|
PVLC Mùa Chay Tuần V Thứ 2 và
Thánh Tiến Sĩ Isidoro Sevile |
Bài Đọc I: Đn 13, 1-9.
15-17. 19-30. 33-62 (Bài
dài)
"Đây tôi phải chết, dù
tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".
Trích sách Tiên tri
Đaniel.
Trong những ngày ấy,
có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là
Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có ḷng kính sợ
Chúa, v́ cha mẹ bà là những người công chính, đă dạy con cho
biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu
vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, v́ ông
là người đáng kính hơn mọi người khác.
Năm đó, người ta đă
đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đă phán về những kẻ ấy
rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ
lăo, là những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng
lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, th́ t́m
gặp các ông ở đó. Đến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna
vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lăo thấy bà mỗi
ngày đi bách bộ trong vườn, th́ phải lửa dục mê đắm; hai ông mất
lương tâm, không c̣n muốn đưa mắt nh́n lên trời và không c̣n
muốn nhớ đến sự xét xử công minh.
Hai ông chờ ngày thuận
tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa, bà
chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, v́ trời
nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lăo đang
ẩn núp và ngắm nh́n bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hăy
mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm".
Khi hai cô thiếu nữ ra
khỏi vườn, hai vị kỳ lăo đứng lên, tiến lại gần bà Susanna và
nói: "Ḱa cửa vườn đă đóng hết; không ai trông thấy ta đâu,
chúng tôi say mê bà, bà hăy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi
và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ
làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và v́ đó, bà đă
bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn".
Bà Susanna thở dài và
nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi
phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không
thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không
làm điều ǵ phạm tội trước mặt Chúa th́ hơn!" Đoạn bà tri hô
lên, nên hai vị kỳ lăo cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai
ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong
vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc ǵ đă xảy ra. Khi nghe
hai vị kỳ lăo kể lại, th́ các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, v́
thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.
Ngày hôm sau, khi dân
chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ
lăo cũng đến, ḷng đầy những ư nghĩ bất chính để tố cáo bà
Susanna cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các
người hăy đi t́m bà Susanna, con ông Helcia, vợ của ông
Gioakim". Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con
cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rơ bà
đều khóc lóc.
Khi hai vị kỳ lăo ra
đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna th́
khóc lóc, ngước mắt lên trời, v́ tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa.
Hai vị kỳ lăo nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một ḿnh trong
vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa
vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đă ẩn núp
trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi
núp ở góc vườn, nh́n thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt
quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng
thanh niên, v́ anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đă mở cửa tẩu
thoát. C̣n bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng
thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết.
Đó là điều chúng tôi xin làm chứng". Dân chúng tin lời hai ông
nói, v́ hai ông là bậc kỳ lăo trong dân và là thẩm phán, nên họ
lên án tử h́nh cho bà.
Bấy giờ bà Susanna kêu
lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Đấng thấu biết mọi bí ẩn và
mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và
đây con phải chết, dù con không làm điều ǵ mà họ ác ư vu khống
cho con".
Chúa nhậm lời bà. Khi
họ dẫn bà đi xử tử, th́ Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là
Đaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "C̣n tôi, tôi không vấy máu bà
này". Mọi người hướng mắt nh́n về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có
ư nghĩa ǵ?" Đứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái
Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết
sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người
hăy xét xử lại, v́ hai ông đă làm chứng dối hại bà".
Bấy giờ dân chúng vội
vă trở lại. Các kỳ lăo nói với Đaniel: "Này, em hăy ngồi giữa
chúng tôi và bảo cho chúng tôi, v́ Thiên Chúa đă cho em danh dự
của bậc kỳ lăo". Đaniel liền nói với họ: "Các người hăy tách
biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai
vị kỳ lăo cho".
Khi hai ông đứng xa
nhau, Đaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lăo già độc ác,
các tội xưa kia ông đă phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đă xét xử
bất công, đă lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu
có lời Chúa phán: "Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công
chính". Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, th́ hăy nói hai
người phạm tội dưới cây ǵ?" Ông ta trả lời: "Dưới cây cḥ".
Đaniel liền nói: "Đúng là ông nói dối. Đây sứ thần Chúa được
lệnh phân thây ông". Đaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông
kia đến. Đaniel nói với ông này rằng: "Hỡi ḍng giống Canaan,
chớ không phải ḍng giống Giuđa, sắc đẹp đă mê hoặc ông, và t́nh
dục đă làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đă cư xử như thế đối
với các thiếu nữ Israel, các cô v́ sợ mà phạm tội với ông. Nhưng
một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ,
ông hăy nói cho tôi biết ông đă bắt được hai người phạm tội dưới
cây ǵ?" Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Đaniel liền nói: "Cả
ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm
gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".
Bấy giờ tất cả dân
chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đă cứu thoát những kẻ trông
cậy vào Chúa. Đoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lăo mà Đaniel đă minh
chứng rằng hai ông đă vu khống, họ đă xử với hai ông như hai ông
đă xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử
hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan.
Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn
này: Đn
13, 41c-62 từ chỗ "họ
lên án tử h́nh cho bà"
Đáp Ca: Tv 22, 1-3a.
3b-4. 5. 6
Đáp: Dù
bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, v́ Chúa ở
cùng con (c. 5ab).
Xướng: 1) Chúa chăn
dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh ŕ, Người
thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn
tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Đáp.
2) Ngài dẫn tôi qua
những con đường đoan chính, sở dĩ v́ uy danh Người. (Lạy Chúa),
dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, v́ Chúa ở
cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi ḷng
con. - Đáp.
3) Chúa dọn ra cho con
mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Đầu con th́ Chúa xức
dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Đáp.
4) Ḷng nhân từ và ân
sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà
Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Đáp.
Câu Xướng Trước Phúc
Âm: 2 Cr 6, 2b
Đây là lúc thuận tiện,
đây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Ga 8, 1-11
"Ai trong các ngươi
sạch tội, hăy ném đá chị này trước đi".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên
núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn
dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy.
Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt
quả tang phạm tội ngoại t́nh, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi
người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả
tang phạm tội ngoại t́nh, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này
phải bị ném đá. C̣n Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ư gài bẫy
Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt
đầu lấy ngón tay viết trên đất. V́ họ cứ hỏi măi, nên Người đứng
lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hăy ném đá chị này
trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói
thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi
nhất, và c̣n lại một ḿnh Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn
đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi
thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án
chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta
cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hăy đi, và từ nay đừng
phạm tội nữa".
Đó là lời Chúa.
Suy niệm Năm A
Phụng Vụ Lời Chúa cho
Thứ Hai Tuần V Mùa Chay (cho những năm mà Chúa Nhật hôm trước
không phải là Năm C). Nếu để ư về bố cục của các bài Phúc Âm cho
ngày thường trong cả 2 tuần lễ cuối cùng của Mùa Chay, tuần 4 và
tuần 5, chúng ta thấy Giáo Hội cố ư sắp xếp các bài Phúc Âm như
thế này:
1- Toàn là bài Phúc Âm
theo Thánh Gioan, và hầu hết là các bài Phúc Âm cho thấy cuộc
đụng độ càng ngày càng gay go quyết liệt giữa Chúa Giêsu và
thành phần dân chúng nói chung nhất là thành phần trí thức và
lănh đạo Do Thái giáo nói riêng;
2- Các bài Phúc Âm của
Thánh Gioan được Giáo Hội cố ư chọn đọc cho ngày thường ở 2 tuần
cuối Mùa Chay bao gồm 2 yếu tố chính yếu làm nên Thánh Kinh và
việc linh ứng Thánh Linh, đó là mạc khải thần linh (nơi Chúa
Kitô) và đức tin cứu rỗi (nơi dân Do Thái);
3- Qua các bài Phúc Âm
của Thánh Gioan ở 2 tuần cuối Mùa Chay này, chúng ta thấy t́nh
trạng đụng độ quyết liệt giữa mạc khải thần linh của nhân vật
lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai về chính căn tính của Người,
liên quan đến nguồn gốc của Người, với đức tin của thành phần Do
Thái giáo vốn tin có một Thiên Chúa chân thật duy nhất trong
suốt gịng lịch sử cứu độ của họ;
4- Cuộc đụng độ quyết
liệt giữa mạc khải thần linh được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét
Thiên Sai tỏ cho đức tin truyền thống của Do Thái giáo gay go
kinh hoàng đến độ họ đă chẳng những không thể nào chấp nhận
Người, mà c̣n ném đá Người và t́m cách sát hại Người;
5- Và đó là lư do tột
đỉnh của cuộc đụng độ sống c̣n giữa mạc khải thần linh (được tỏ
ra nơi Con Thiên Chúa làm người) và đức tin tuân phục nơi con
người (mà dân Do Thái đại diện) là ở Tuần Thánh, được mở ra với
Chúa Nhật Lễ Lá, và kết thúc với Tam Nhật Thánh cũng gọi là Tam
Nhật Vượt Qua của Chúa Kitô, Đấng khổ nạn tử giá và Phục Sinh
vinh quang.
Nếu theo dơi kỹ hơn
nữa, chúng ta c̣n thấy Giáo Hội cố ư chọn đọc các bài Phúc Âm
của Thánh Gioan cho 2 tuần cuối Mùa Chay ở ngày thường như thế
này nữa, đó là bài Phúc Âm ở đầu mỗi tuần, bài Phúc Âm ở giữa
mỗi tuần và bài Phúc Âm ở mỗi cuối tuần trong 2 tuần này.
Nếu bài Phúc Âm ở mỗi
đầu tuần (Thứ Hai và Thứ Ba - tuần 4; Thứ Hai - tuần 5) trong 2
tuần cuối này là một câu truyện (đều về ơn cứu độ, cả với dân
ngoại vô thần lẫn Do Thái tật nguyền - tuần 4; và với tội nhân -
tuần 5), liên quan đến các nhân vật bày tỏ đức tin trước mạc
khải thần linh (về ḷng thương xót) được nhân vật lịch sử Giêsu
Nazarét tỏ ra cho họ, bằng việc Người cụ thể làm cho họ (phép lạ
về phần xác - tuần 4; và giải cứu về phần hồn - tuần 5),
Th́ bài Phúc Âm giữa
mỗi tuần trong 2 tuần này toàn là chính lời Người nói về chính
bản thân Người, về căn tính của Người, về nguồn gốc của Người,
để rồi bài Phúc Âm ở cuối mỗi tuần (Thứ Bảy) cho thấy thành quả
hay tác dụng của tất cả những ǵ Người đă mạc khải trong tuần
(t́nh trạng chia rẽ chẳng những trong dân chúng mà c̣n cả hội
đồng đầu mục Do Thái - tuần 4; chia rẽ chính nội bộ hội đồng đầu
mục Do Thái, để đi đến quyết định tiên tri của vị thượng tế là
một người chết thay cho toàn dân, một quyết định cuối cùng ngay
trước khi tiến vào Tuần Thương Khó và Tam Nhật Vượt Qua).
Riêng bài Phúc Âm cho
Thứ Hai đầu tuần 5 Mùa Chay hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa cho chúng
ta thấy trường hợp của 2 người phụ nữ liên quan đến tội ngoại
t́nh:
Trước hết là người phụ
nữ ở trong Sách Tiên Tri Đaniên ở Bài Đọc 1, đó là một người vợ
đẹp Suzanna, hoàn toàn bị oan ức, nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu
suốt mọi sự đă giải thoát cho nàng khỏi bị chết oan, nhờ đó, qua
chàng tiên tri thiếu niên Đaniên, Ngài đă tỏ ḿnh ra cho những
ai tham dự vào vụ án ngoại t́nh này nói chung, đặc biệt cho hai
tay quan án bất lương gian dâm âm mưu hăm hiếp nàng bất thành
nên vu oan cho nàng để giữ lấy danh dự và uy tín của ḿnh, để họ
tin vào Ngài hơn.
Sau nữa là người phụ
nữ ở trong bài Phúc Âm, người phụ nữ quả thực phạm tội ngoại
t́nh và đă bị bắt quả tang. Nếu chị vô tội mà thành phần luật sĩ
và biệt phái dám mang đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng thấu suốt mọi
sự th́ Người đă chẳng khuyên riêng chị ở cuối bài Phúc Âm rằng
"Chị hăy về và từ đây đừng phạm tội nữa". Tuy nhiên, trong khi
họ gài bẫy bắt Người bằng con mồi phụ nữ bị bắt quả tang ngoại
t́nh ấy, th́ Người lại sử dụng chính gậy ông đập lưng ông.
Ở chỗ, Người chẳng
những không sa lưới của họ mà c̣n cứu họ, bằng cách Người chẳng
những cứu cả hồn lẫn xác của nữ tội nhân ngoại t́nh mà c̣n cứu
cả thành phần công chính tố cáo chị với Người nữa. Thật vậy,
Người đă không bất đồng hay đồng t́nh ném đá chị trước vấn đề
được họ đặt ra: đồng ư ném đá th́ Người tác hành phản lại với
ḷng thương xót hằng có nơi Người và vẫn được Người tỏ ra qua
các phép lạ Người làm; ngược lại Người cũng chẳng bảo đừng ném
đá chị, bằng không Người đă xui họ làm một điều hoàn toàn trái
với luật Moisen, như thể Người dung dưỡng tội nhân và chấp nhận
tội lỗi. Đằng này, Người dùng chính tội lỗi của chị để mở mắt
cho thành phần luật sĩ và biệt phái vốn tự hào ḿnh công chính.
Chỉ duy có một con
người duy nhất bấy giờ đáng ném đá chị là Chúa Giêsu, Đấng vô
tội, nhưng Người lại không ném đá chị, trái lại, c̣n tha thứ cho
chị nữa, bởi v́ Người có quyền tha tội, không phải do bởi Người
là chính vị Thiên Chúa nhập thể, là Con Thiên Chúa, mà c̣n do
Người cũng có tội, không phải v́ tội Người đă phạm như ai, như
bất cứ một con người phàm nhân mắc nguyên tội nào, mà v́ Người
là Đấng Cứu Thế, là chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian,
đă chấp nhận tất cả mọi tội lỗi của con người, nhờ đó đă đến tội
cho con người, theo ḷng thương xót vô cùng nhân hậu của Người.
Qua ư nghĩa của bài
Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được Ḷng Thương Xót Chúa vô cùng
tuyệt vời, qua việc Chúa Kitô giải quyết vấn đề người phụ nữ bị
bắt quả tang phạm tội ngoại t́nh đáng bị ném đá chết. Vẫn biết
bài Đáp Ca hôm nay am hợp với trường hợp của người vợ duyên sắc
được Chúa cứu cho khỏi bị chết v́ oan ức ở Bài Đọc 1 hôm nay,
nhưng, ư nghĩa và tâm t́nh của những câu Thánh Vịnh 22 được Giáo
Hội chọn đọc hôm nay, vẫn có thể áp dụng và rất thích đáng cho
cả trường hợp của chị phụ nữ tội nhân đáng bị ném đá chết, lẫn
thành phần công chính biệt phái cùng luật sĩ trong bài Phúc Âm
hôm nay.
1) Chúa
chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh ŕ,
Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người
hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Ngài dẫn tôi qua
những con đường đoan chính, sở dĩ v́ uy danh Người. (Lạy Chúa),
dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, v́ Chúa ở
cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi ḷng
con.
3) Chúa dọn ra cho con
mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Đầu con th́ Chúa xức
dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Ḷng nhân từ và ân
sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà
Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
(Trong
năm C, khi bài Tin Mừng về ngươờ phụ nữ ngoại t́nh đă được đọc ở
Chúa Nhật V hôm trước, th́ hôm nay đọc bài Tin Mừng dưới đây:)
Phúc Âm: Ga 8, 12-20
"Ta là sự sáng thế
gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói
với những người biệt phái rằng: "Ta là sự sáng thế gian. Ai theo
Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".
Những người biệt phái
nói: "Ông tự làm chứng cho ḿnh, nên chứng của ông không xác
thực".
Chúa Giêsu trả lời:
"Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, th́ chứng của Ta cũng xác thực,
v́ Ta biết rơ Ta từ đâu tới và đi về đâu. C̣n các ông, các ông
không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông
đoán xét theo xác thịt; c̣n Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu
Ta có đoán xét, th́ sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi v́
không phải chỉ có ḿnh Ta, nhưng c̣n có Cha Ta là Đấng đă sai
Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người
th́ xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Đấng đă sai Ta, là Chúa
Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".
Họ nói: "Cha của ông
đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng
biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta th́ cũng sẽ biết Cha Ta".
Chúa Giêsu nói những
lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong đền thờ.
Thế mà không ai bắt Người, v́ chưa đến giờ Người.
Đó là lời Chúa.
Suy niệm Năm C
Nếu chính Chúa Kitô
không biết ḿnh là ai và từ đâu đến
th́ Người không phải
là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của nhân
loại
Ngày Thứ Hai trong
Tuần V Mùa Chay vẫn tiếp tục với bài Phúc Âm theo Thánh kư
Gioan, bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu tự làm chứng về
Người.
Nếu bài Phúc Âm tuần
trước cả dân chúng lẫn thành phần lănh đạo đều chia rẽ nhau về
nguồn gốc của Chúa Kitô th́ tuần này Người tự ḿnh chính thức
làm sáng tỏ nguồn gốc thần linh của Ngựi. Nếu tuần trước Người
nói Người không tự làm chứng về ḿnh th́ tuần này Người không
thể không tự làm chứng về Người bởi không ai biết Người bằng
chính Người.
Thật vậy, tuần trước, các bài Phúc Âm nói chung theo Thánh kư
Gioan, cách riêng bài Phúc Âm cho Thứ Năm của tuần trước ấy,
Chúa Giêsu đă không tự chứng hay chưa tự làm chứng về Người: "Nếu
chính Ta làm chứng về Ḿnh, th́ chứng của Ta sẽ không xác thực", mà
là minh chứng về ḿnh bằng 3 chứng từ khác nhau liên quan đến
bản thân và nguồn gốc của Người:
1- Chứng từ thần
linh liên quan đến Cha là Đấng đă sai Người: "Có
một Đấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta
th́ xác thực";
2- Chứng từ nhân
loại liên quan đến Tiền Hô Gioan Tẩy Giả: "Các ngươi đă sai
người đi hỏi Gioan, và Gioan đă làm chứng cho sự thật";
3- Chứng từ Thánh Kinh
liên quan đến mạc khải thần linh: "Các ngươi tra cứu Sách
Thánh, v́ tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ t́m thấy sự sống muôn
đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn
không chịu đến với Ta để được sống".
Tuần này, ngay ở bài
Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần, Chúa Giêsu bắt đầu chính thức và công
khai tự làm chứng về Người và cho Người, v́ tự Người và chính
Người là "chân lư", là "sự thật" (Gioan 14:6), một
chân lư tỏ ḿnh ra như ánh sáng không thể nào không soi chiếu,
nên ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay Người đă ngang nhiên và trịnh
trọng tuyên bố: "với những người biệt
phái rằng: 'Tôi là sự sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ không đi
trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".
Tất nhiên, khi Người
xưng ḿnh ra như thế, đối với trần gian th́ có vẻ như Người khoe
khoang, ngạo mạn, nên một gịng điện dương khi chạm phải cùng
một gịng điện dương chắc chắn không thể nào không tóe lửa,
nghĩa là v́ cho Người tỏ ra khoe khoang ngạo mạn như thế mà
thành phần bản chất vốn khoe khoang ngạo mạn thính giả của Người
bấy giờ là "những người biệt phái" đă không thể nào chấp
nhận được lời tuyên bố của Người: "Ông
tự làm chứng cho ḿnh, nên chứng của ông không xác thực".
Tuy nhiên, Chúa
Giêsu đă biện minh cho việc Người tự làm chứng về Người và cho
Người là những ǵ hoàn toàn chân thực và chính xác, qua
chính câu Người trả lời cho thành phần không tin Người và không
chấp nhận lời tuyên bố của Người: "Cho dầu Ta tự làm chứng về
Ta, th́ chứng của Ta cũng xác thực, v́ Ta biết rơ Ta từ đâu tới
và đi về đâu. C̣n các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới,
cũng chẳng biết Ta đi đâu".
Thật vậy, nếu chính
Chúa Kitô không biết ḿnh là ai và từ đâu đến th́ Người không
phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của
nhân loại, mà chỉ là một trong thành phần con người thuần túy
chúng ta, thành phần thuần nhân cho tới chết cũng chưa hoàn toàn
biết ḿnh, bởi thế vẫn liên tục sa ngă phạm tội là những ǵ sai
lạc, không đúng sự thật về bản thân họ cũng như không đúng sự
thật Thiên Chúa muốn nơi họ và cho họ, và chính v́ thế họ
chỉ được giải phóng cho đến khi họ nhận biết sự thật mà thôi
(xem Gioan 8:32).
Muốn biết ḿnh thực sự
là ai th́ con người cần phải biết ḿnh "từ đâu tới" và sẽ
"đi đâu", chứ không phải chỉ biết ḿnh "từ đâu tới"
song chẳng biết ḿnh sẽ "đi đâu" là đủ biết ḿnh một cách
chân thực và chính xác. Chẳng hạn, theo đức tin của ḿnh, Kitô
hữu chúng ta tin rằng, về nguyên ủy, hay nguồn gốc, "từ đâu
tới" chúng ta được dựng nên từ hư vô, bởi được Thiên Chúa
yêu thương, nhưng trong cuộc sống, về cùng đích "đi đâu" là nơi
chúng ta sẽ tới và cần phạt đạt tới, chúng ta lại sống như thể
không có đời sau, không có Thiên Chúa, chỉ luôn t́m kiếm và
theo đuổi những ǵ thuộc về hạ giới hợp với xác thịt của chúng
ta hơn là Nước Trời và thay v́ vĩnh phúc trường sinh bất diệt.
Chúa Giêsu thật sự
biết được Người "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu": Người
từ Thiên Chúa mà tới, Đấng đă sai Người tới: "Thày từ Cha
mà đến và đă đến trong thế gian" (Gioan 16:28), và v́ thế
nơi Người "đi đâu" không c̣n chỗ nào khác ngoài chính nơi
Cha của Người muốn Người tới, nghĩa là Người được sai đến để làm
theo ư Cha là Đấng đă sai Người, chứ không phải làm theo ư của
Người, đúng như Người đă tuyên bố với người Do Thái: "Tôi từ
trời xuống không phải để làm theo ư của ḿnh mà là ư của Đấng đă
sai tôi" (Gioan 6:38).
Mà ư của Cha là nơi
Người phải tới, mà Người phải làm theo và chu toàn đây là ǵ,
chính Người cũng biết rơ ràng và chắc chắn Người mới có thể làm
theo đúng và đáp ứng thật: "Ư muốn của Đấng đă sai Tôi đó là
Tôi không được làm mất một sự ǵ Ngài đă ban cho Tôi, trái lại,
Tôi phải làm cho nó sống lại trong ngày sau hết" (Gioan
6:39).
"Ngày sau hết",
trong câu Chúa Giêsu nói đến ở đây, chúng ta thường hiểu về ngày
tận thế, nhưng ở đây có thể hiểu là chính thời điểm của Người,
một thời điểm "viên trọn" (Galata 4:4), thời điểm "sau
hết" Thiên Chúa đă tỏ ḿnh ra nơi chính Người là Con của
Ngài theo gịng lịch sử cứu độ của dân Do Thái là lịch sử mà mạc
khải thần linh đă được Thiên Chúa từ từ tỏ hiện cho đến tột đỉnh
nơi Chúa Giêsu Kitô vào thời "sau hết" như Thánh Phaolô
viết ở ngày đầu Thư Do Thái của thánh nhân (xem Do Thái 1:1-3).
"Sống lại",
cũng trong lời Chúa Giêsu nói ở đây, là "sống lại" vào "thời điểm
viên trọn" (Galata 4:4) tức là vào "ngày sau hết",
một "sống lại" trước hết và trên hết về phần hồn của con
người đă bị hư đi theo nguyên tội và từ nguyên tội, một "sống
lại" bởi cuộc Vượt Qua của Người, khi Người tỏ hết ḿnh
ra để bằng cuộc phục sinh của ḿnh, Người chẳng những chiến
thắng tội lỗi và sự chết mà c̣n thông ban sự sống và Thánh Linh
cho chung nhân loại qua Giáo Hội của Người mà đầu tiên ở nơi các
tông đồ của Người (xem Gioan 20:21-23).
Về nguồn gốc của Chúa
Kitô, tức về xuất xứ của Người "từ đâu đến", đă trở
thành sự kiện then chốt và đă từng làm cho dân Do Thái nói chung
và thành phần lănh đạo của họ nói riêng chia rẽ hết sức trầm
trọng, như trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần vừa rồi cho thấy, th́
về nơi "đi đâu" của Người hay về việc Người "đi đâu"
lại càng là một mầu nhiệm vô cùng bí ẩn, họ làm sao biết được và
cũng không thể nào biết được.
Cho dù Người có nói ra
chăng nữa, như Người đă từng tiết lộ cho các môn đệ thân tín của
Người ba lần, mà các vị vẫn "không thể nào đến được",
hiểu được, đúng như Người đă quả quyết với các vị như đă quả
quyết với dân Do Thái (xem Gioan 13:33), chứ chưa nói ǵ đến
chuyện các vị có thể đến được nơi Người "đi đâu", cho đến
khi Người đi dọn chỗ cho các vị trở về đón các vị đi với Người
(xem Gioan 14:2-3).
Đó là lư do Chúa
Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay đă cho thành phần thính giả của
Người biết lư do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của
Người về chính bản thân Người là Đấng đă biết rơ về ḿnh, "từ đâu đến"
và sẽ "đi đâu", chỉ v́:
"Các
ông đoán xét theo xác thịt; c̣n Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc
nếu Ta có đoán xét, th́ sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi v́
không phải chỉ có ḿnh Ta, nhưng c̣n có Cha Ta là Đấng đă sai
Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người
th́ xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Đấng đă sai Ta, là Chúa
Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".
Trong câu này, Chúa
Giêsu chẳng những cho thính giả của Người bấy giờ
thấy được lư do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của
Người là v́ họ "xét đoán theo xác thịt" chứ không theo
chân lư, mà c̣n cho họ thấy rằng chứng từ của Người là đúng, v́
theo nguyên tắc th́ chứng của hai người là chứng thật, và v́ thế
chứng từ của Người là xác thực bởi cả có 2 người làm chứng là
chính bản thân Người lẫn Cha của Người là Đấng đă sai Người làm
chứng cùng một điều về Người.
Và chính v́ Chúa Giêsu
nại đến Cha của Người là một trong hai người làm chứng về Người
nên Người đă bị thành phần thính giả của Người thách thức đặt
vấn đề: "Cha của ông đâu?", Đấng mà Người đến "để tỏ
Cha ra" (Gioan 1:18) qua bản thân Người, đến độ "ai thấy
Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9), nên Người đă cho thành phần
thính giả chất vấn Người về Cha của Người rằng: "Các
ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta
th́ cũng sẽ biết Cha Ta".
Bài Đọc 1 hôm nay được
trích từ Sách Tiên Tri Đaniên về câu chuyện của bà Suzanna công
chính nhưng bị mang đi ném đá chết bởi bà bị kết án theo luật
căn cứ vào chứng từ của 2 người chứng, một chứng từ gian dối
nhưng hoàn toàn lấn át lời tự chứng của người phụ nữ nạn
nhân đáng thương này, chẳng khác nào như Chúa Giêsu tự làm chứng
cho ḿnh mà chẳng ai tin vào Người vậy.
Trước hết là lời chứng
của hai nhân chứng, tức là của hai lăo già đang giữ vai tṛ làm
thẩm phán trong dân thường sử dụng ngôi nhà rộng răi sang trọng
của vợ chồng bà để xử các vụ kiện cáo của dân chúng, đă âm mưu
chiếm hưởng thân xác kiều mỹ hấp dẫn của bà khi bà đang tắm
kín đáo một ḿnh trong vườn nhà của bà vào một buổi trưa nóng
bức:
"Khi chúng tôi đi
bách bộ một ḿnh trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái.
Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng
thanh niên đă ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với
bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nh́n thấy tội ác, chúng tôi
liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi
không bắt được chàng thanh niên, v́ anh ta khoẻ mạnh hơn chúng
tôi, nên đă mở cửa tẩu thoát. C̣n bà này chúng tôi bắt được,
chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn
nói cho chúng tôi biết. Đó là điều chúng tôi xin làm chứng".
Sau nữa là lời chứng
của chính đương sự bị tố cáo là bà Suzanna, như Bài Đọc 1 cho
biết, "bà rất xinh đẹp và có ḷng kính sợ Chúa", và khi
bị hai tên "thẩm phán kỳ lăo" ở Babylon "phải lửa dục
mê đắm... mất lương tâm" ŕnh ṃ bà và bất ngờ tấn công t́nh
dục bà, nhưng bà đă cương quyết chống trả bất chấp số mệnh ra
sao th́ ra:
"Bà Susanna thở dài
và nói: 'Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như
thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng
không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà
không làm điều ǵ phạm tội trước mặt Chúa th́ hơn!' Đoạn bà tri
hô lên, nên hai vị kỳ lăo cũng kêu lên tố cáo bà".
Thế nhưng, chỉ cần căn
cứ vào chứng của hai người, mà hai chứng nhân này lại là hai vị
thẩm phán đáng kính có tuổi và có thế trong dân th́ người vợ
thủy chung với chồng và kính sợ Thiên Chúa chỉ có chết, đến độ
dân chúng mù quáng cả tin cả nể chẳng cần nghe bà thanh minh ǵ
cả đă "lên án tử h́nh cho bà".
Khi bị lên án tử rồi,
người đàn bà đáng kính đáng phục này chỉ c̣n biết kêu đến trời
và phó thác mọi sự trong tay Ngài là Đấng bà kính sợ và tin
tưởng, Đấng bà đă không sợ chết mà xúc phạm đến Ngài, nhất định
không chịu chiều theo ư muốn nhục dục của hai lăo già gian ác
tồi bại, Đấng duy nhất có thể thấy được tất cả sự thật: "Lạy
Chúa hằng hữu, Đấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy
ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết,
dù con không làm điều ǵ mà họ ác ư vu khống cho con".
Nếu bên đối phương tấn
công bà có hai nhân chứng, và như Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm
hôm nay cũng có 2 nhân chứng về Người là chính bản thân Người và
Cha của Người, th́ người đàn bà nạn nhân vô tội bị oan ức
này cũng có đủ 2 nhân chứng, đó là chính bản thân bà, v́ bà biết
bà hơn tất cả mọi người khác biết về bà, một sự thật về bà đúng
như Thiên Chúa là nhân chứng thứ hai biết về bà. Bởi thế, Thiên
Chúa cũng đă nhúng tay vào làm chứng về bà, như Bài Đọc 1 cho
biết tiếp như sau:
"Chúa
nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, th́ Chúa giục thần trí một
đứa trẻ tên là Đaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: 'C̣n tôi, tôi không
vấy máu bà này'. Mọi người hướng mắt nh́n về đứa trẻ và nói:
'Lời mi nói có ư nghĩa ǵ?' Đứa trẻ ra đứng giữa mọi người và
nói: 'Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa
xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ
Israel? Các người hăy xét xử lại, v́ hai ông đă làm chứng dối
hại bà'".
Phải, Thiên Chúa đă sử
dụng một trang thiếu niên trẻ trung đứng ra xét sử hai lăo già
thẩm phán trong dân, để chẳng những chứng tỏ cho dân của Ngài
thấy rằng: 1- ai tin vào Ngài sẽ được Ngài chở che bênh đỡ,
và 2- "bóng tối không thể nào át được ánh sáng" (Gioan
1:5):
"Bấy
giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đă cứu thoát
những kẻ trông cậy vào Chúa. Đoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lăo mà
Đaniel đă minh chứng rằng hai ông đă vu khống, họ đă xử với hai
ông như hai ông đă xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê,
họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ
oan".
Không biết khi được
Thiên Chúa minh oan cho, bà Suzanna đă cảm thấy ra sao, nhưng
chắc chắn tâm can của bà đă trải qua một cảm nghiệm thần linh
rất sâu xa lạ lùng: "Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước
mặt những kẻ đối phương", và từ đó tấm ḷng tri ân
cảm tạ của bà đă trào dâng lên những tâm t́nh càng tin tưởng cậy
trông vào Thiên Chúa hơn: "dù bước đi trong thung lũng tối,
con không lo mắc nạn, v́ Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của
Ngài, đó là điều an ủi ḷng con", đúng như trong Bài Đáp Ca
hôm nay:
1) Chúa chăn dắt tôi,
tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh ŕ, Người thả tôi
nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi;
tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Ngài dẫn tôi qua
những con đường đoan chính, sở dĩ v́ uy danh Người. (Lạy Chúa),
dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, v́ Chúa ở
cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi ḷng
con.
3) Chúa dọn ra cho con
mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Đầu con th́ Chúa xức
dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Ḷng nhân từ và ân
sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà
Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL. Nếu
có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ
trên
MC.V-2ab.mp3
(Phúc Âm về người đàn
bà ngoại t́nh, hợp với Bài Đọc 1 về bà Suzanna, hay cũng có thể
đọc Phúc Âm như Năm C thay thế kh3i bị trùng với CN hôm trước)
MC.TuanV-2c.mp3
(Phúc Âm về Chúa Kitô
là Ánh Sáng thế gian, thay cho Phúc Âm người đàn bà ngoại t́nh
đă được đọc Chúa Nhật MCV-C hôm qua)
Thánh ISIDORO
Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (+636)
ĐTC
Biển Đức
XVI: Thánh Isidore of Seville
1. Ghi nhận lịch sử -
Phụng Vụ
Thánh Isidore, quê tại
Séville theo truyền khẩu, sinh khoảng năm 560 tại Andalousie
(Tây Ban Nha) từ một gia đ́nh gia giáo lành thánh: các anh em là
hai giám mục Léandre và Fulgence, c̣n Florentine là chị gái.
Người kế vị anh Léandre trên ngai giám mục thành Sévilla năm
601.
Trong nhiệm kỳ giám
mục khá lâu dài, người rao giảng chống lại những kẻ theo bè Ario
và những người lạc giáo được gọi là nhóm “vô thủ lĩnh”. Họ không
chấp nhận Đức Kitô có hai bản tính. Gần Sévilla, ngài thành lập
một ngôi trường – sau này rất nổi tiếng – để đào tạo các linh
mục và giáo dân; ngài cũng là giảng viên tại chính ngôi trường
này. Tại Công đồng Tolède lần thứ IV năm 633, ngài yêu cầu Giáo
Hội phải thành lập các trường tương tự: đó là nguồn gốc các
trường của Hội Thánh và Đan Viện, xuất hiện trước khi có các đại
học.
Là một nhà văn lớn,
một học giả uyên thâm về nền văn học ẩn sĩ Đông Phương và rất
sùng mộ Origène, thánh nhân đă để lại cho chúng ta nhiều tác
phẩm, trong đó: tập Luận đề (Sentences) và ba quyển sách dọn
đường cho các “Tổng Luận” thời Trung Cổ để trau dồi kiến thức
lẫn tâm linh cho các linh mục, đan sĩ và giáo dân. Nhưng tuyệt
tác phẩm của người vẫn là cuốn sách mang tựa đề tiếng La Tinh
Etymologiae (dịch sang pháp ngữ: Étymologies sur l’origine de
certaines choses– nguồn gốc các từ đầu ngành,): đó là một loại
từ điển bách khoa (hai mươi quyển) bao gồm mỹ thuật, kỹ thuật,
luật, y học, các khoa học tự nhiên, tôn giáo...
Là sử gia (lịch sử dân
Goths), là thi sĩ và nhà Phụng Vụ (bộ Sách Lễ và Kinh Nhật Tụng,
được cho là của thánh nhân, là cốt lơi cho Phụng Vụ tương lai
mozarabe); ngài c̣n là luật gia (Regula monachorum), nhà thần
học và mục tử, nên ngài truyền bá truyền thống Công Giáo và
chuyên cần tổ chức Hội Thánh. Năm 633, với tư cách là một vị chủ
tŕ Công Đồng Quốc Gia lần thứ IV tại Tolède, ngài ấn định một
nền Phụng Vụ thống nhất cho toàn Tây Ban Nha và miền Gaule
narbonaise. Người ta cho rằng ngài soạn lời nguyện Adsumus đọc
trong mọi Công Đồng.
Isidore de Séville
chiếm vị trí hàng đầu trong suốt thời Trung Cổ; vào thời này,
các tác phẩm La Tinh của thánh nhân được nhiều người đọc và sao
chép nhiều nhất. Đối với Bède Khả Kính (thế kỷ VIII), thánh nhân
là tác giả được ưa chuộng nhất sau Thánh Kinh.
Qua đời tại Séville
năm 636, sau 25 năm làm giám mục và được tôn kính như một vị
hiển thánh trong toàn cơi Phương Tây từ thế kỷ IX; ngài được Đức
Giáo Hoàng Innocent XIII tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh năm
1722. Thi hài thánh nhân được sùng kính tại Léôn (Tây Ban Nha).
Nghệ thuật ảnh tượng thường biểu hiện h́nh ảnh ngài cầm bút
lông, với đàn ong vây quanh hay bên cạnh tổ ong.
2. Thông điệp và tính
thời sự
Lời nguyện riêng biểu
dương thánh Isidore làm bậc “tôn sư về linh đạo”, gợi lại tước
hiệu tiến sĩ Hội Thánh của ngài.
a. sau khi là một
người học sinh tầm thường, Isidore
chuyên cần học tập, cống hiến cả đời ḿnh để nghiên cứu và giảng
dạy. Dưới mắt người đương thời, thánh nhân “phản ảnh kiến thức
văn hóa La-Hi cổ xưa”. Ngài đóng vai tṛ quan trọng trong các
thế kỷ về sau cho đến thời các nhà kinh viện nổi tiếng.
Nhưng trên hết,
Isidore là mục tử hơn là nhà nghiên cứu; kiến thức văn hóa uyên
thâm của người chỉ phục vụ con người, Hội Thánh và Đức Tin.
Phụng Vụ Thánh Lễ tŕnh bày cho chúng ta dụ ngôn các nén bạc (Mt
25, 14-30) để nhấn mạnh tính chuyên cần học hỏi của thánh nhân
nhằm phục vụ Hội Thánh và anh em hữu hiệu hơn.
b. Bài đọc một trong
Thánh Lễ (1
Cor 2, 1-10) tập trung vào lẽ khôn ngoan: Đó chính là lẽ khôn
ngoan mà chúng ta loan báo... được tiền định cho những ai yêu
mến Thiên Chúa.
- Trong Hội Thánh Tây
Ban Nha, nhiệm kỳ giám mục khá lâu dài của thánh Isidore dường
như thể hiện lẽ Khôn Ngoan hằng thích thú “giao lưu với con cái
loài người” (lời đáp trong các bài đọc Kinh Sách). Với tư cách
là nhà văn, nhà thuyết giáo, và giảng dạy, ngài sáng lập các học
viện để giáo huấn và đào tạo giới trẻ, thánh nhân đă định hướng
mọi việc nhằm đạt được lẽ khôn ngoan đích thực. Ngài thường nhắc
nhở: “Hăy yêu mến khôn ngoan, con sẽ được khôn ngoan tán dương
ca tụng, nếu con cùng khôn ngoan gắn bó, khôn ngoan sẽ đem vinh
dự lại cho con” Nhưng làm sao đạt được lẽ khôn ngoan ? Bài đọc -
Kinh sách trích dẫn, một đoạn trong các luận đề của thánh
Isidore: “Mọi sự tiến bộ điều do đọc Sách Thánh và suy niệm ...
Không ai có thể biết được ư nghĩa Sách Thánh nếu không làm quen
nhờ năng đọc”.
- Lời cầu nguyện chiếm
một vị trí quan trọng trong đời sống Kitô hữu v́ nhờ cầu nguyện
chúng ta được thanh tẩy; nhờ đọc Sách Thánh, chúng ta được dạy
dỗ.V́ thế “nếu làm được cả hai th́ tốt, c̣n nếu không, th́ cầu
nguyện tốt hơn là đọc Sách Thánh. Ai muốn được luôn ở với Thiên
Chúa phải năng cầu nguyện và năng đọc Sách Thánh nữa, bởi lẽ khi
chúng ta cầu nguyện là chính chúng ta nói với Thiên Chúa, c̣n
khi chúng ta đọc Sách Thánh th́ Thiên Chúa nói với chúng ta”
(các Bài Đọc - Kinh Sách).
Enzo Lodi
https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/04-04-thanh-isidoro-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-khoang-560-636-le-nho-tuy-chon/
Lm. Đaminh Phạm Xuân
Uyển SDB
Trong 76 năm cuộc đời
của thánh Isiđorô là thời kỳ tranh chấp cũng như phát triển của
Giáo hội Tây Ban Nha. Người Visigoth xâm lăng phần đất này trong
một thế kỷ, và trước đó nửa thế kỷ trước khi thánh Isiđorô chào
đời th́ họ đă thiết lập một thủ đô khác cho chính họ. Đó là
những người theo Ariô – Họ cho rằng Đức Kitô không phải là Thiên
Chúa. Do đó, Tây Ban Nha bị chia làm đôi: Một dân tộc (người
Công giáo La Mă) phải chiến đấu với dân tộc khác (người Gôtích
Ariô).
Thánh Isiđorô là người
hợp nhất Tây Ban Nha, giúp quốc gia này trở nên một trung tâm
văn hóa và học thuật cũng như một khuôn mẫu cho các quốc gia Âu
châu khác, mà các nền văn hóa ấy đang bị đe dọa bởi sự xâm lăng
của những dân man di.
Có thể nói thánh
Isiđorô sinh trong một gia đ́nh thánh thiện của thế kỷ thứ sáu ở
Tây Ban Nha. Hai người anh của ngài, Leander và Fulgentius, và
người chị, Florentina, đều là các thánh được sùng kính ở Tây Ban
Nha. Đây cũng là một gia đ́nh lănh đạo và tài giỏi với các vị
Leander và Fulgentius đều làm Giám mục và Florentina làm mẹ bề
trên.
Là một người tài giỏi
về học thuật, đôi khi thánh Isiđorô được gọi là “Sư phụ của thời
Trung cổ” v́ cuốn bách khoa ngài viết, tên là “Etymology” (Từ
nguyên học), đă được dùng như sách giáo khoa trong chín thế kỷ.
Ngài c̣n viết các sách về văn phạm, thiên văn, địa lư, sử kư, và
tiểu sử cũng như thần học.
Kế vị anh ḿnh là Đức
Leander, Isiđorô làm Giám mục Seville trong 37 năm, ngài đặt ra
các mẫu mực cho một chính quyền đại nghị ở Âu châu [tức chính
quyền có Quốc hội Lập pháp là đại diện của nhân dân], đồng thời
ngài tẩy chay các quyết định độc đoán và chủ tŕ các công đồng
quốc gia (national coumcil) để thảo luận về đường hướng của Giáo
hội Tây Ban Nha. Ngài yêu cầu mỗi một giáo phận đều phải có
chủng viện, ngài viết quy luật cho các ḍng tu và thành lập các
môn học thuộc đủ mọi ngành. Thánh Isiđorô viết rất nhiều sách,
kể cả một cuốn tự điển, một bộ bách khoa, một cuốn sử người
Gôtích và một cuốn sử thế giới bắt đầu từ khi Thiên Chúa tạo
thành trời đất! Ngài hoàn thành bộ phụng tự Mozarabic mà ngày
nay vẫn c̣n được sử dụng ở Toledo, Tây Ban Nha.
