Bài
Đọc I: (năm
II) 1
Sm 15, 16-23
"Vâng lời th́ tốt hơn của lễ. Chúa truất phế không cho ông làm
vua nữa".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Samuel nói cùng Saolê rằng: "Thôi! Tôi sẽ
tuyên bố cho ông những điều Thiên Chúa đă nói với tôi trong đêm
qua". Và Saolê đáp: "Ngài cứ nói". Samuel liền nói: "Khi ông tự
thấy ông c̣n bé nhỏ, há ông đă chẳng được đặt làm thủ lănh các
chi họ Israel sao? Và Thiên Chúa đă chẳng xức dầu phong ông làm
vua Israel sao? Chúa đă sai ông lên đường và nói: "Hăy đi giết
quân Amalec tội lỗi, và hăy giao chiến với chúng cho đến khi tận
diệt chúng". Tại sao ông không nghe lời Chúa, mà lại chạy theo
chiến lợi phẩm và làm điều tội lỗi trước mặt Chúa như vậy?"
Saolê nói với Samuel: "Vâng, tôi đă nghe lời Chúa, đă đi trên
đường Chúa sai tôi, đă bắt Aga vua Amalec, và tàn sát dân
Amalec. Nhưng trong các chiến lợi phẩm, dân chúng đă lấy chiên
ḅ, những vật nhất hạng họ cướp được để tế lễ Chúa là Thiên Chúa
của họ tại Galgalê".
Samuel nói: "Này Chúa ưa thích của lễ toàn thiêu và hy lễ hơn sự
vâng lời Chúa ư? V́ vâng lời th́ tốt hơn của lễ, và tuân lệnh
th́ cao đẹp hơn dâng mỡ cừu; v́ phản bội th́ giống như tội tà
thuật, c̣n ngoan cố th́ giống như tội thờ bụt thần. Vậy bởi ông
khinh bỉ lời Chúa, nên Chúa truất phế không cho ông làm vua
nữa".
Đó là lời Chúa.
Đáp Ca: Tv 49, 8-9. 16bc-17. 21 và 23.
Đáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu
độ (c. 23b).
Xướng: 1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, v́
lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận
tự nhà ngươi một con ḅ non, cũng không nhận tự đoàn chiên ngươi
những con dê đực. - Đáp.
2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi
thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo
huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Đáp.
3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đă tưởng rằng Ta
giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất
cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi
đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Đáp.
Alleluia: Tv 144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán,
và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 2, 18-22
"Tân lang c̣n ở với họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến
nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại sao môn đồ của Gioan và các người
biệt phái ăn chay, c̣n môn đồ Ngài lại không ăn chay?" Chúa
Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân
lang c̣n ở với họ không? Bao lâu tân lang c̣n ở với họ, th́ họ
không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi,
bấy giờ họ sẽ ăn chay. Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng
vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ
hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ
làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để
trong bầu da mới".
Đó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Kitô Tân
Lang
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai đầu Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng
Sinh, vẫn tiếp tục chủ đề "Người Con duy nhất đến từ
Cha... đầy ân sủng và chân lư"
của chung Mùa Thường
Niên hậu Giáng Sinh. Ở chỗ nào?
Bài Phúc Âm Chúa Nhật II Thường Niên hậu Giáng Sinh Chu Kỳ Phụng
Vụ Năm C hôm qua về tiệc cưới Cana, một biến cố cần phải có để
mở màn cho việc Chúa Kitô tỏ ḿnh ra cho các môn đệ tiên
khởi của Người, nhờ đó đă làm cho các vị tin vào Người.
Bài Phúc Âm hôm nay, để trả lời cho vấn nạn được "môn đồ của
Gioan và các người biệt phái ăn chay" đặt ra "Tại sao môn
đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, c̣n môn đồ Ngài lại
không ăn chay?", Chúa Giêsu đă tự ví ḿnh và tự
nhận ḿnh là "tân lang", và cho biết lư do các môn đệ của
Người được Người ví như là thành phần "các khách dự tiệc
cưới", không ăn chay như thành phần đặt vấn đề với
Người đó là v́ "tân lang c̣n ở với họ".
