai người không có liên hệ tính dục cho đến khi Chúa Giêsu sinh ra, chứ không nói rằng sau đó họ có liên hệ tính dục. Câu này không chứng minh, cũng không chối bỏ việc Đức Mẹ trọn đời đồng trinh. Cùng một lư luận có thể được dùng cho chữ “con đầu ḷng.” Theo Lề Luật, “con đầu ḷng là đứa con mở bụng mẹ.” Đứa con này phải được thánh hiến cho Thiên Chúa, bất kể sau đó nó có anh chị em khác hay không. Thêm vào đó, hiền phu thực của Mẹ là Chúa Thánh Thần, chứ không phải thánh Giuse, v́ Chúa Thánh Thần đă bao phủ Mẹ trước khi thánh Giuse trở nên chồng thật của Mẹ theo Lề Luật và chương tŕnh của Thiên Chúa. Khi Mẹ đă trở nên Đền Thờ Chúa Ba Ngôi, Ḥm bia của Giao Ước Mới, th́ không thể được dùng để sinh các con khác, hay có liên hệ tính dục với một người đàn ông khác mà không phạm đến Sự Thánh Thiện của vai tṛ của Mẹ. Ông Martinô Lutherô gọi tín điều này là một điều luật của đức tin. “Việc Đức Maria là Mẹ Chúa và vẫn c̣n đồng trinh là một điều luật của đức tin” “… biết rằng Mẹ sắp trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa, Mẹ không ước mong thành mẹ của người phàm, mà muốn ở măi trong t́nh trạng ơn thánh đó.” “Chắc chắn rằng không ai mạnh sức đến nỗi, dựa theo sự thông minh của ḿnh, không theo Kinh Thánh, mà dám khư khư rằng Mẹ không c̣n đồng trinh.” Ông Gioan Calvin viết: “Helviđiô [một người lạc giáo vào thế kỷ thứ tư] đă tự chứng tỏ sự ngu dốt của ḿnh, khi nói rằng Đức Maria có vài người con, v́ ở trong vài đoạn (Thánh Kinh) có đề cập đến anh em của Đức Kitô”. “Có môt vài kẻ muốn dựa vào câu này trong Mathêu 1:25, rằng Đức Maria có các con khác ngoài Con Thiên Chúa, và thánh Giuse sau đó có ăn ở với Mẹ; nhưng lư luận này thật điên rồ biết bao! V́ tác giả Tin Mừng không muốn viết về những ǵ xảy ra sau đó; mà chỉ muốn làm sáng tỏ đức vâng lời của thánh Giuse, và cho thấy rằng thánh Giuse đă được đảm bảo chắc chắn rằng Thiên Chúa đă sai thiên sứ của Ngài đến cùng Mẹ Maria. Cho nên ông đă không bao giờ ăn ở với Mẹ hay chung chạ với Mẹ… Và ngoài chuyện này, Chúa Giêsu của chúng ta được gọi là con đầu ḷng không phải v́ có con thứ hai hay ba, nhưng v́ tác giả Tin Mừng tôn trọng tiền lệ. Kinh Thánh như vậy nói đến việc đặt tên người con đầu ḷng dù có hay không có vấn đề con thứ.” Và Ulrich Zwingli viết: “Tôi tin chắc rằng theo lời của Tin Mừng th́ một trinh nữ vẹn sạch đem lại cho chúng ta Con Thiên Chúa mà vẫn c̣n là một trinh nữ trong sạch và vẹn toàn lúc sinh con và sau khi sinh con, cho đến đời đời. Tôi tin tưởng chắc chắn rằng Mẹ đă được Thiên Chúa nâng lên để hưởng niềm vui đời đời trên tất cả tạo vật, kể các các thánh và các thiên sứ.” ĐTC Siriciô I (392), Leô I (450), và Công Đồng Constantinople I (553) đều nói về Đức Mẹ Trọn Đời Đồng Trinh. Sau cùng Công đồng Lateran (649) dưới thời Đức Giáo Hoàng Martinô I. chính thức xác nhận là Tín Điều ở Điều KhoảnThứ Ba của Công Đồng này: “Nếu ai không tuyên xưng rằng Đức Maria luôn luôn đồng trinh và vô nhiễm…đă chịu thai Ngôi Lời Thiên Chúa, không bởi tinh dịch mà bởi Chúa Thánh Thần và đă sinh ra Chúa Con, mà vẫn c̣n đồng trinh nguyên vẹn sau khi sinh con th́ kẻ ấy bị lên án”. Công đồng Tridentinô (hay Trentô 1545) cũng dạy điều ấy khi lên án những sai lạc của Độc vị phái (Unitariens). 3.Tín Điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội |