Bài Đọc I: Gr 1, 4-5, 17-19
"Ta sẽ đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc".
Bài trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong thời vua Giosia, lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Trước khi
Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi
ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi
làm tiên tri trong các dân tộc.
Vậy phần ngươi, ngươi hãy thắt lưng, hãy chỗi dậy, và nói cho họ
biết tất cả những điều Ta truyền dạy cho ngươi. Đừng run sợ
trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước mặt họ.
Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc, một cậy
cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng trước mặt các vua Giuđa,
các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ này. Họ sẽ chiến đấu
chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với ngươi
để giải thoát ngươi".
Đó là lời Chúa.
Đáp Ca: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15ab và 17
Đáp: Miệng
con sẽ loan truyền sự Chúa công minh (c. 15a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con
tủi hổ muôn đời; theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải
thoát con, xin ghé tai về bên con và giải cứu. - Đáp.
2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến luỹ vững
bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Đá Tảng, là chiến luỹ của con.
Lạy Chúa con, xin cứu con thoát khỏi tay đứa ác. - Đáp.
3) Bởi Ngài là Đấng con mong đợi, thân lạy Chúa. Lạy Chúa, Ngài
là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con
đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Đấng bảo vệ
con, con đã luôn luôn cậy trông vào Chúa. - Đáp.
4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể
ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu,
và tới bây giờ con còn kể (ra) những sự lạ của Ngài. - Đáp.
Bài Đọc II: 1 Cr 12, 31 - 13, 13 (bài
dài)
"Đức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng
hơn cả".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu
Côrintô.
Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và
tôi chỉ bảo cho anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói
được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác
ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang
động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và
mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được
núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân
phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình
để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì
cho tôi.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác
lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy
tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui
cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất
cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn
ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta
hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng
khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn
bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như
trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là
trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng
lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng
lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin,
đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân
đức, đức mến là trọng hơn cả.
Đó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: 1
Cr 13, 4-13
"Đức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng
hơn cả".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu
Côrintô.
Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác
lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy
tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui
cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất
cả, chịu đựng tất cả.
Bác ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn
ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất. Vì chưng chúng ta
hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng
khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn
bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như
trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là
trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm gương, nhưng
lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có giới hạn, nhưng
lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin,
đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân
đức, đức mến là trọng hơn cả.
Đó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự
sống; Chúa có lời ban sự sống. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 4, 21-30
"Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với
người Do-thái".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: "Hôm nay
ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người
đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng
Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse
sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn
ngữ này: 'Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!' Điều chúng
tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương
ông'". Người nói tiếp: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một
tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với
các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời
bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp
trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một người nào
trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ
Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri
Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại
trừ Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ
chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên
triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực
thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Đó là lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô Ngôn
Sứ
Hôm nay Chúa Nhật Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm
phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục phản ảnh
qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay, liên quan đến vai trò ngôn sứ của
những vị được Thiên Chúa sai đến.
Thật vậy, vai trò của bất cứ vị ngôn sứ nào được Thiên Chúa
tuyển chọn và sai đến, không phải chỉ ở chỗ trung
thực chuyển đạt tất cả những gì Thiên Chúa muốn loan báo hay
nhắc nhở hoặc cảnh giác dân của Ngài, mà còn ở chỗ can trường
làm chứng cho tính chất chân thật nơi những gì mình lãnh nhận để
truyền đạt, và những gì mình truyền đạt một cách trung
thực ấy, như kinh nghiệm lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho
thấy, lại trở thành nguyên nhân tác hại chính bản thân của vị
ngôn sứ, gây ra bởi thành phần được vị ngôn sứ truyền đạt không
tin tưởng vào bản thân sứ giả truyền đạt và không chấp nhận
sứ điệp được truyền đạt.
Đúng thế, trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, 2 vị điển hình cho
các vị ngôn sứ tiêu biểu này là Tiên Tri Giêrêmia trong Bài Đọc
1 và Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm.
Trước hết, vì là một con người được Thiên Chúa tuyển chọn làm
ngôn sứ của Ngài và thay Ngài mà tiên tri Giêrêmia đã được Thiên
Chúa chăm sóc hết sức đặc biệt về thiêng liêng cho ngay từ khi
chàng vừa mới xuất hiện trên đời này, như chính vị tiên tri đã
cảm nhận trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Trước khi Ta tạo thành
ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra
khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi".
Sau nữa, sở dĩ con người được Thiên Chúa tuyển chọn và chăm sóc
hết sức đặc biệt cho ngay từ ban đầu như vậy là để con người này
có thể thực thi vai trò ngôn sứ của mình một cách chân thực và
hiệu năng, đúng như những gì Ngài muốn truyền đạt qua họ, như
chính Ngài đã khẳng định trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Ta đã đặt
ngươi làm tiên tri trong các dân tộc. Vậy phần ngươi, ngươi hãy
thắt lưng, hãy chỗi dậy, và nói cho họ biết tất cả những điều Ta
truyền dạy cho ngươi".
Sau hết, biết được trách nhiệm nặng nề và khốn khó trở
ngại trong sứ vụ làm ngôn sứ của mình và thay mình nơi
một con người nào đó được mình tuyển chọn và sai đi, Thiên Chúa
cũng báo trước và trấn an vị tiên tri này về một tương lai thê
thảm của ngài, cũng ở trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay, như sau: "Đừng
run sợ trước mặt họ, vì Ta không làm cho ngươi kinh hãi trước
mặt họ. Hôm nay Ta làm cho ngươi nên một thành trì vững chắc,
một cây cột bằng sắt, một vách thành bằng đồng trước mặt các vua
Giuđa, các hoàng tử, các tư tế và dân chúng xứ này. Họ sẽ chiến
đấu chống ngươi, nhưng họ không thắng được ngươi, vì Ta ở với
ngươi để giải thoát ngươi".
Thực tế quả là đã xẩy ra đúng như thế, nhất là đối với vị tiên
tri của tất cả tiên tri là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu
Thế, Vị Ngôn Sứ tối cao của Thiên Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho
thấy rõ điều ấy, cho thấy ngay thân phận bị chống đối và thù
ghét của những ai được Thiên Chúa sai đến.
Bình thường, theo kinh nghiệm thực tế, dân chúng cũng rất mong
biết Thiên Chúa muốn gì nơi họ qua các vị tiên tri được Ngài
sai đến với họ. Bởi thế, ngay từ đầu, dân chúng vẫn tỏ ra rất
kính trọng và cảm phục các vị ngôn sứ, như thái độ của chung dân
chúng (trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước) cũng như của
dân làng Nazarét tỏ ra (Phúc Âm Chúa Nhật tuần này) ở trong
hội đường, trước sự hiện diện đầy thẩm quyền của Đức Giêsu:
"Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh
Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh.
Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca
tụng... Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi
xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người"
(Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước); "Mọi người đều làm chứng cho
Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra"
(Phúc Âm Chúa Nhật tuần này).
Ấy thế mà, ngay sau đó, họ đã quay ra phản chống Người, bởi vì
Người đã nói động đến họ, khi họ đang tỏ ra bàng hoàng sửng sốt
và lạ lùng bỡ ngỡ về Người, một con người tầm thường trước đây ở
trong khu làng của họ mà họ đã từng quen biết: "Người này
không phải là con ông Giuse sao?", thế mà giờ đây bỗng nhiên
và bỗng chốc lại trở thành nổi tiếng quá như vậy, đến độ "ứng
nghiệm" cả những gì được Tiên Tri Isaia báo trước nữa.
Có nghĩa là, trong chính tâm trạng đầy lạ lùng cảm phục của
những người trong dân làng của Người vẫn có một cái gì đó trục
trặc chưa thông suốt, chưa hoàn toàn mãn nguyện, cần được chữa
trị bởi một vị tâm lý gia nào đó. Chúa Giêsu đã đóng vai tâm lý
gia của họ bấy giờ, khi Người áp dụng tâm lý phổ quát trong dân
gian là "bụt nhà không thiêng" ở nơi họ về Người, như được Bài
Phúc Âm thuật lại thế này:
"Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: 'Hỡi
thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!' Điều chúng tôi nghe xảy ra
ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông'. Người nói
tiếp: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được
đón tiếp tại quê hương mình'".
Và sở dĩ Người trở thành dấu hiệu phản khắc và là mục tiêu cho
người ta chống đối (xem Luca 2:34) như vậy là vì cái tâm lý "bụt
nhà không thiêng" nơi họ đã làm thui chột mất niềm tin của họ,
khiến họ không thể nhận ra thực tại thần linh, nhận ra "tất
cả sự thật" (Gioan 16:13) nơi nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét
bề ngoài có vẻ thuần nhân tầm thường của Người trước mắt họ và
theo kinh nghiệm đã từng sống với Người trước kia.
