ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II
VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ CHÚA CỨU CHUỘC”
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Nội Dung
1.- “Totus Tuus”: Nguồn Gốc
2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực
3.- “Totus Tuus”:
Tác Hiệu
Nếu Mầu Nhiệm
Cứu Chuộc là Cốt Lơi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô
II, trước hết, được chứng thực nơi Thông Điệp “Đấng
Cứu Chuộc Nhân Trần” là những ǵ liên quan trực
tiếp đến Tác Nhân Cứu Chuộc, và sau nữa, được chứng
thực nơi lời kêu gọi thế giới loài người tân tiến
hiện đại, đối tượng thụ nhân của Mầu Nhiệm Cứu
Chuộc, “Đừng sợ, hăy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”,
vào chính Lễ Đăng Quang mở màn cho giáo triều của
ngài, th́, sau hết, c̣n được chứng thực qua đường
lối cứu chuộc thời đại nữa, đó là Đường Lối Maria, Mẹ
Đấng Cứu Chuộc, Vị được ngài hết ḷng tin tưởng
và liên lỉ cậy trông, bằng việc tận hiến cho Mẹ, với
tâm niệm “totus tuus – tất cả của con là của Mẹ
(hay) con hoàn toàn thuộc về Mẹ”.
Vấn đề
được đặt ra ở đây là tại sao Đức Gioan Phaolô II đă
chọn khẩu hiệu “totus tuus” mà không chọn một
khẩu hiệu khác về Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần? Ngài có
thực sự sống “totus tuus” này hay chăng hay
chỉ là những ǵ hữu danh vô thực?? Và đâu là những
tác hiệu của “totus tuus” đối với vị Giáo
Hoàng này và từ vị Giáo Hoàng này???
1.- “Totus Tuus”: Nguồn Gốc
Như vị
đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI, có lúc bản thân
đă đặt vấn đề về Thánh Mẫu (xem The Ratzinger
Report, ấn bản Anh Ngữ, trang 105), Đức Gioan
Phaolô II cũng thú nhận là thoạt tiên ngài cũng cảm
thấy không nên tôn sùng Đức Mẹ lắm kẻo làm giảm vị
thế của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần của
ngài, nhưng sau đó, nhờ Thánh Long Mộng Phố (Louis
de Montfort), qua cuốn “Luận về Ḷng Thành
Thực Sùng Kính Mẹ Maria” của Thánh nhân, ngài
chẳng những vỡ lẽ về Thánh Mẫu, mà c̣n dứt khoát
chọn sống khẩu hiệu “totus tuus” từ đó cho
tới khi làm Giáo Hoàng và cho tới chết, như chính
ngài đă chia sẻ trong 2 tác phẩm thời danh của ngài
là cuốn “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” và cuốn
“Tặng Ân Và Mầu Nhiệm”.
Trong tác phẩm “Vượt Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (ấn bản Anh
Ngữ, 1994, trang 212-215), ngài cho biết:
“Totus
Tuus. Câu này chẳng những là một lời diễn đạt của
ḷng thảo hiếu, hay đơn giản hơn là một lời diễn đạt
của ḷng tôn sùng. Mà c̣n hơn thế nữa ḱa. Trong
thời Thế Chiến Thứ Hai, vào lúc tôi đang làm công
cho một xí nghiệp th́ tôi đă được ḷng tôn sùng
Thánh Mẫu thu hút. Thoạt tiên, dường như tôi cảm
thấy cần phải lơ là một chút với ḷng tôn sùng Thánh
Mẫu ở thuở niên thiếu, hầu chuyên chú tới Chúa Kitô
hơn. Nhờ Thánh Long Mộng Phố, tôi đă hiểu được rằng ḷng
thành thực sùng kính Người Mẹ của Thiên Chúa là việc
thực sự qui về Chúa Kitô, thật sự nó được bắt
nguồn sâu xa nơi Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi,
cũng như nơi những mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc.
“Bởi
thế, bấy giờ tôi đă tái khám phá ra ḷng thảo hiếu
Thánh Mẫu một kiến thức sâu xa hơn. H́nh thức chín
chắn của việc tôn sùng Người Mẹ của Thiên Chúa này
đă tồn tại nơi tôi qua năm tháng, sinh hoa kết trái
nơi các văn kiện Redemptor Mater – Mẹ Đấng Cứu
Chuộc (Biệt chú của người dịch: Bức Thông Điệp
thứ 6 này được ban hành ngày Lễ Mẹ Thai Lời
25/3/1987, sau Thông Điệp thứ 5 về Chúa Thánh Thần
ngày Lễ Hiện Xuống 18/5/1986) và Mulieris
Dignitatem – Phẩm Vị của Nữ Giới (Biệt
chú của người dịch: Bức Tông Thư này được ban hành
ngày Lễ Mẹ Mông Triệu 15/8/1988)….