Thật vậy, sở dĩ "các môn đồ Ngài lại không ăn chay?" bởi v́
Người "c̣n ở với họ", tức là Người c̣n đang cần
thời gian để tiếp tục và từ từ tỏ ḿnh ra cho họ để họ có thể
hân hoan vui sướng nhận biết Người mỗi ngày một hơn, và càng
nhận biết Người họ càng kính phục Người và yêu mến Người, nhờ đó
họ mới có thể trở thành chứng nhân tiên khởi của Người và cho
Người, đúng như ư nguyện và mục đích Người tuyển chọn họ làm
nhóm 12 của Người.
Tuy nhiên, không phải v́ thế mà các môn đệ của Người không phải
chay tịnh, một thứ chay tịnh nếu có và nếu cần lại hoàn
toàn không phải như thành phần "môn đồ của Gioan và các người
biệt phái" đă làm, mà là một thứ chay tịnh không c̣n được ở
với Người nữa, không c̣n được thấy Người tận mắt, nghe Người tận
tai và động chạm đến Người tận tay (xem 1Gioan 1:1), trái
lại các vị chỉ giao tiếp với Người hoàn toàn bằng đức tin thuần
túy trong tăm tối của giác quan và cảm thức, nghĩa là "ngày
tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay", ở chỗ "Các con
sẽ than khóc trong khi thế gian vui mừng" (Gioan 16:20).
Thế nhưng, việc chay tịnh hay cách chay tịnh của các môn đệ Chúa
Giêsu này không phải là những ǵ hủy hoại mà là những ǵ thăng
hoa, thăng tiến, hoan hỉ: "Nếu các con yêu mến Thày th́ các
con phải vui mừng v́ Thày về cùng Cha v́ Cha là Đấng cao trọng
hơn Thày" (Gioan 14:28). Bởi v́, nhờ Thày về cùng Cha
là Đấng cao trọng hơn Thày, với tư cách Ngài là Đấng đă sai
Thày như thế mà các vị, cho dù không c̣n thấy và ở với Người
nữa, mới càng nhờ thế có thể đạt đến chỗ thần hiệp nên một với
Người: "Thày ở đâu các con cũng được ở đó" (Gioan 14:3).
Như thế, trong chính sự vắng bóng của ḿnh, khuất dạng của
ḿnh, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lư"
lại càng tỏ ḿnh ra hơn bao giờ hết, lại càng hiển linh hơn
hết... trước con mắt thuần túy đức tin siêu nhiên của các môn đệ
Người.
Đó là lư do phần c̣n lại của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mới
nói thêm những lời quan trọng và thiết yếu cho việc
sống đạo sau đây: "Không
ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại
mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới
vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu
da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".
Cái "mới" và "cũ" được Chúa Giêsu đề cập tới trong
bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến vấn đề chay tịnh đây là ǵ,
nếu không phải cái "mới" đây là đức tin (của Tân Ước) và
cái "cũ" đây là nghi thức hay h́nh thức hoặc lễ vật bề
ngoài (của Cựu Ước), và v́ thế, "rượu mới" và "bầu
da mới" đây chính là "tinh thần và chân lư" được Chúa
Giêsu nói đến trong trường hợp Người trao đổi với người phụ nữ
Samaritanô bên bờ giếng Giacóp về thực tại "Thiên Chúa là
Thần Linh nên những ai tôn thờ Thiên Chúa đích thực th́
cũng phải tôn thờ Ngài trong tinh thần và chân lư" (Gioan
4:24).
