ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II
VỊ GIÁO HOÀNG “VUI MỪNG VÀ HY VỌNG”:
“ĐỪNG SỢ”
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Tưởng Niệm
đầy năm Băng Hà của Vị Giáo Hoàng Triết Gia Nhân Bản
Nội Dung
1) Con Người Hiện Đại - tại sao cảm thấy lo âu sợ hăi?
2) Con Người Hiện Đại - lo âu sợ hăi những ǵ và ra
sao??
3) Con Người Hiện Đại - làm sao có thể được cứu khỏi
sự dữ???
4) Triết Lư Nhân Sinh: Thuyết Ngôi Vị Cách của Triết Gia
Nhân Bản Balan Karol Wojtyla
Nếu Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi của Giáo Triều Đức
Gioan Phaolô II, và nếu đối với Tác Nhân của Mầu
Nhiệm Cứu Chuộc là Đấng đă được ngài tuyên xưng và loan
báo, qua bức Thông Điệp đầu tiên cho thấy tất cả chủ
hướng giáo triều của ngài, là “Đấng Cứu Chuộc Nhân
Trần – Redemptor Hominis”, th́, đối với Thụ Nhân của
Mầu Nhiệm Cứu Chuộc này là con người, nhất là thành phần
thế hệ nhân loại thuộc thời tân tiến hiện đại (có thể
nói kể từ thập niên 1960 của Công Đồng Chung Vaticanô
II) cần đến Ơn Cứu Chuộc hơn bao giờ hết, mà ngay trong
Lễ Đăng Quang của ḿnh được cử hành vào Chúa Nhật
22/10/1979, ngài đă mạnh mẽ lên tiếng, vừa để trấn an
vừa để kêu gọi, với chung thế giới rằng: “Đừng sợ,
hăy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”.
Tại sao con người tân tiến, chẳng những về nhân bản, với
Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền được Tổ Chức Liên
Hiệp Quốc ban hành ngày 10/12/1948, mà c̣n về cả khoa
học và kỹ thuật nữa, bắt đầu từ thập niên 1960, với
những chuyến thám hiểm không gian đầu tiên (Nga 1961, Mỹ
1962, tới Cung Trăng 1969), mà theo vị Giáo Hoàng là
tiêu biểu cho Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế Giới
Tân Tiến mang tựa đề “Vui Mừng và Hy Vọng” này,
lại nhận thấy họ cảm thấy đang lo âu sợ hăi? Họ đă tỏ ra
lo âu sợ hăi những ǵ và ra sao?? Và làm sao họ mới có
thể được cứu khỏi sự dữ bất an mà an tâm vui sống???
1) Con Người Hiện Đại - tại sao cảm thấy lo âu sợ hăi?
Loài người ở vào giữa thời của bức Thông Điệp Đấng
Cứu Chuộc Nhân Trần với thời của đầu thiên kỷ thứ ba
chẳng những không khá hơn mà c̣n càng ngày càng tệ hơn
nữa, càng nguy vong hơn nữa.
Trước mắt của vị giáo hoàng mới đăng quang được gần 5
tháng (22/10/1978-4/3/1979), khi ngài ban hành bức thông
điệp đầu tay của ngài, thế giới hiện lên như sau:
"Con
người ngày nay h́nh như chưa bao giờ bị đe dọa bởi cái
họ làm ra như
vậy, nghĩa là từ thành quả của việc do bàn tay họ làm,
và c̣n hơn thế nữa, của công việc do lư trí con người
nghĩ ra cũng như của những khuynh hướng do ư con người
muốn. Tất cả những ǵ do hoạt động đa diện này của con
người sản xuất ra, thường bằng một đường lối không thể
nào thấy trước được, rất là nhanh chóng, chẳng những nó
gây nên 'sự tách biệt', ở chỗ nó thường lấy đi khỏi con
người là tác nhân sản xuất ra chúng, mà hơn thế nữa, nó
c̣n trở mặt phản lại chính con người, ít là một phần nào
đó, qua những hậu quả gián tiếp nó tác dụng khi trả về
cho họ. Nó được và có thể được nhắm thẳng vào con người.
Điều này có thể tạo nên một màn thảm kịch chính yếu cho
việc hiện hữu của con người ngày nay trong một chiều
kích rộng nhất và phổ quát của nó. Bởi thế, con
người đang sống trong nỗi sợ hăi gia tăng. Họ sợ
cái họ sản xuất ra - dĩ nhiên không phải là tất cả những
cái ấy, hay hầu hết những thứ ấy, nhưng là một phần của
nó, đích xác hơn là cái phần chứa đựng một thừa hưởng
đặc biệt bởi tài năng và sự sáng tạo của họ - có thể
phản lại chính họ tận gốc rễ; họ sợ rằng nó
có thể trở thành phương tiện và dụng cụ cho một cuộc tự
diệt không thể nào tưởng tượng nổi, so với tất cả những
hủy hoại dữ dội và những hủy diệt bất ngờ trong lịch sử
mà chúng ta biết đến th́ chỉ là một bóng mờ. Điều này
gợi lên một vấn đề là: Tại sao quyền năng được ban
cho con người từ ban đầu để họ làm chủ trái đất (cf.
Gen 1:28) lại quay ra chống lại họ, gây
ra một t́nh trạng bất an không sao hiểu được, một nỗi sợ
hăi ư thức hay vô thức, cũng như một mối nguy hiểm, mà
qua những cách thức khác nhau, được truyền
lan đến cả gia đ́nh nhân loại ngày nay, và đang thể hiện
dưới những phương diện khác nhau?...” (khoản
số 15)
"Bởi
thế, nếu trong thời điểm của chúng ta, thời điểm
đang tiến đến tận cùng đệ nhị thiên niên của kỷ nguyên
Kitô giáo, tỏ ra ḿnh là một thời điểm phát triển lớn
lao, th́ nó cũng được thấy như là một thời điểm của mối
đe dọa đối với con người bằng nhiều h́nh thức... T́nh
trạng của con người trong thế giới tân tiến này thật sự
xa rời khỏi những đ̣i hỏi khách quan của trật tự luân
lư, khỏi những đ̣i hỏi của công lư, và c̣n hơn thế nữa,
của t́nh yêu thương trong xă hội... Ư nghĩa chính
yếu của 'vai tṛ chủ tể' và 'thống trị' của con người
trên thế giới hữu h́nh mà Chính Tạo Hóa trao cho con
người như công việc của họ, hệ tại việc đạo đức ưu tiên
hơn kỹ thuật, con người chính yếu hơn sự vật, và tinh
thần trọng hơn vật chất… Thật vậy, đă có thể
thấy được một cơn nguy biến ở chỗ, trong khi việc
con người làm chủ trên thế giới sự vật đang tạo nên
những phát triển khổng lồ, th́ họ liều mất đi những cái
cốt yếu làm nên chủ quyền của ḿnh, và bằng nhiều cách
thức khác nhau, để cho nhân tính của ḿnh lụy thuộc vào
thế gian, rồi chính ḿnh cũng trở nên một vật làm tôi
phục vụ cho sự lạm dụng dưới nhiều h́nh thức -
sự lạm dụng này thường không trực tiếp thấy được - qua
toàn thể cơ cấu của cuộc sống chung, qua hệ thống sản
xuất và qua áp lực từ phương tiện truyền thông xă hội. Con
người không thể nào vùi dập bản thân ḿnh hay vị trí của
ḿnh trong cái thế giới hữu h́nh là một thế giới thuộc
về họ; họ không thể nào trở nên nô lệ cho sự vật, nô lệ
cho những cơ cấu kinh tế, nô lệ cho việc sản xuất, nô lệ
cho những sản phẩm riêng của ḿnh" (khoản số 16)
"Thế
kỷ này, cho đến nay, vẫn là một thế kỷ của những hủy
hoại lớn lao đối với con người, của những tàn phá vĩ
đại, chẳng những về vật chất mà c̣n cả về luân lư, thực
sự là thế, có lẽ trên hết là về mặt luân lư. Đồng
ư là, về phương diện này, việc so sánh thời đại này hay
thế kỷ này với thời đại khác hay thế kỷ khác không phải
là một việc dễ dàng, v́ điều này c̣n lệ thuộc vào những
chuẩn mức lịch sử. Tuy nhiên, dù không mang ra so sánh
chăng nữa, người ta cũng không thể nào không nhận thấy
rằng thế kỷ này, cho tới nay, vẫn là một thế kỷ mà
người ta đă gây ra cho nhau nhiều bất công và khổ đau.
Diễn tiến này đă được dứt khoát chế ngự chưa?... Bất
chấp những cơ sở ấy (điển h́nh là tổ chức Liên Hiệp
Quốc), các quyền lợi con người vẫn đang bị vi phạm
bằng nhiều h́nh thức, khi mà, trong thực hành, chúng ta
thấy trước mắt có những trại tập trung, bạo lực, hành
hạ, khủng bố, và kỳ thị dưới nhiều thể cách, th́
sự kiện này phải là hậu quả của những chủ trương khác
đang gặm nhấm và hầu như thường vô hiệu hóa những nền
tảng nhân bản của những tổ chức và dự án hoạt động tân
tiến này. Đối với hiện trạng như thế, cần phải có một
trách nhiệm trong việc liên tục điều chỉnh những dự án
hoạt động, dựa trên quan điểm về các quyền lợi khách
quan và bất khả xâm phạm của con người”. (khoản số 17).
Thế rồi, vào thời điểm vị giáo hoàng không phải người Ư
sau 455 năm xuất hiện “từ một xứ sở xa xăm” này về thăm
quê hương lần cuối cùng vào mùa hè năm 2002, loài người
bấy giờ đă ở vào một t́nh trạng nguy vong đến độ ngài đă
phải chính thức và long trọng hiến dâng thế giới, một
thế giới khốn khổ thảm thương về mọi lănh vực, cho Ḷng
Thương Xót Chúa tại ngôi Đền Thờ Chúa T́nh Thương vào
ngày Thứ Bảy 17/8/2002. Bởi v́, ngài thấy rơ hiện trạng
vô cùng đáng thương của con người tân tiến, của một thế
giới từ thời điểm thế kỷ 20 càng ngày càng đi đến chỗ tự
diệt vong, như ngài đă bày tỏ trong bài giảng phong chân
phước cho 4 vị đồng hương của ngài vào Chúa Nhật
18/8/2002 trong chuyến thăm quê hương lần thứ 8 này, như
sau:
“Thế
kỷ 20, mặc dù có những thành đạt không thể chối căi về
nhiều lănh vực, cũng đă bị ghi dấu một cách đặc biệt bởi
‘mầu nhiệm lỗi lầm - mystery of iniquity’. Chúng ta đă
tiến vào ngàn năm mới với di sản vừa thiện vừa ác này.
Những chân trời mới trong việc phát triển đang mở ra
trước nhân loại, kèm theo đó có cả những cái nguy hiểm
chưa từng có. Con người thường sống như thể Thiên Chúa
không hiện hữu, thậm chí đặt ḿnh vào vị thế của Thiên
Chúa nữa. Họ tự cho ḿnh quyền hành của một Vị Tạo Hóa
trong việc can thiệp vào mầu nhiệm sự sống con người. Họ
muốn định đoạt sự sống con người bằng cách léo lái việc
truyền giống cũng như muốn thiết định giới hạn sự chết.
Khi loại trừ lề luật thần linh và những nguyên tắc luân
lư, họ công khai tấn công cơ cấu gia đ́nh. Bằng những
cách thức khác nhau, họ cố gắng làm cho Thiên Chúa phải
im hơi lặng tiếng nơi tâm can của con người; họ muốn làm
cho Thiên Chúa ‘hoàn toàn khuất bóng’ nơi văn hóa và
lương tâm các dân tộc. ‘Mầu nhiệm lầm lỗi’ tiếp tục đánh
dấu cái thực tại của thế giới này. Cảm nghiệm được mầu
nhiệm ấy, con người mới sống trong nơm nớp lo sợ về
tương lai, lo sợ về t́nh trạng trống rỗng, lo sợ phải
khổ đau, lo sợ bị hủy diệt” (đoạn 3).
Thế rồi, cũng thế giới ấy, cũng loài người ấy, thành
phần đă được vị giáo hoàng thú nhận “con người đă trở
thành đề tài chính yếu cho hoạt động mục vụ của tôi”
(xem ‘Vượt Qua Ngưỡng Cử Hy Vọng’, Chương về ‘Nhân
Quyền’, bản Anh ngữ, gịng cuối cùng ở trang 199),
26 năm sau bức Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần,
đă nhận định về thời điểm lịch sử loài người vừa tiến
vào thiên niên kỷ thứ ba của Kitô giáo 5 năm, trong tác
phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” được xuất bản 2/2005,
hai tháng trước khi ngài qua đời.
Thật ra đây là nhận định của ngài về Tây Âu chứ không
phải chung thế giới, khi ngài phân tích t́nh h́nh giữa
Đông Âu và Tây Âu. Tuy nhiên, v́ Tây Âu, cũng được gọi
là Tây Phương và đồng nghĩa với Tây Phương, căn cứ vào
văn minh của nó, một nền văn minh đă bắt nguồn từ nó và
lan tràn khắp thế giới cũng từ nó, một Tây Phương bao
gồm cả Bắc Mỹ bởi khuynh hướng văn hóa hầu như đồng nhất
của nó, có thể biểu hiệu cho nhân loại nói chung, đang ở
vào một t́nh trạng suy thoái khủng khiếp về luân thường
đạo lư và khủng hoảng trầm trọng về văn hóa, như được
ngài diễn tả trong Chương 9, về “Những Bài Học của
Lịch Sử Vừa Qua”, (ấn bản Anh ngữ, trang 46-48):
“Dĩ nhiên là sai lầm khi nói quá lời về yếu tố chia đôi
ở một Âu Châu được phân ra thành Đông Âu và Tây Âu.