“Khi
tôi tham dự Công Đồng, tôi thấy phản ảnh nơi chương
này (biệt chú, như ĐTC nói đến ngay trước đó là
Chương Tám của Hiến Chế Tín Lỳ về Giáo Hội “Ánh Sáng
Muôn Dân” là chương giành riêng bàn về Đức Mẹ),
tất cả những cảm nghiệm thời niên thiếu của tôi,
cũng như những liên kết đặc biệt tiếp tục nối thắt
tôi với Người Mẹ Thiên Chúa nơi những cách thức luôn
mới mẻ.
“Cách đầu
tiên – và là cách lâu đời nhất – gắn liền với
tất cả thời gian tôi c̣n nhỏ, thời tôi đă dừng chân
đứng lại trước ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở nhà thờ
giáo xứ Wadowice. Nó liên quan tới tập tục áo Đức Bà
Carmêlô, phong phú về ư nghĩa và về biểu hiệu, những
ǵ tôi đă biết từ khi c̣n trẻ nhờ đan viện Carmelo
‘ở trên đồi’ nơi tỉnh lỵ tôi ở. Nó c̣n gắn liền với
truyền thống thực hiện hành hương tới Đền Kalwaria
Zebrzydowska, một trong những địa điểm thu hút nhiều
phái đoàn hành hương, nhất là từ miền nam Balan và
từ cả ngoài dăy Núi Carpathia. Đền Thánh địa phương
này là nơi đáng chú ư, v́ nó chẳng những có tính
cách Thánh Mẫu mà c̣n hoàn toàn tập trung vào Chúa
Kitô nữa…
“Từ
những năm thơ trẻ nhất của ḿnh, việc tôn sùng của
tôi đối với Mẹ Maria đă được liên kết chặt chẽ với
đức tin của tôi nơi Chúa Kitô. Đền Kalwaria đă giúp
tôi rất nhiều về điều này…
“Một
chương khác nơi đời sống của tôi là Jasna Góra,
với bức ảnh Hắc Đức Nữ …. (biệt chú: đoạn này được
ngài làm sáng tỏ ở phần “Totus Tuus: Chủ Đích”
cuối cùng sẽ được trích dẫn dưới đây)
“Tôi
nghĩ rằng những ǵ tôi đă nói đủ để cắt nghĩa về
ḷng tôn sùng Thánh Mẫu của vị Giáo Hoàng này, và
nhất là về thái độ ngài hoàn toàn phó ḿnh cho Mẹ
Maria – Totus Tuus của ngài”.
Trong cuốn
“Tặng Ân Và Mầu Nhiệm” (ấn bản Anh Ngữ, 1996, trang 28-30), ngài tự thuật rằng:
“Khi
tôi c̣n ở Cracow, Debniki, tôi đă gia nhập nhóm
‘Kinh Mân Côi Sống’ thuộc giáo xứ Thánh Salesiô. Tại
đây, đặc biệt là ḷng tôn sùng Đức Mẹ Phù Hộ Các
Giáo Hữu. Ở Debrini, ở vào lúc ơn gọi linh mục đang
triển nở trong tôi, th́ như tôi đă đề cập tới, chịu
ảnh hưởng của Jan Tyranowski, tôi đă đổi thay việc
hiểu biết của ḿnh về ḷng tôn sùng Người Mẹ của
Thiên Chúa. Tôi vốn đă thâm tín rằng Mẹ Maria là
vị dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô, thế nhưng,
vào lúc ấy, tôi cũng bắt đầu nhận thấy rằng Chúa
Kitô dẫn chúng ta tới với Mẹ của Người nữa. Có
dạo tôi đă bắt đầu đặt vấn đề về ḷng tôn sùng Mẹ
Maria, với ư nghĩ rằng, nếu ḷng tôn sùng này trở
nên quá trớn th́ có thể dẫn tới chỗ làm loăng đi
tính cách thượng tôn của việc tôn thờ giành cho Chúa
Kitô. Bấy giờ, tôi đă được trợ giúp rất nhiều bởi
một tác phẩm của Thánh Louis Marie Grignion de
Montfort mang tên Luận về Ḷng Thành Thực Sùng
Kính Đức Trinh Nữ. Ở đó, tôi đă t́m thấy những
giải đáp cho các vấn nạn của tôi. Phải, Mẹ Maria
thực sự mang chúng ta lại gần hơn với Chúa Kitô; Mẹ
thực sự dẫn chúng ta tới với Người, nếu chúng ta
sống mầu nhiệm của Mẹ trong Chúa Kitô. Luận phẩm này
của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort có thể là
một cái ǵ hơi chướng, v́ kiểu cách đánh bóng và kỳ
dị của nó, thế nhưng, không thể chối căi được rằng
nó chất chứa những chân lư thần học thiết yếu. Tác
giả là một thần học gia nổi tiếng. Tư tưởng về khoa
Thánh Mẫu Học của ngài được bắt nguồn từ mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi cũng như mầu nhiệm Nhập Thể của
Lời Thiên Chúa…
“Đây là
nguồn gốc của khẩu hiệu Totus Tuus. Câu này
xuất phát từ Thánh Louis Marie Grignion de Montfort.