Bài Đọc 1 hôm nay cũng cho thấy rơ hơn nữa về thực tại "Thiên
Chúa là Thần Linh nên những ai tôn thờ Thiên Chúa đích thực th́
cũng phải tôn thờ Ngài trong tinh thần và chân lư" (Gioan
4:24). Ở chỗ, con người cần phải tin tưởng tuân phục Ngài, làm
theo ư Ngài hơn là theo ư riêng của ḿnh, cho dù ư riêng của
ḿnh có ngay lành và tốt lành đến mấy chăng nữa, cho dù ư
riêng ấy chỉ nhắm đến vinh danh Ngài chăng nữa, điển h́nh như
trường hợp của Vua Saulê được Tiên Tri Samuel cảnh giác trong
Bài Đọc 1 hôm nay:
"Này Chúa ưa thích của lễ toàn thiêu và hy lễ hơn sự vâng lời
Chúa ư? V́ vâng lời th́ tốt hơn của lễ, và tuân lệnh th́ cao đẹp
hơn dâng mỡ cừu; v́ phản bội th́ giống như tội tà thuật, c̣n
ngoan cố th́ giống như tội thờ bụt thần. Vậy bởi ông khinh bỉ
lời Chúa, nên Chúa truất phế không cho ông làm vua nữa".
Vua Saulê đă bất tuân Thiên Chúa ra sao, lời của Tiên Tri Samuel
trong Bài Đọc 1 đă cho biết như thế này: "Chúa đă sai ông lên
đường và nói: 'Hăy đi giết quân Amalec tội lỗi, và hăy giao
chiến với chúng cho đến khi tận diệt chúng'. Tại sao ông không
nghe lời Chúa, mà lại chạy theo chiến lợi phẩm và làm điều tội
lỗi trước mặt Chúa như vậy?"
Cho dù Vua Saulê có lư do chính đáng để biện minh: "Vâng, tôi
đă nghe lời Chúa, đă đi trên đường Chúa sai tôi, đă bắt Aga vua
Amalec, và tàn sát dân Amalec. Nhưng trong các chiến lợi phẩm,
dân chúng đă lấy chiên ḅ, những vật nhất hạng họ cướp được để
tế lễ Chúa là Thiên Chúa của họ tại Galgalê", Tiên Tri
Samuel vẫn khẳng định với vua rằng: "Vâng lời th́ tốt
hơn của lễ. Chúa truất phế không cho ông làm vua nữa".
Bài Đáp Ca hôm nay cũng theo chiều hướng của cả Bài Đọc 1 và bài
Phúc Âm, ở chỗ đă bày tỏ cảm nhận chính xác về tất cả sự thật
nơi việc tôn thờ Thiên Chúa là Thần Linh trong tinh thần và chân
lư, bằng đức tin được thể hiện qua việc tuân phục là những
tác động xứng hợp với Ngài và làm đẹp ḷng Ngài, như sau:
1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, v́ lễ toàn
thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận tự nhà
ngươi một con ḅ non, cũng
không nhận tự đoàn chiên ngươi những con dê đực.
2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi
thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo
huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng?
3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đă tưởng rằng Ta
giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất
cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi
đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu
có thể xin nghe chia sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ
trên
TN.II-2.mp3
THÁNH ANTON VIỆN PHỤ 17/1
(251-356)
Ngày 17: Thánh Antôn, tu viện trưởng
Tiểu Sử
Thánh Antôn chào đời năm 250 tại Corma, gần Hieraclens, miền
thượng Ai cập. Cha mẹ Ngài nổi danh giàu có lẫn đạo đức, đă lo
lắng dạy dỗ Ngài sống đạo ngay từ nhỏ.
Khi được 18 tuổi th́ cha mẹ Ngài qua đời. Sáu tháng sau ngày mất
cha mất mẹ, tại một giáo đường, thánh nhân đă nghe đọc lời sách
thánh : "Nếu con muốn nên trọn lành, hăy về bán hết của cải và
đem phân phát cho kẻ nghèo khó rồi theo Ta" (Mt 19,21). Tưởng
như Thiên Chúa nói riêng với ḿnh đă về bán hết của cải và đem
phân phát cho người nghèo khó.