Những xứ sở Tây Âu có một truyền thống Kitô giáo lâu đời
hơn…. Ở Tây Âu, Giáo Hội được phúc có vô số các vị
thánh…. Chính ở đó đă xuất hiện các Summae Theologiae,
đệ nhất vị là Thánh Tôma Aquinas; ở đó là nơi h́nh thành
các truyền thống linh đạo Kitô giáo tuyệt đỉnh…. Ở đó
xuất phát các đại ḍng tu đan sĩ…. Cũng ở đó có cả những
ḍng tu hành khất xứng danh…. Nỗ lực truyền giáo lớn lao
của Giáo Hội bắt nguồn chính yếu từ Tây Âu…. Chúa Kitô
bao giờ cũng là ‘tảng đá nền’ cho việc xây dựng và tái
thiết xă hội ở Tây Phương Kitô giáo.
“Tuy nhiên, chúng ta đồng thời cũng không thể bỏ qua việc
liên lỉ tái diễn t́nh trạng chối bỏ Chúa Kitô.
Chúng ta cứ gặp đi gặp lại những dấu hiệu của một thứ
văn minh đang muốn thay thế cho thứ văn minh xây trên
‘tảng đá nền’ là Chúa Kitô – một thứ văn minh, cho dù
không hoàn toàn là vô thần, ít ra cũng có tính cách duy
nghiệm thức và bất khả thần tri, v́ nó được xây dựng
trên nguyên tắc suy tưởng và tác hành như thể không có
Thiên Chúa. Đường lối này có thể dễ thấy được nơi thứ
khoa học được gọi là tân tiến, hay đúng hơn nơi tâm thức
khoa học, và có thể được nhận ra nơi cả văn chương, đặc
biệt là nơi truyền thông đại chúng. Sống như thể
Thiên Chúa không hiện hữu nghĩa là sống vượt ra ngoài
các giới hạn về thiện ác, ngoài liên hệ với các thứ giá
trị xuất phát từ Thiên Chúa. Nó cho rằng
con người tự ḿnh có thể quyết định những ǵ là tốt hay
xấu. Và chiều hướng chủ trương này được phát
động rộng răi bằng tất cả mọi kiểu cách.
“Nếu, một mặt, Tây Phương tiếp tục cho thấy chứng cớ
về việc nhiệt t́nh truyền bá phúc âm hóa, th́ mặt khác,
những trào lưu phản phúc âm cũng mănh liệt không
kém. Những trào lưu này tấn công vào chính các nền
tảng về luân lư của con người, gây ảnh hưởng đến đời
sống gia đ́nh và cổ vơ một quan niệm luân lư bi quan yếm
thế: ly dị, tự do luyến ái, phá thai, ngừa thai, chiến
đấu chống lại sự sống ở những giai đoạn khai sinh cũng
như ở vào giai đoạn lâm tử, mạo dụng sự sống. Chiều
hướng hoạt động này được ủng hộ bởi những nguồn tài trợ
khổng lồ, chẳng những ở trong các xứ sở mà c̣n trên tầm
cấp quốc tế nữa. Nó có những trung tâm lớn về quyền lực
kinh tế trong tay, nhờ đó, nó cố gắng áp đặt những điều
kiện của ḿnh trên các quốc gia đang phát triển. Trước
tất cả những sự kiện ấy người ta có lư để đặt vấn đề
rằng, đây có phải là h́nh thức khác của một thứ chủ
nghĩa độc tài chuyên chế được che đậy một cách tinh khéo
dưới những dạng thức dân chủ hay chăng”.
Cuộc khủng hoảng về luân lư của con người (tiêu biểu nơi
văn minh Tây Phương) ở vào đầu thiên kỷ thứ ba Kitô giáo
này đă trở nên vô cùng thảm khốc và cực kỳ nguy vong,
như được cảm nhận bởi vị giáo hoàng tác giả cuốn “Hồi
Niệm và Căn Tính”, một tác phẩm như một lời vừa di
chúc vừa kêu gọi ngài muốn gửi tới thế giới rằng: “Thật
vậy, chính nhờ hồi niệm mà cảm quan của chúng ta về căn
tính được h́nh thành và hiện tỏ nơi tâm trí con người”
(ấn bản Anh ngữ, đoạn cuối cùng Chương 23: “Về Lại
Với Âu Châu”). Thật vậy, những ǵ vị giáo hoàng này
đă nhận định về loài người liên quan đến “những hủy
hoại lớn lao”, “những tàn phá vĩ đại” từ năm
1978, trước khi ngài vĩnh viễn ra đi, đă biến thành một
hiện tượng diễn tiến như cuộc biển động sóng thần Nam Á
xẩy ra vào ngày 26/12/2004, một thiên tai đă kinh hoàng
tàn sát trên 200 ngàn người cách đột ngột trong một thời
gian rất ngắn. Ngài viết trong tác phẩm cuối cùng của
ḿnh, “Hồi Niệm và Căn Tính”, ở Chương 2 về “Những
Ư Hệ của Sự Dữ”, (ấn bản Anh ngữ, trang 11), như
sau:
“Đến đây, chúng ta không thể câm lặng trước vấn đề ngày
nay trở nên thảm khốc hơn bao giờ hết. Cuộc sụp đổ của
các chế độ được xây dựng trên các ư hệ sự dữ (biệt
chú của người dịch: theo tác giả nhận định ở phần trước
đó là ‘ư hệ Xă Hội Quốc Gia’ ở Đức theo nguyên lư duy
chủng tộc, và ‘ư hệ Mát Xít’ Cộng sản đặc biệt ở Nga)
đă đi đến chỗ chấm dứt những h́nh thức diệt chủng vừa
được đề cập tới ở những xứ sở liên hệ (biệt chú của
người dịch: được tác giả liệt kê là ‘diệt chủng Do Thái,
cùng các nhóm khác như nhân dân Romania, thành phần dân
quê xứ Ukraine, và hàng giáo sĩ Chính Thống lẫn Công
Giáo ở Nga, ở Belarus và ở bên ngoài rặng núi Urals’).