Không có đức tin, con người không thể nào nhìn thấy thực tại
thần linh, không thể cảm nghiệm được thực tại thần linh và không
thể chấp nhận thực tại thần linh được tỏ ra cho họ và đang hiện
diện giữa họ, như Chúa Giêsu ở trong hội đường Nazarét hôm
nay. Đó là lý do Chúa Giêsu đã không thể nào không đề
cập đến đức tin của một số nhân vật tiêu biểu trong Cựu Ước, để
giúp họ nhận biết mình hơn, nhờ đó họ được giải thoát và siêu
thoát:
"Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón
tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều
bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm
sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia
không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng
được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều
người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không
người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người
Syria".
Câu này chính là ngòi lửa châm vào đám dầu thắc mắc đầy thành
kiến của họ, và vì thế đã không tránh được một đám cháy bừng
bừng hận thù bừng lên trong dân làng Nazarét của Người. Bởi vì,
họ cảm thấy bị chạm tự ái dân tộc và đạo giáo nên không thể
không vô cùng uất hận khi hiểu được lời một kẻ đã từng sống
trong làng của mình trước đây, mới nổi tiếng một chút ở
Carphanaum đã lên mặt khinh thường dân làng của mình, cho dân
làng của mình có đức tin không bằng cả dân ngoại.
Tuy nhiên, tác dụng của những lời Người nói với họ ấy như
"thuốc đắng dã tật" thì lại trở thành "làm ơn mắc oán". Ở chỗ,
họ càng trở thành mù quáng hơn nữa, vì họ cho rằng Người đã công
khai khinh bỉ họ, chê bai chỉ trích họ là thành phần không
có đức tin hay yếu kém đức tin, trong khi Người chỉ là "con
ông Giuse", một bác phó mộc nghèo hèn trong làng, mà lại
muốn họ đối xử với Người như một trong những vị đại tiên tri
ngày xưa là Elia hay Elisa. Bởi thế, không lạ gì, từ chỗ cảm
tình đến chỗ phẫn uất, họ đã đi đến chỗ hết sức cực đoan như
sau:
"Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn,
họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên
triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực
thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi".
Tâm trạng của dân làng Nazarét là như thế cũng chẳng có gì là
lạ. Trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, qua
Thư 1 gửi Giáo đoàn Corinto, đã chuẩn bệnh về thành phần như họ
chẳng khác gì những đứa trẻ con, còn non nớt về kiến thức, chưa
trưởng thành về đức tin, một đức tin cần phải trải qua một tiến
trình từ non nớt đến trưởng thành:
"Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ,
lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ
những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt như qua tấm
gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ tôi biết có
giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết".
Một khi đạt đến tầm mức trưởng thành của đức tin hay có được
một đức tin chín mùi thì con người sẽ suy nghĩ, phát biểu, tác
hành và phản ứng hoàn toàn khác hẳn, không còn tự nhiên nữa,
không còn trẻ con nữa, mà là tràn đầy bác ái yêu thương, một thứ
bác ái yêu thương là hoa trái của đức tin đồng thời cũng là tầm
mức trọn hảo của đức tin, một đức bác ái được Thánh Phaolô diễn
tả cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không
khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không
suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia
vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy
tất cả, chịu đựng tất cả. Bác
ái không khi nào qua đi. Ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ
sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biết mất. Vì chưng chúng ta hiểu
biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi
điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi".
Phải, để làm cho chung con người, đặc biệt là dân làng của mình,
quá quen với mình, có thể tiến tới chỗ tin vào mình, Chúa Giêsu
không phải chỉ đóng vai trò tiên tri rao giảng cho họ chân lý: "Ơn
tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh
sẽ biết mất", mà còn phải đóng vai trò vương đế giải
phóng nữa, một vương đế sẽ tồn tại đến muôn đời (xem Luca
1:32-33): "Bác ái không khi nào qua đi", như tình yêu bất
diệt của Người, để Người có thể tỏ ra Người thực sự là "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý".
Đó là lý do, trong khi "họ dẫn Người lên triền núi,
nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm", thì "Người
rẽ qua giữa họ mà đi". Không phải vì Người sợ chết và muốn
xa tránh họ, không muốn gần gũi với những kẻ mù quáng
cực đoan ấy nữa, mà vì chưa đến giờ của Người - Người cần phải
sống để cứu họ, để làm cho họ hoàn toàn nhận biết Người sau này,
bằng chính Cuộc Vượt Qua của Người, một biến cố bất khả thiếu
của "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân
lý", một biến cố chứng thực Người chiến thắng
tội lỗi cùng sự chết và thông ban cho nhân loại, trong đó có
họ, "sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10).