Sau khi lo lắng gửi gấm em gái của ḿnh cho một nữ tu viện, Ngài
lui vào sa mạc để làm việc và cầu nguyện, Ngài theo đuổi một
cuộc sống rất khắc khổ, chỉ ăn bánh với muối và uống nước ngày
một lần sau khi mặt trời lặn. Để giữ được sự cô tịch trọn vẹn,
Ngài c̣n ẩn thân vào một ngôi mộ bỏ trống. Thỉnh thoảng một
người bạn mang bánh đến cho Ngài bánh đến cho Ngài nhưng ma quỉ
đă t́m cách quấy phá để trục Ngài ra khỏi "căn pḥng" và cuộc
sống khắc khổ, chúng thường hay la hét và hiện h́nh kỳ quái.
Phản ứng lại, thánh nhân thường cầu nguyện nhiều hơn và tăng gấp
những việc hăm ḿnh. Giận dữ v́ các mưu mô bị thất bại, ma quỉ
c̣n công khai hành hạ Ngài nữa.
Một ngày kia người bạn mang bánh đến, bỗng thấy thánh nhân nửa
sống nửa chết, ḿnh đầy thương tích. Nhưng khi vừa bừng tỉnh,
thánh nhân liền chỗi dậy và la lớn: - Tôi c̣n sẵn sàng chiến
đấu. Lạy Chúa, không, không ǵ có thể tách ĺa con khỏi ḷng yêu
mến Chúa được.
Giữa những đau đớn v́ các cuộc tấn công của ma quỉ, Ngài khinh
bỉ trả lời : - Ồn ào vô ích. Dấu thánh giá và ḷng tin tưởng vào
Chúa là những thành tŕ kiên cố.
Thánh nhân luôn tin tưởng nơi Chúa. Ngày kia, được an ủi trong
tâm hồn và cảm thấy là ma quỉ đă lùi bước, Ngài cầu nguyện : -
Oi, lạy Chúa, Chúa ở đâu ? Sao Chúa không ở đây lau sạch nước
mắt và thoa dịu những dày ṿ của con ?
Tiếng Chúa trả lờ i: - Cha ở gần con, cha giúp con chiến đấu.
Bởi v́ con đă chống trả lại ma quỉ, cha sẽ bảo vệ quăng đời c̣n
lại của con. Cha sẽ làm cho tên con rạng rỡ trên trời.
Tràn đầy nghị lực, thánh nhân chỗi dậy tạ ơn Chúa. Muốn xa mọi
người hơn nữa, Ngài vượt sông Nil đến trú ngụ trong một pháo đài
hoang phế đầy những rắn rết. Nhưng sự thánh thiện của Ngài như
một sức nam châm, vẫn thu hút nhiều người đến xin làm môn đệ.
Thế là một phong trào ẩn tu nổi lên mạnh mẽ. Sa mạc mọc lên
những mái tranh, từ đó không ngừng vang lên những lời kinh ca
khen Chúa. Thánh nhân trở nên vị thủ lănh của nếp sống ẩn tu.
Dầu vậy, thánh An tôn đă hai lần từ giă sa mạc. Vào năm 311 khi
có cuộc bách hại của Alaximiô, Ngài nói: - Nào ta cùng đi chiến
đấu với anh em ta.
Ngài lên đường đi Alexandria. Người ta thấy thánh nhân khích lệ
các tù nhân nơi các trại giam, theo họ tới trước quan ṭa và
khuyên nhủ họ can đảm chết v́ đạo, Ngài c̣n xuống hầm trú để an
ủi các linh mục. Ngài thoát chết là một điều lạ lùng.
Cuộc bách hại chấm đứt được một năm, thánh nhân lại t́m về sa
mạc. Số các môn sinh ngày càng tăng thêm đông. Sợ bị cám dỗ
thành kiêu căng, và thấy gương các thánh tử đạo, thánh Antôn
khao khát sống khắc khổ để đền tội. Ngài tiến sâu hơn nữa vào sa
mạc. Sau ba ngày đi theo đoàn người buôn bán, Ngài dừng lại gần
biển Đỏ, dưới chân núi Kolzim và dựng một căn lều vừa đủ để nằm
để ở. Dân Bê-đu-anh (Bédouins) cho Ngài bánh ăn. Về sau các môn
sinh t́m tới và mang cho Ngài một cái xuổng với một ít hạt
giống, đây là nguồn gốc của tu viện thánh Antôn hay là
Deir-el-Arat, một tu viện theo nghi lễ Cốp (Copte) ngày nay vẫn
c̣n.