Tuy nhiên, vẫn c̣n có một cuộc diệt chủng về pháp
lư đối với những con người đang được cưu mang nhưng chưa
vào đời. Trong trường hợp này, cuộc diệt chủng ấy được
ban bố bởi những thứ quốc hội được chọn bầu theo dân chủ (biệt
chú của người dịch: ở đây vị tác giả muốn nhấn mạnh đến
tính cách khác biệt giữa những chế độ chuyên chế độc tài
sắt máu trong thế kỷ 20 với thể chế được gọi là tự do
dân chủ nhân quyền), những thứ quốc hội nhân
danh quan niệm tiến bộ về dân sự cho xă hội và cho toàn
thể nhân loại. Chúng ta cũng không thể
thinh lặng trước những vi phạm trầm trọng khác đến việc
làm hụt hẫng đi lề luật của Thiên Chúa. Tôi đang
nghĩ tới, chẳng hạn, áp lực mănh liệt của Quốc Hội
Âu Châu trong việc nh́n nhận các cuộc hợp hôn đồng tính
như là một loại gia đ́nh khác, có quyền nhận con nuôi.
Thật là hợp lư, thậm chí cần phải đặt vấn đề phải
chăng đó không phải là công cuộc của một thứ ư hệ sự dữ
khác hay sao, có lẽ c̣n tinh xảo và kín đáo hơn, có ư
muốn khai thác chính nhân quyền để chống lại con người
và đời sống gia đ́nh”.
2) Con Người Hiện Đại - lo âu sợ
hăi những ǵ và ra sao??
Đó là lư do, trước t́nh h́nh thế giới với một dung nhan
loài người càng ngày càng bị méo mó thảm thương như thế,
với một lịch sử càng ngày càng nguy vong như thế, trong
tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của ḿnh
được xuất bản vào năm 1994, cũng như trong tác phẩm “Hồi
Niệm và Căn Tính” được xuất bản vào tháng 2/2005,
ngài đă cho biết ư nghĩa của lời kêu gọi “Đừng sợ,
hăy mở rộng cửa cho Đức Kitô” vô cùng quan trọng
liên quan đến vận mệnh lịch sử của loài người này, trong
Chương mở đầu “’The Pope’: A Scandal And A Mystery”
(ấn bản Anh Ngữ, trang 3-14) cũng như ở Chương áp cuối “Be
Not Afraid” (ấn bản Anh ngữ, trang 218-224), như
sau:
“Đức Kitô đă
nhiều lần nói cùng những ai Người gặp lời kêu gọi ‘đừng
sợ’ này. Thiên thần nói
cùng Đức Maria rằng: ‘Đừng sợ’ (x Lk
1:30). Cũng thế, Thánh Giuse cũng được trấn an: ‘Đừng
sợ!’ (x Mt 1:20). Đức Kitô cũng đă nói như thế
với các vị tông đồ, cho Thánh Phêrô, ở những trường hợp
khác nhau, nhất là sau Cuộc Phục Sinh của Người. Người
hằng nói với các vị là: ‘Đừng sợ!’. Thật
vậy, Người cảm thấy rằng các vị đang sợ hăi. Các vị
không biết chắc chắn rằng đấng mà các vị thấy có phải
đúng là Đức Kitô các vị đă biết hay chăng. Các vị đă tỏ
ra lo sợ khi Người bị bắt nhốt; các vị thậm chí c̣n sợ
hơn nữa sau khi Người Phục Sinh.
“Những lời Chúa Giêsu phán ấy đă được Giáo Hội lập lại.
Và với Giáo Hội, những lời ấy đă được đă được vị Giáo
hoàng này lập lại. Tôi đă làm như thế từ bài giảng đầu
tiên của tôi ở Quảng Trường Thánh Phêrô: ‘Đừng sợ!’ Những
lời này không phải là những lời được nói lên một cách
rỗng không. Chúng được bắt nguồn sâu xa từ trong Phúc
Âm. Chúng thực sự là những lời của chính Đức Kitô.
“Chúng ta không
nên sợ những ǵ đây? Chúng ta không nên sợ sự thật
về chính bản thân ḿnh. Một ngày kia Thánh Phêrô
ư thức được sự thật về ḿnh và vội vă thưa cùng Chúa
Giêsu rằng: ‘Lạy Chúa, xin hăy tránh xa con ra, v́ con
là một con người tội lỗi’ (Lk 5:8).
“Thánh Phêrô không phải là con người duy nhất nhận thức
được sự thật về ḿnh ấy. Hết mọi người đều biết đến nó.
Hết mọi vị thừa kế Thánh Phêrô đều biết đến nó. Tôi biết
sự thật này rất rơ. Hết mọi người trong chúng ta mắc nợ
Thánh Phêrô về những ǵ ngài nói vào hôm ấy: ‘Lạy Chúa,
xin hăy ra con ra, v́ con là một con người tội lỗi’.
Chúa Giêsu đă đáp lại ngài rằng: ‘Đừng sợ; từ nay trở đi
con sẽ trở thành tay đánh cá người’ (Lk 5:10). Đừng
sợ con người! Con người. Con người bao giờ cũng
vẫn như vậy thôi. Những đường lối được họ tạo nên lúc
nào cũng bất toàn, và chúng càng bất toàn họ càng biết
rơ về bản thân họ. Việc họ biết ḿnh từ đâu mà có? Nó
xuất phát từ tâm can con người. Tâm trí chúng ta tỏ ra
lo âu. Hơn ai hết, Đức Kitô biết nỗi khổ sầu của chúng
ta: ‘Đức Kitô biết những ǵ nơi mọi người’ (x Jn
2:25)….” (trang 5-6)
“Chúa Kitô là bí
tích của Thiên Chúa vô h́nh – một bí tích là dấu hiệu
của sự hiện diện. Thiên Chúa ở với chúng ta. Thiên Chúa,
Đấng vô cùng trọn hảo, chẳng những ở với con người, mà
chính Ngài c̣n trở nên một con người nơi Đức Giêsu Kitô
nữa. Đừng sợ vị Thiên Chúa làm người! Chính
v́ thế mà Thánh Phêrô đă nói ở Caesarea Philippi rằng:
‘Thày là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống’ (Mt
16:16)….
“Thánh Phêrô không
sợ Vị Thiên Chúa làm người. Trái lại, ngài đă sợ v́ Con
Thiên Chúa sống như là một con người. Thánh Phêrô không
thể chấp nhận nổi Người bị đánh đ̣n, bị đội măo gai và
cuối cùng bị đóng đanh trên thập tự giá. Thánh Phêrô
không thể chấp nhận điều ấy. Ngài đă tỏ ra sợ hăi. Và
bởi thế Đức Kitô mới nghiêm trọng trách ngài, song Người
không loại trừ ngài….” (trang 7)
“Đừng sợ mầu nhiệm của Thiên Chúa; đừng sợ t́nh yêu
của Ngài; và đừng sợ nỗi hèn yếu hay sự cao cả của con
người! Con người không
ngừng cao cả, thậm chí ngay cả nơi nỗi yếu kém của họ. Đừng
sợ trở thành những chứng nhân cho phẩm giá của hết mọi
con người, từ giây phút đầu thai cho tới khi qua đời”. (trang
12)
“Cần phải hiểu lời
kêu gọi ‘Đừng sợ!’ ở một nghĩa rất rộng. Ở
một nghĩa nào đó, nó là lời kêu gọi được ngỏ cùng
tất cả mọi dân tộc, một lời kêu gọi hăy chế ngự sợ hăi
trong hoàn cảnh thế giới hiện đại, kể cả ở Đông phương
lẫn Tây phương, ở Bắc phương lẫn Nam phương.