Chính khi Chúa Giêsu "lách qua giữa họ mà đi" cũng là
cách Người tỏ mình ra là Đấng Thiên Sai, Đấng đến để làm theo ý
Cha là Đấng đã sai Người, và Đấng đã sai Người muốn Ngài chết
cách nào thì Người muốn chết theo cách ấy, cách còn công khai
hơn nữa, trước cả dân ngoại Roma lẫn Do Thái (bao gồm cả toàn
dân và hội đồng đầu mục Do Thái), cách nhục nhã và khủng khiếp
hơn nữa, như một tên đệ nhất tội nhân trên trần gian này. Tuy
nhiên, sự kiện dân làng Nazarét của Người bách hại Người và muốn
giết Người ngay từ khi Người mới xuất đầu lộ diện như thế cũng
là dấu báo về cuộc khổ nạn và tử giá sau này của Người gây ra
bởi chính dân Do Thái của Người bằng bàn tay dân ngoại.
Sự kiện Người vừa xuất đầu lộ diện đã bị dân làng của mình bách
hại và muốn sát hại còn cho thấy thân phận của Người là Vị Thiên
Sai của dân Do Thái nữa. Ở chỗ, Đấng Thiên Sai là Con Thiên Chúa
không phải là Đấng Thiên Sai về chính trị, đầy quyền lực, không
ai thắng được, không ai dám làm gì, trái lại, chiến thắng quân
thù và giải phóng dân mình, Đấng vì thế được toàn dân mộ mến và
biết ơn tôn sùng. Trái lại, Đấng Thiên Sai Giêsu Nazarét đây
phải là Đấng bao gồm cả thân phận bị bách hại và bị sát hại nữa.
Bằng không, Người không phải là hay không còn là Đấng Thiên Sai
thật sự của Thiên Chúa và do Thiên Chúa sai đến nữa.
Và đó là lý do Người đã không cho thần ô uế hay ma quỉ tuyên
xưng "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Marco 1:24-25),
hay "Ngài là Con Thiên Chúa" (Marco 3:11-12) là những gì
liên quan đến thần tính của Người. Bởi vì, không phải Người sợ
đụng chạm đến giáo quyần Do Thái và thành phần trí thức Do Thái,
cho bằng lời tuyên xưng này chỉ là lời tuyên xưng của tạo vật,
như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng đã làm chứng cho Người, tuy
nhiên, chứng từ của tạo vật không mạnh bằng và có giá trị bằng
chính chứng do chính Thiên Chúa thực hiện, được tỏ hiện qua việc
Người làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người.
Vả lại, lời tuyên xưng của các thần ô uế tuy chính xác nhưng vẫn
không trọn vẹn, bởi lời tuyên xưng của chúng chỉ cho thấy một
chiều về một Đấng Thiên Sai quyền năng trên chúng, chứ không cho
thấy một Đấng Thiên Sai khổ giá xót thương, và như thế sẽ làm
cho dân chúng hiểu lầm, cứ thế mà tin vào một Đấng Thiên Sai
hoàn toàn không phải là "tất cả sự thật" (Gioan 16:13)
như Người là và như Người tỏ mình ra. Đối với cả thành phần bệnh
nhân hay tật nhân được Người chữa lành cho cũng thế, Người vẫn
cấm họ không được nói ra, như trường hợp nạn nhân phong hủi (xem
Marco 1:44), hay ở trường hợp nạn nhân câm điếc (xem Marco
7:36), vì Người không phải chỉ có quyền chữa lành mà còn trở
thành một nạn nhân khổ giá nữa.
Chính vì Đấng Thiên Sai của dân Do Thái phải là một Đấng Thiên
Sai khổ giá nữa mà bài Đáp Ca hôm nay chất chứa
những tâm tình chẳng những liên quan đến trường hợp của Tiên Tri
Giêrêmia mà còn đến cả trường hợp của chính Chúa Giêsu nữa, vì
cả hai đều là những vị ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến với dân
của Người, nhưng thân phận của cả hai đều thê thảm giống nhau
trong khi các vị thi hành sứ vụ truyền đạt sứ điệp cứu độ của
Thiên Chúa, một sứ điệp bao giờ cũng phản nghịch với bản tính tự
nhiên và cảm nhận trần tục của thành phần cần phải nhận biết
chân lý để được cứu độ:
1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ
muôn đời; theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát
con, xin ghé tai về bên con và giải cứu.
2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến lũy vững
bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Đá Tảng, là chiến luỹ của con.
Lạy Chúa con, xin cứu con thoát khỏi tay đứa ác.
3) Bởi Ngài là Đấng con mong đợi, thân lạy Chúa. Lạy Chúa, Ngài
là hy vọng của con tự hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con
đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu, Chúa là Đấng bảo vệ
con, con đã luôn luôn cậy trông vào Chúa.
4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể
ra ơn Ngài giúp đỡ. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu,
và tới bây giờ con còn kể (ra) những sự lạ của Ngài.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu
có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ
trên