Lần thứ hai, thánh nhân trở lại Alexandria theo lời mời của đức
giám mục Athanasiô, để chống lại lạc giáo. Dân chúng cả thành
chen lấn nhau đi đón Ngài. Các lương dân cũng bảo nhau : - Chúng
ta đi gặp người của Thiên Chúa.
Nhiều người cảm động v́ những bài diễn thuyết và những phép lạ
Ngài làm, đă xin lănh bí tích rửa tội, người ta tưởng sẽ gặp một
lăo già tám mươi hoang dại, nhưng đă ngạc nhiên khi thấy Ngài
rất lịch thiệp, xử dụng ngôn ngữ văn hóa và diễn tả tư tưởng rất
uyên thâm. Các triết gia ngoại giáo ngạc nhiên hỏi Ngài:
- Ngài làm ǵ được trong sa mạc không có sách vở chi hết ? Thánh
nhân trả lời:
- Thiên nhiên đối với tôi là một cuốn sách mở rộng.
Và người ta ngỡ ngàng về những điều thánh nhân đă khám phá được
trong cuốn sách vĩ đại này của Đấng Tạo hóa.
Điều đáng kể dường như không phải những nhiệm nhặt Ngài theo
đuổi, mà là tâm hồn trong trắng Ngài kết hiệp mật thiết với
Chúa, Ngài nói: - Hư danh là kẻ thù nguy hiểm nhứt của chúng ta.
Danh tiếng của thánh Antôn lan rộng đến nỗi vua Constantinô và
con cái ông đă viết thư tham khảo ư kiến Ngài, Môn sinh của Ngài
hănh diện lắm. Nhưng Ngài bảo họ :
- Đừng ngạc nhiên lắm khi thấy nhà vua là một con người viết thư
cho một con người. Đáng ngạc nhiên là chính Thiên Chúa đă muốn
viết luật cho loài người, và đă nói với chúng ta qua đức Giêsu
Kitô .
Và trả lời cho lớp người vương giả ấy, Ngài dùng những lời cao
thượng để khuyên họ biết khinh chê danh vọng mà nhớ tới cuộc
chung thẩm.
Khi Ngài đă quá 90 tuổi, Thiên Chúa qua một thị kiến đưa ngài
đến thăm thánh Phaolô ẩn tu trong sa mạc. Ngài c̣n được cho biết
là sẽ sống tới tuổi 105.
Biết sắp tới giờ từ giă trần gian, Ngài đi thăm anh em Ngài lần
chót. Ngài nói với họ về sự chết với niềm vui của người hồi
hương. Họ đă khóc ṛng, nhưng Ngài khuyên nhủ họ: - Hăy sống như
phải chết mỗi ngày. Hăy cố gắng noi gương các thánh.
Thánh nhân trở lại núi với hai môn sinh. Trong căn pḥng nghèo
nàn của ḿnh, Ngài đă phó linh hồn trong tay Chúa lúc 105 tuổi.
Chúng ta biết được ân sủng giai thoại quư báu của đời thánh An
tôn là nhờ thánh Athanasiô kể lại.
GIÁO HỘI THƯỞNG CÔNG CHO THÁNH NHÂN
Với một ḷng yêu mến Chúa dạt dào, thánh Antôn đă làm gương cho
nhiều người về đời sống thánh thiện và các nhân đức siêu việt
của Người. Thánh nhân qua đời ngày 17/01/356 . Vào năm 561, xác
thánh nhân được cải táng trong nhà thờ kính thánh Gioan tiền hô
tại Alexandria. Các Giáo Hội Trung Đông đă sùng kính thánh Antôn
đầu tiên, tràn qua Âu Châu và Giáo Hội đă chính thức tôn phong
Ngài lên bậc hiển thánh.