“Đừng
sợ những ǵ chính ḿnh chế tạo ra, đừng sợ tất cả những
ǵ con người sản xuất được, và là những ǵ ngày ngày trở
nên nguy hiểm cho họ! Tóm lại, đừng sợ bản thân ḿnh!
“Tại
sao chúng ta đừng sợ? V́ con người đă được Thiên Chúa
cứu chuộc. Khi nói lên những
lời này ở Quảng Trường Thánh Phêrô, tôi đă biết được bức
thông điệp đầu tiên của tôi và tất cả vai tṛ làm giáo
hoàng của tôi sẽ gắn liền với sự thật Cứu Chuộc. Nơi
Ơn Cứu Chuộc chúng ta thấy được nền tảng sâu xa nhất của
những lời ‘Đừng sợ!’: ‘V́ Thiên Chúa đă yêu thương thế
gian đến ban Con Một của Ngài’ (x Jn 3:16). Người
Con này luôn hiện diện như Đấng Cứu Chuộc nơi lịch sử
của loài người. Ơn Cứu Chuộc thấm nhập tất cả
lịch sử của con người, ngay cả trước khi Đức Kitô sinh
ra, và sửa soạn cho tương lai cánh chung của ḿnh. Ơn
Cứu Chuộc như là một thứ ánh sáng ‘chiếu trong tăm tối
nhưng tăm tối không át được ánh sáng’ (x Jn
1:5). Quyền năng nơi Thập Giá và Phục Sinh của
Chúa Kitô là những ǵ mănh liệt hơn bất cứ sự dữ nào
khiến con người có thể sợ hăi hay cần phải sợ hăi”. (trang
219)
“Ở vào cuối
thiên kỷ thứ hai đây, có lẽ chúng ta cần hơn bao giờ hết
những lời của Chúa Kitô Phục Sinh: ‘Đừng sợ!’. Con
người, thành phần mà ngay cả sau cuộc sụp đổ của chủ
nghĩa Cộng sản, vẫn không thôi sợ hăi và thực sự có
nhiều lư do để cảm thấy như vậy, cần phải nghe thấy
những lời ấy. Các quốc gia cần
nghe thấy những lời ấy, nhất là những quốc gia được tái
sinh sau cuộc sụp đổ của đế quốc Cộng sản, cũng như
những quốc gia chứng kiến thấy biến cố này từ bên ngoài.
Các dân tộc và các quốc gia trên toàn thế giới cần nghe
những lời ấy. Lương tâm của họ cần phải tin tưởng hơn
nữa là Đấng hiện hữu, Vị nắm trong tay vận mệnh của thế
giới đang qua đi này; Đấng giữ ch́a khóa tử thần và âm
phủ (x Rev 1:18); Đấng là Nguyên Thủy và là Cùng Đích
của lịch sử loài người (x Rev 22:13) – một lịch sử chung
cũng như riêng. Và Đấng ấy là T́nh Yêu (x 1Jn 4:8,16) –
một T́nh Yêu làm người, một T́nh Yêu tử giá và phục
sinh, một T́nh Yêu không thôi hiện diện nơi loài người.
Đó là T́nh Yêu Thánh Thể. T́nh Yêu Thánh Thể này là
nguồn mạch vô tận của hiệp thông. Chỉ có một ḿnh
Người mới có thể tuyệt đối bảo đảm bằng lời tuyên phán:
‘Đừng sợ!’ mà thôi” (trang 222)
“Con
người hiện đại khó ḷng mà trở về với đức tin được lắm,
bởi v́ họ sợ những đ̣i hỏi về luân lư như đức tin buộc
họ phải thi hành. Ở một mức độ nào
đó th́ đây là một thực tại. Phúc Âm thực sự là những ǵ
đ̣i hỏi. Chúng ta biết rằng Chúa Kitô không bao giờ cho
phép thành phần môn đệ của Người cũng như những ai nghe
Người bị ảo tưởng về vấn đề này. Trái lại, Người hết sức
sửa soạn cho họ trong việc họ cần phải đương đầu với hết
mọi thứ khó khăn nội ngoại, luôn ư thức rằng họ có thể
quyết định bỏ Người. Bởi thế, khi nói ‘Đừng sợ’ là
Người, một cách nào đó, không có ư muốn xí xóa đi tất cả
những ǵ Người đ̣i hỏi. Trái lại, với những lời ấy,
Người muốn khẳng định tất cả sự thật của Phúc Âm cùng
với tất cả mọi đ̣i hỏi được chất chứa nơi sự thật này.
Tuy nhiên, đồng thời Người cũng cho thấy rằng những ǵ
Người đ̣i hỏi không bao giờ vượt quá khả năng của con
người hết. Nếu con người chấp nhận những đ̣i hỏi này
bằng một thái độ tin tưởng, họ sẽ thấy, nhờ ân sủng,
Thiên Chúa không bao giờ thôi ban cho họ sức mạnh cần
thiết để đáp ứng những đ̣i hỏi ấy. Thế giới này
đầy những dấu chứng cho thấy rằng quyền năng cứu độ và
cứu chuộc được các Phúc Âm loan báo thường xuyên hơn là
những đ̣i hỏi về luân lư được các Phúc Âm này nhắc nhở.
Có biết bao nhiêu là người ở trên thế giới này sống cuộc
sống thường nhật đă chứng thực rằng họ có thể sống trọn
luân lư của Phúc Âm! Kinh nghiệm cho thấy rằng cuộc sống
của nhân loại thành đạt không thể nào khác hơn cuộc sống
giống như những người ấy”. (trang 222-223).
“Việc chấp nhận
những đ̣i hỏi của Phúc Âm nghĩa là chấp nhận tất cả nhân
tính của chúng ta, là thấy nơi nhân tính này vẻ đẹp theo
như Thiên Chúa muốn, đồng thời, trong ánh sáng quyền
năng của chính Thiên Chúa, nh́n nhận nỗi yếu hèn của
ḿnh: ‘Những ǵ con người bất khả th́ đều khả thi đối
với Thiên Chúa’ (Lk 18:27).