Ư thức rất rơ là sự
phồn thịnh thiêng liêng và vật chất của quốc gia lệ thuộc hoàn
toàn vào việc hấp thụ và liên kết các yếu tố ngoại lai, thánh
Hisidorô đă thành công trong việc kết lại toàn thể đám dân
chúng hỗn tạp thành một đất nước thuần nhất tạo thành vương quốc
Gôtích Tây Ban Nha. Ngài đă biết sử dụng các tiềm năng tôn giáo
và giáo dục để đạt đến mục tiêu này. Ngài đă hoàn toàn thành
công. Chủ nghĩa Ariô là h́nh thức Kitô giáo nguyên thủy giữa
những người Visigoth là thành phần lănh đạo Tây Ban Nha xuất
phát từ cuộc xâm nhập Visigoth từ Đức vào Âu châu xưa, đă hoàn
toàn biến mất, nhường chỗ cho một Kitô giáo chính thống. Các tà
giáo khác cũng bị dập tắt ngay khi vừa mới được thai nghén. Kỷ
luật tôn giáo được củng cố khắp nơi. Ngay khi 80 tuổi, ngài vẫn
sống khắc khổ. Trong sáu tháng sau cùng của cuộc đời, ngài gia
tăng ḷng bác ái đến độ, từ sáng đến tối, nhà của ngài lúc nào
cũng đầy người nghèo. Ngài từ trần năm 636 và được Giáo hội
tuyên xưng là Tiến sĩ Hội Thánh.
http://loichua.donboscoviet.org/ngay-4-thang-4-thanh-isidoro/
Thánh Isidorô được coi
như vị thánh tiến sĩ lừng danh nhất của Giáo hội Tây Ban Nha.
Ngài chào đời tại Carthagena trong một gia đ́nh thật đặc sắc, có
cha mẹ đạo đức và và cả bốn anh em đều được tôn phong lên hàng
hiển thánh . Các anh Ngài là hai thánh giám mục Leanger và
Fulgentio. Chị Ngài là thánh nữ Florentina. Như vậy thánh
Isidôrô thật có phúc v́ được sinh ra sống giữa các vị thánh.
Cha mẹ mất sớm, người
anh cả lănh nhiệm vụ hướng dẫn đứa em út Isidorô. Một bức thư
của thánh Leander viết cho em gái là thánh Florentina làm chứng
điều đó: – “Anh xin em hăy nhớ đến anh trong kinh nguyện và đừng
quên chú út Isidorô. Cha mẹ đă kư thác em cho chúng ta và đă trở
về với Chúa mà không phải e sợ ǵ, bởi v́ các Ngài đă trao cho
em một người chị và hai người anh săn sóc”.
Dù rất thương em.
Nhưng Leander đă phải dùng biện pháp mạnh là cây roi để sửa trị
tính nhu nhược của đứa em biếng nhác. Một lần kia v́ sợ đ̣n và
chán học, Isidorô đă bỏ nhà trốn đi. Cậu chạy nước rút mau hết
sức cho tới khi ngă quỵ bên một bờ giếng. Mơ màng trong lúc lấy
hơi, cậu nh́n thấy vách đá bên thành giếng có một đường rănh.
Một phụ nữ đến kín nước giải thích cho cậu biết rằng, đá cứng
đến đâu đi nữa nhưng sợ giây thừng cọ sát liên tục cũng soi ṃn
được. Hiện tượng này khiến cậu phải suy nghĩ: “Với thời gian sợi
giây thừng và những giọt nước đẽo được cả đá, c̣n tôi lại không
thể học hành để gọt giũa tâm hơn sao ?”
Thật là một bài học lạ
lùng đối với Isidorô. Ngài lấy lại can đảm bắt tay và làm việc
không c̣n biết mệt mỏi. Nỗ lực không ngừng đă biến Ngài thành
nhà thông thái nhất thời đó. C̣n thanh xuân, Ngài đă thông hiểu
triết học, đă nghiên cứu các tác phẩm về luật. Nhà chép sử
Arevalo đă phải thán phục ghi nhận nói Ngài một sự cao siêu như
Platon, sự thông hiểu của Aristote, tài hùng biện của Cicéron,
sự uyên bác của Origenê, sự thận trọng của thánh Hiêronimô, giáo
thuyết của thánh Augustinô và sự thánh thiện của thánh Gregoriô.
Người ta c̣n nói rằng khi đọc một bức thư của Isidorô, thánh
Grêgoriô đă thốt lên lời đầy tính chất tiên tri: – “Đây là một
tiên tri Daniel, một người c̣n trổi vượt hơn cả Salomon”.
Isidorô thụ phong linh
mục và theo anh là Leander đang làm giám mục Seville, tham dự
các công đồng. Dầu có cuộc bách hại của nhà vua theo phái Ariô
và đă trục xuất hai anh của Ngài, thánh nhân vẫn công khai chống
lại lạc giáo. Ngài đă thay anh cai quản giáo phận lúc người anh
bị lưu đày. Năm 600, khi Đức Cha Leander từ trần, Ngài đă được
cử lên kế vị. Đức giáo hoàng Grêgoriô cả c̣n đặt Ngài làm vị
tổng đại diện cho ḿnh ở Tây Ban Nha.
Dầu không bao giờ là
tu sĩ, thánh Isidorô đă viết một bộ luật ḍng tu. Ngài giải
thích, khai triển và hệ thống hoá phung vụ Mozarabic. Ngài nỗ
lực tiêu diệt tàn tích của phái Ariô, và đánh bại lạc thuyết của
Acephali, một ngành của lạc giáo Nhất tính thuyết ở Tây Ban Nha.
Hơn nữa thánh nhân c̣n lập nhiều trường học để giáo dục con dân
của Ngài. Có ảnh hưởng lớn tại triều đ́nh, Ngài cũng giữ phần
sáng chói trong cộng đồng Toleđô năm 610, chủ tọa công đồng
Seville II năm 618 hay 619 và công đồng Tôleđo IV năm 633.