Lạy Chúa, Chúa đă cho thánh Antôn, viện phụ, sống một đời phi
thường trong sa mạc để phụng sự Chúa. Xin Chúa nhận lời người
nguyện giúp cầu thay,cho chúng con biết quên ḿnh để một niềm
yêu mến Chúa trên hết mọi sự ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh
Antôn, viện phụ ).
Nguồn: Tổng hợp
https://ditimchanly.org/sach-kinh-thanh/truyen-cac-thanh/thanh-anton-vien-phu-1701.htm
Nhận Định
1.
Ghi nhận lịch sử – Phụng vụ
Lễ nhớ đến vị thầy của đời sống tâm linh và là tổ phụ của các ẩn
sĩ được cử hành vào ngày 17.01, đă có từ khởi đầu thế kỷ thứ V
trong các lịch của Syriaque, Copte và Byzantin. Ở phương Tây,
việc tôn kính vị thánh này chỉ xuất hiện vào thế kỷ thứ IX.
Chúng ta chỉ được biết về thánh nhân qua quyển “Cuộc đời
thánh Antôn” do người bạn của ngài là thánh Athanase viết,
sau khi thánh nhân qua đời; Hạnh thánh Antôn là quyển sách gối
đầu của thánh Augustinô và thánh Martin cũng như nhiều vị thánh
khác.
Thánh Antôn, được gọi là Cả hay Đan viện phụ, sinh tại Queman,
miền thượng Ai Cập, vào năm 251 từ một gia đ́nh Kitô giáo. Vào
khoảng 20 tuổi, khi nghe một đoạn Phúc Âm trong Thánh lễ: “Nếu
anh muốn nên hoàn thiện, th́ hăy bán tài sản của anh và đem cho
người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời; rồi hăy đến
theo tôi” (Mt 19,21). Cuộc đời ngài đă thay đổi. Nắm từng
chữ của Phúc Âm, ngài bán đi tài sản của ḿnh, bố thí cho kẻ
nghèo và bắt đầu đi học với một vị ẩn sĩ già đạo đức, dạy cho
ngài biết chia đời sống ra thành những giờ cầu nguyện, đọc Lời
Chúa và lao động tay chân. Sau đó ngài rút vào sa mạc Thébaide;
trong vùng cô tịch này, ngài phải chiến đấu với các cơn cám dỗ
nặng nề trong ṿng 15 năm.
Antôn thu hút được nhiều đệ tử cùng chí hướng, muốn sống đời ẩn
tu hay khổ tu, mỗi người sống trong một lều riêng cách biệt
nhau. Tiếng tăm vị thánh vang rất xa, vươn khỏi xứ Ai Cập; vị
Thượng phụ Giáo chủ ở Alexandria là thánh Athanase cũng là một
trong các bạn hữu của ngài.
Vào năm 311, dưới thời bách hại của hoàng đế Maximin Daia, Antôn
rời bỏ sa mạc, tuyên bố rằng: “Chúng ta hăy đi chiến đấu cùng
với bạn bè chúng ta.” Ngài đến Alexandria để động viên các
tín hữu bị bách hại, bị bỏ tù hay bị kết án lao động khổ sai.
Ngài trở lại thành này một lần nữa để giúp đỡ thánh Athanase
trong việc chiến đấu với bè rối Ariô.
Trở về sa mạc, ngài cắm lều gần biển Đỏ, dưới chân núi Quelzoum,
có một ḍng suối và một cụm dừa. Đó là nguồn gốc Đan viện Copte
ngày nay của thánh Antôn. Vị thánh Đan sĩ này sống đến 150 tuổi
và qua đời cách thánh thiện trong căn lều của ḿnh, khi dạy các
môn đệ: “Hăy sống như anh em phải chết hàng ngày. Hăy cố gắng
bắt chước các vị thánh.”