“Hai chiều kích
này bất khả tách biệt: một đàng, Thiên Chúa muốn con
người phải đáp ứng các đ̣i hỏi về luân lư của Người;
đàng khác, Thiên Chúa, ở một nghĩa nào đó, bị ràng buộc
với những đ̣i hỏi yêu thương cứu độ của Người – với tặng
ân Người ban phát. Ơn Cứu Chuộc được hoàn thành
nơi Chúa Kitô c̣n là ǵ khác nữa, nếu không phải chính
là điều này hay sao? Thiên Chúa muốn con
người được cứu độ, Người muốn rằng nhân loại t́m thấy
tầm vóc viên trọn của họ như chính Người mong muốn nơi
họ, và Đức Kitô có quyền để nói rằng ách của
Người th́ êm ái và gánh của Người thực th́ nhẹ nhàng (x
Mt 11:30)”. (trang 223)
“Rất
cần phải vượt qua ngưỡng cửa hy vọng, chứ không phải
dừng lại trước ngưỡng cửa này, thế nhưng, hăy để ḿnh
được dẫn qua. Tôi tin rằng
đại thi hào Balan là Cyprian Norwid đă nghĩ đến điều ấy
khi diễn tả ư nghĩa tối hậu của đời sống Kitô hữu qua
những lời là ‘Đừng kéo lê Thập Giá của Đức Kitô, nhưng
hăy vác thập giá của ḿnh theo Chúa Cứu Thế’
“Người
ta có đủ lư do để gọi sự thật về Thập Giá là Tin Mừng” (trang 223-224).
Tóm lại, để con người văn minh tân tiến có thể từ cuối
thiên kỷ thừ hai tiến vào thiên kỷ thứ ba Kitô Giáo, từ
thế kỷ 20 đầy chết chóc hận thù sang thế kỷ 21 một cách
“mở rộng cửa cho Chúa Kitô”, theo vị Giáo Hoàng
triết gia nhân bản Gioan Phaolô II th́ con người tự ḿnh
phải biết kính sợ Thiên Chúa, một chủ trương đă được
ngài khẳng định và tuyên bố, bằng những lời lẽ chẳng
những để kết thúc hoàn toàn cho tác phẩm “Vượt Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (ấn bản Anh Ngữ trang 228-229),
mà, qua đoạn cuối cùng này, ngài c̣n cho thấy rơ chủ
hướng của giáo triều ngài là để phục vụ thành phần Thụ
Nhân Cứu Chuộc là một thế giới tân tiến với đầy những lo
âu tàn phá được gặp gỡ “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”.
Những lời lẽ ấy như sau:
“Để
giải thoát con người hiện đại khỏi nỗi hăi sợ chính bản thân
ḿnh, hăi sợ thế giới, hăi sợ các thứ quyền lực trần
thế, hăi sợ những thể chế đàn áp, để giải thoát họ khỏi
mọi h́nh thức của một thứ sợ hăi nô lệ trước ‘quyền lực
thắng thế’ được tín hữu gọi là Thiên Chúa, th́ cần
phải thiết tha nguyện cầu để họ nung nấu và vun trồng
trong tâm can họ một niềm kính sợ Thiên Chúa là khởi
điểm của đức khôn ngoan.
“Niềm kính sợ Thiên Chúa này là quyền lực cứu độ của
Phúc Âm. Nó là một nỗi sợ hăi xây dựng chứ không bao
giờ hủy hoại. Nó kiến tạo nên những con người có thể
tuân theo trách nhiệm, có thể chiều theo một t́nh yêu
thương hữu trách. Nó kiến tạo nên những con người nam nữ
thánh thiện – thành phần Kitô hữu đích thực – thành phần
trên hết định đoạt tương lai thế giới. André Malraux
thực sự là xác đáng khi ông nói rằng thế kỷ 21 sẽ
là một thế kỷ của đạo giáo hay sẽ chẳng là ǵ cả.
“Vị
Giáo Hoàng mở màn cho vai tṛ làm giáo hoàng của ḿnh
bằng những lời ‘Đừng sợ!’ cố
gắng trung thành hoàn trọn lời huấn dụ này, và bao giờ
cũng sẵn sàng phục vụ con người, phục vụ các quốc gia,
và phục vụ nhân loại theo tinh thần của sự thật Phúc Âm
ấy”.
3) Con Người Hiện Đại - làm sao
có thể được cứu khỏi sự dữ???
Tuy nhiên, con người tự bản chất đă yếu đuối, giờ đây,
trước t́nh trạng “v́ sự dữ gia tăng mà ḷng của hầu
hết con người ta trở nên nguội lạnh” (Mt 24:12), mà,
theo vị Giáo Hoàng qua đời vào đêm 2/4/2005, tức vào
ngày áp Lễ Chúa T́nh Thương (3/4/2005), và qua đời sau
Thánh Lễ Chúa T́nh Thương được cử hành tại pḥng của
ngài, một Lễ đă được ngài chính thức thiết lập khi tuyên
bố trong bài giảng phong Thánh cho Nữ Tu Faustina là
người đồng hương của ngài ngày 30/4/2000, th́ Con Người
Hiện Đại ấy chỉ có thể được cứu chuộc bởi chính Ḷng
Thương Xót Chúa mà thôi, v́ T́nh Thương Chúa, căn nguyên
và động lực của Mầu Nhiệm Cứu Chuộc, chính là giới hạn
chặn đứng sự dữ đang lộng hành hầu như chưa bao giờ có
trong lịch sử loài người này.
Thật vậy, cũng trong tác phẩm “Hồi Niệm Và Căn Tính”,
vị Giáo Hoàng này đă nói thêm về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là
phản ảnh Ḷng Thương Xót Chúa liên quan tới Con Người
Hiện Đại, ở chương 4, chương có tựa đề “Việc Cứu
Chuộc Là Giới Hạn Thần Linh Chế Ngự Sự Dữ” (ấn bản
Anh Ngữ, trang 19-21), như sau:
“Không
thể nào nghĩ tới giới hạn do chính Thiên Chúa ngăn chặn
đối với các h́nh thức khác nhau của sự dữ mà lại không
qui chiếu về mầu nhiệm Cứu Chuộc.