Các ảnh tượng cho thấy thánh Antôn bị ma quỉ cám dỗ, đang khi
ngài cầu nguyện giang tay theo h́nh Thánh Giá, và một con heo,
nhắc nhớ lại một đặc ân của Nhà trú của thánh Antôn: Vào
thời Trung cổ, các vị này có quyền để cho các con heo của ḿnh
đi lang thang trong thành phố, cổ đeo một chuông nhỏ.
Thánh Antôn được kể vào số 14 vị thánh bảo trợ và thường được
kêu cầu để chống lại cơn dịch Lửa thánh Antôn. Ngài cũng
được xem như thánh quan thầy cho các thú vật trong nhà.
2.
Thông điệp và tính thời sự
Thánh
Antôn, tổ phụ các ẩn sĩ Ai Cập, là một mẫu mực cho mọi tâm hồn
đi t́m Chúa, không gắn bó những ǵ đă qua, nhưng luôn giữ Lời
Chúa trong tâm hồn.
1.
Thánh vịnh 91 gợi lên đời sống cô tịch của thánh nhân
trong sa mạc, hoàn toàn dùng để cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa và
làm việc: Người công chính lớn lên như cây dừa, giương cao
như cây hương bá xứ Liban.
·
Sa mạc biểu trưng cho việc từ bỏ, dứt bỏ, nơi Đức Giêsu mời
chúng ta đến: Nếu anh muốn nên hoàn thiện, th́ hăy đi bán tài
sản của anh và đem cho người nghèo… Rồi hăy đến theo tôi (Phúc
Âm: Mt 19,16-21).
·
Sa mạc là nơi, hay là biểu trưng cho sự thử thách, chiến đấu và
khổ hạnh. Theo gương Đức Giêsu Đấng được dẫn vào sa mạc để
chịu thử thách (Mt 4,1) và bước ra như người chiến thắng,
Antôn chọn sự cô tịch nơi Thébaide, chiến đấu với ma quỉ và sống
một cuộc đời anh hùng để yêu mến Chúa “trên hết mọi sự”.
Bài đọc một (Ep 6,10.18): Chúng ta chiến đấu với những quyền
lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm…, nhắc
nhớ đến những cuộc chiến đấu kiên cường của thánh Antôn chống
lại các thần lực xấu suốt 15 năm khi ngài ở trong sa mạc. Thánh
Athanase đă nói điều này trong Hạnh thánh; truyền thuyết và mỹ
thuật làm cho những h́nh ảnh này nổi tiếng. Antôn, bước ra khỏi
sa mạc như một kẻ chiến thắng, dạy cho chúng ta biết phấn đấu
đẩy lui các thần xấu: “Không có ǵ làm cho linh hồn yếu đuối
trở nên mạnh mẽ bằng việc kính sợ Thiên Chúa, cầu nguyện và
chiêm niệm không ngừng Lời Chúa… Dấu Thánh Giá và niềm tin vào
Chúa chúng ta là những tường lũy bất khả xâm phạm.”
Ngày kia, sau một cuộc chiến đấu, thánh Antôn la lên: “Lạy Chúa
và Thầy của con, Chúa ở đâu ?” Một tiếng nói thiêng linh đáp
lại: “Ta ở gần ngươi. Ta thấy tất cả cuộc chiến của ngươi và,
bởi v́ ngươi đă chống cự lại ma quỉ, Ta sẽ bảo vệ phần c̣n lại
cuộc đời của ngươi…”.
Thánh Antôn nói với các môn đệ: “Con người chỉ tốt lành, khi
nào Thiên Chúa ở trong người đó.” V́ thế, nhờ được kiên vững
bằng Ḿnh Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta cầu xin Chúa ban cho
chúng ta “có khả năng chống lại mọi chước cám dỗ” và “chiến
thắng quyền lực thống trị bóng tối” (Lời nguyện Hiệp lễ).
Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB
http://loichua.donboscoviet.org/ngay-17-thang-1-thanh-anton-vien-phu/