“Có thể nào mầu nhiệm Cứu Chuộc đáp ứng nổi trước sự dữ
về lịch sử, một sự dữ mà, qua những h́nh thức khác nhau,
tiếp tục tái diễn nơi các việc làm của con người hay
chăng? Dường như, sự dữ của các trại tập trung, của các
pḥng hơi ngạt, của cái dă man nơi nhân viên công an
cảnh sát, của toàn bộ chiến tranh, của các chế độ đàn áp
– một sự dữ tương phản một cách có tổ chức với sứ điệp
của Thập Giá – như tôi nói, dường như sự dữ này mănh
liệt hơn cả sự thiện nữa. Tuy nhiên, nếu chúng ta nh́n
kỹ hơn nữa vào lịch sử của các dân tộc và các quốc gia
đă chịu đựng cuộc thử thách với những chế độ độc tài
cũng như những cuộc bách hại đức tin, chúng ta khám phá
ra rằng đó chính là nơi rạng ngời nhất cho việc hiện
diện hiển vinh của Thập Giá Chúa Kitô. Cái bối cảnh thê
thảm ấy lại càng làm nổi bật việc hiện diện này hơn
nữa. Đối với những ai chịu đựng cái sự dữ có mưu
đồ này th́ chỉ c̣n duy Chúa Kitô và Thập Giá của Người
là nguồn mạch tự vệ thiêng liêng mà thôi, như một hứa
hẹn chiến thắng vậy. Không phải hay sao việc hy
sinh của Maximilian Kolbe trong trại diệt chủng ở
Auschwitz đă trở thành dấu chỉ chiến thắng trên sự dữ?
Và cũng không phải tương tự như thế hay sao khi nói tới
Edith Stein – một đại tư tưởng gia thuộc trường phái
Husserl – người đă bị chết trong pḥng hơi ngạt ở
Birkenau, nhờ đó chia sẻ số mệnh với nhiều người con nam
nữ khác của dân tộc Do Thái? …
“Mầu
nhiệm Cứu Chuộc của Chúa Kitô đă ăn sâu vào đời sống của
chúng ta. Đời sống
tân tiến là một thứ văn minh bị chi phối bởi kỹ thuật,
thế nhưng, cả ở nơi đời sống tân tiến này nữa, mầu nhiệm
này cũng lưu lại dấu vết hiệu nghiệm của ḿnh,
như Công Đồng Chung Vaticanô II đă nhắc nhở chúng ta:
“’Đối với vấn đề làm thế nào để t́nh trạng bất hạnh này
có thể được chế ngự, Kitô giáo trả lời rằng, tất
cả mọi hoạt động của con người, những hoạt động hằng
ngày bị tác hại bởi ḷng kiêu căng và bởi tự ái quá độ,
cần phải được Thập Giá và Cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô
thanh tẩy và hoàn hảo hóa. Được Chúa Kitô cứu
chuộc và được Thánh Thần làm nên một tạo vật mới, con
người có thể, đúng hơn, họ cần phải yêu mến những sự
được Thiên Chúa tạo dựng: chính từ Thiên Chúa con người
đă lănh nhận chúng, và chính v́ chúng từ bàn tay Thiên
Chúa ban cho mà họ phải ân cần và tôn trọng chúng. Con
người tri ân cảm tạ Vị Ân Nhân thần linh này của ḿnh về
tất cả những sự ấy, họ sử dụng chúng và hoan hưởng chúng
bằng tinh thần khó nghèo và tự do: nhờ đó, họ mới tiến
tới chỗ thực sự chiếm hữu được thế giới, như thể chẳng
có ǵ mà lại có hết mọi sự vậy’….
“Nếu
Việc Cứu Chuộc đánh dấu giới hạn thần linh trên sự dữ,
th́ chính v́ lư do duy nhất này: đó là v́ thật sự sự dữ
bị chế ngự bởi sự thiện, hận ghét bởi yêu thương, chết
chóc bởi phục sinh”.
Vào thời điểm vị Giáo Hoàng không phải người Ư sau 455
năm xuất hiện “từ một xứ sở xa xăm” này về thăm
quê hương lần cuối cùng vào mùa hè năm 2002, loài người
bấy giờ đă ở vào một t́nh trạng nguy vong đến độ ngài đă
phải chính thức và long trọng hiến dâng thế giới, một
thế giới khốn khổ thảm thương về mọi lănh vực, cho Ḷng
Thương Xót Chúa tại ngôi Đền Thờ Chúa T́nh Thương vào
ngày Thứ Bảy 17/8/2002:
“Hôm nay Tôi muốn lập lại những lời đơn sơ và chân thành
này của Thánh Nữ Faustina để hợp với thánh nhân cũng như
với tất cả anh chị em tôn thờ mầu nhiệm khôn thấu và
khôn lường của t́nh thương Thiên Chúa. Như Thánh
Faustina, chúng ta muốn loan báo rằng, ngoại trừ
t́nh thương của Thiên Chúa, không c̣n một nguồn hy vọng
nào khác cho loài người nữa. Chúng ta cần tin tưởng lập
lại rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa!
“Việc
loan báo này, việc tuyên xưng ḷng tin tưởng vào t́nh
yêu toàn năng của Thiên Chúa là việc đặc biệt cần thiết
ở thời đại chúng ta đây, khi mà nhân loại đang trải qua
một t́nh trạng biến loạn trước những xuất hiện của sự
dữ. Việc kêu cầu ḷng thương xót Chúa cần phải được vang
lên từ thẳm cung của các cơi ḷng đầy những khổ đau, băn
khoăn về tương lai và sống trong bất ổn, đồng thời lại
trông mong một nguồn hy vọng vững chắc. Đó là lư do tại
sao chúng ta đến đây hôm nay, đến Ngôi Đền Thờ
Lagiewniki này, để một lần nữa thoáng thấy nơi Chúa Kitô
dung nhan của Thiên Chúa Cha: ‘Người Cha của t́nh thương
và là Thiên Chúa của tất cả mọi niềm ủi an’ (2Cor 1:3).
Bằng con mắt linh hồn của ḿnh, chúng ta mong nh́n vào
đôi mắt của Chúa Giêsu nhân hậu, để thấy được sâu xa
trong ánh mắt của Người những ǵ phản ảnh nội tâm của
Người, cũng như thấy được ánh sáng ân sủng là những ǵ
chúng ta đă thường xuyên lănh nhận, và là những ǵ Thiên
Chúa ban lại cho chúng ta mỗi ngày cũng như vào ngày
cuối cùng của cuộc đời chúng ta” (đoạn 1).
“‘Lạy Cha hằng hữu, v́ tội lỗi của chúng con và của toàn
thế giới, con xin dâng lên Cha Ḿnh Máu, Linh Hồn và
Thiên Tính của Con Cha yêu dấu là Chúa Giêsu Kitô; v́
những sự khốn khó của Cuộc Người Khổ Nạn, xin Cha thương
đến chúng con và toàn thế giới’ (Nhật Kư, 476). Thương
đến chúng con và toàn thế giới… Thế giới ngày nay
cần đến t́nh thương của Thiên Chúa biết bao! Nơi hết mọi
lục địa, từ vực sâu khốn khổ của loài người, tiếng kêu
cầu xót thương dường như đang vang dậy. Nơi nào thù hằn
và đ̣i rửa hận thống trị, nơi nào chiến tranh mang lại
đau thương và chết chóc cho thành phần vô tội, th́ ở đó
cần đến ân sủng t́nh thương để ổn định ḷng trí con
người và tạo lập ḥa b́nh. Nơi nào thiếu hụt ḷng trọng
kính sự sống và phẩm vị con người th́ ở đó cần đến t́nh
yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng mà trong ánh sáng của
Ngài, chúng ta thấy được giá trị khôn tả của hữu thể con
người. Cần phải có t́nh thương để bảo đảm rằng hết mọi
bất công trên thế giới này sẽ được kết thúc trong chân
lư rạng ngời.
“Thế
nên, hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng
kư thác thế giới cho Ḷng Thương Xót Chúa. Tôi làm như
vậy với một ḷng thiết tha mong ước thấy sứ điệp của
t́nh yêu nhân hậu Thiên Chúa, được loan báo nơi đây qua
Thánh Faustina, cũng được tất cả mọi dân tộc trên thế
giới biết đến và làm cho ḷng họ tràn đầy niềm hy vọng.
Chớ ǵ sứ điệp này, từ nơi đây, chiếu tỏa ra cho quê
hương thân yêu của chúng ta cũng cho khắp thế giới. Chớ
ǵ lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên trọn, ở chỗ, từ
nơi đây phải chiếu giăi ra ‘tia sáng sửa soạn thế giới
cho lần đến cuối cùng của Cha’ (x Nhật Kư,
1732)” (đoạn 5).
Chưa hết, trong bài giảng phong chân phước cho 4 vị đồng
hương của ngài vào Chúa Nhật 18/8/2002 trong chuyến thăm
quê hương lần thứ 8 này, vị Giáo Hoàng đă ban hành Thông
Điệp thứ hai về Chúa Cha “Giầu Ḷng Thương Xót –
Dives in Misericordia” ngày 30/11/1980, c̣n thấy
hiện trạng vô cùng đáng thương của con người tân tiến,
một hiện trạng rất cần đến vai tṛ của Giáo Hội trong
việc mang t́nh thương của Chúa đến cho nhân loại, cho
một thế giới ở vào thời điểm thế kỷ 20 càng ngày càng đi
đến chỗ tự diệt vong nên lại càng đúng lúc cần đến Ḷng
Thương Xót Chúa, như ngài đă bày tỏ:
“Từ khi bắt đầu hiện hữu, Giáo Hội, qua việc bày tỏ mầu
nhiệm Thập Giá và Phục Sinh, đă rao giảng t́nh thương
Chúa, một bảo chứng hy vọng và là nguồn mạch cứu độ con
người. Tuy nhiên, hôm nay đây chúng ta dường như
được kêu gọi đặc biệt để loan báo sứ điệp này trước thế
giới. Chúng ta không thể lơ là với sứ vụ này, nếu chính
Thiên Chúa đă kêu gọi chúng ta thực hiện sứ vụ này qua
chứng từ của Thánh Nữ Faustina.
“Thiên
Chúa đă chọn thời đại của chúng ta cho mục đích này. Có
lẽ v́ thế kỷ 20, mặc dù có những thành đạt không thể
chối căi về nhiều lănh vực, cũng đă bị ghi dấu một cách
đặc biệt bởi ‘mầu nhiệm lỗi lầm - mystery of iniquity’.
… ‘Mầu nhiệm lầm lỗi’ tiếp tục đánh dấu cái thực tại của
thế giới này.
“Cảm nghiệm được mầu nhiệm ấy, con người mới sống
trong nơm nớp lo sợ về tương lai, lo sợ về t́nh trạng
trống rỗng, lo sợ phải khổ đau, lo sợ bị hủy diệt.
Có lẽ chính v́ lư do này mà Chúa Kitô, qua việc sử dụng
chứng từ của một Nữ Tu thấp hèn, đă đến với thời đại của
chúng ta để tỏ cho chúng ta thấy một cách rơ ràng nguồn
mạch sống khuây khỏa và hy vọng ở nơi t́nh thương đời
đời của Thiên Chúa.
“Sứ
điệp t́nh yêu nhân hậu cần được vang vọng một cách mạnh
mẽ một lần nữa. Thế giới cần đến thứ t́nh yêu này. Đă đến
thời giờ cần phải mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho mọi
người: cho các kẻ trị v́ và thành phần bị áp bức, cho
những ai có bản tính và phẩm vị bị tiêu ma trong mầu
nhiệm lỗi lầm. Đă đến thời giờ sứ điệp Ḷng Thương Xót
Chúa có thể làm cho các tâm hồn tràn đầy hy vọng và trở
nên tia sáng cho một nền văn minh mới, một nền văn minh
yêu thương” (đoạn 3).
Đó là lư do, vào Lễ Chúa T́nh Thương được cử hành lần
đầu tiên hôm Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh,
22/4/2001, trong bài giảng của ḿnh, ngài đă thúc giục
loài người hăy tin tưởng vào t́nh yêu vô cùng nhân hậu
của Thiên Chúa, một t́nh yêu duy nhất có thể cứu độ con
người tội lỗi lại vô cùng bất lực:
“‘Đừng sợ, Ta là
nguyên thủy và là cùng tận, là Đấng đang sống; Ta đă
chết, mà này Ta đang sống muôn đời’ (Rev 1:17-18).
“Chúng ta đă nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ
Hai được trích từ Sách Khải Huyền. Những lời ấy mời gọi
chúng ta hăy nh́n lên Chúa Kitô để cảm nghiệm được sự
hiện diện an toàn của Người. Đấng Phục Sinh lập
lại lời ‘Đừng sợ!’ với mỗi một người, dù thân phận họ ra
sao, cho dù có bị thê thảm và rắc rối nhất. Ta
đă chết trên Thập Giá, nhưng nay ‘Ta đang sống muôn
đời’; ‘Ta là nguyên thủy và là cùng tận, là Đấng đang
sống’.
“’Nguyên Thủy’ tức là nguồn gốc của hết mọi hữu thể và
là hoa trái đầu mùa của việc tân tạo; ‘Cùng Tận’ là thời
điểm vĩnh viễn kết thúc lịch sử; ‘Đấng đang sống’ là
nguồn mạch vô tận của sự sống đă vĩnh viễn chiến thắng
sự chết. Nơi Đấng Thiên Sai, tử giá và phục sinh, chúng
ta nhận thấy những dấu vết của một Con Chiên bị hiến tế
trên đồi Gôngôta, Đấng xin ơn thứ tha cho các kẻ hành
h́nh Người và mở cửa trời cho các tội nhân thống hối;
chúng ta thoáng nh́n thấy dung nhan của một Vị Vua bất
tử, Đấng giờ đây nắm trong tay ‘ch́a khóa của Sự Chết và
Âm Phủ’ (Rev 1:18)” (đoạn 1).
“‘Hăy cảm tạ Chúa,
v́ Chúa tốt lành; v́ t́nh Ngài xót thương muôn đời bền
vững!’ (Ps 117:1).
|