Nó là hai chữ viết tắt của toàn thể mẫu tận hiến cho
Mẹ Thiên Chúa như thế này: Totus Tuus ego sum et
omnia mea Tua sunt. Accipio Te in mea omnia. Praebe
mihi Tuum, Maria.
“Bởi
thế, nhờ Thánh Louis, tôi đă bắt đầu khám phá ra
những kho tàng dồi dào của ḷng tôn sùng Thánh Mẫu
theo các quan điểm mới…”
Trong Tông Thư “Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria” (16/10/2002)
"Kinh Mân Côi đưa chúng ta một cách kỳ diệu về ở bên cạnh
Mẹ Maria khi Mẹ bận coi sóc việc phát triển về nhân
bản của Chúa Kitô ở nhà Nazarét. Nhờ đó Mẹ có thể
huấn luyện chúng ta và khuôn đúc chúng ta bằng cùng
một việc chăm sóc ấy, cho đến khi Chúa Kitô “được
h́nh thành trọn vẹn” nơi chúng ta (x Gal 4:19). Vai
tṛ này của Mẹ Maria, một vai tṛ hoàn toàn gắn liền
với vai tṛ của Chúa Kitô và thực sự đóng vai phụ
cho vai tṛ của Chúa Kitô, “không thể nào lại làm lu
mờ hay suy giảm đi vai tṛ trung gian chuyên nhất
của Chúa Kitô, trái lại, c̣n cho thấy quyền lực của
vai tṛ ấy” (Ibid., 60). Đây là một nguyên tắc sáng
tỏ được Công Đồng Chung Vatican II bày tỏ, một
nguyên tắc Tôi đă cảm nhận hết sức mănh liệt trong
đời sống của Tôi và đă đặt nền tảng cho khẩu hiệu
làm giáo phẩm của Tôi: Totus Tuus Tất cả của con là
của Mẹ (Cf. First Radio Address Urbi et Orbi [17
October 1978]: AAS 70 [1978], 927). Thực sự th́ khẩu
hiệu này đă được khơi hứng từ giáo huấn của Thánh
Louis Marie Grignion Montfort, vị đă cắt nghĩa vai
tṛ của Mẹ Maria trong tiến tŕnh nên giống Chúa
Kitô bằng những lời lẽ sau đây: “Việc chúng ta hoàn
toàn nên trọn lành là ở chỗ nên giống như, hiệp nhất
với và thánh hiến cho Chúa Kitô. Bởi thế, việc tôn
sùng tuyệt hảo nhất phải là việc tôn sùng làm cho
chúng ta nên giống như, hiệp nhất với và thánh hiến
cho Chúa Giêsu Kitô một cách hoàn hảo nhất. Vậy, nếu
Mẹ Maria là một trong những tạo sinh giống như Chúa
Giêsu Kitô nhất th́ trong tất cả mọi việc tôn sùng
làm cho linh hồn thánh hiến cho và nên giống như
Chúa Kitô đó là việc tôn sùng Mẹ Maria, Mẹ Thánh của
Người, và linh hồn càng tận hiến cho Mẹ lại càng
được thánh hiến cho Chúa Giêsu Kitô” (Treatise on
True Devotion to the Blessed Virgin Mary). Chưa bao
giờ thấy cuộc sống của Chúa Giêsu và cuộc đời của Mẹ
Maria tỏ ra liên kết với nhau sâu xa như ở nơi Kinh
Mân Côi. Mẹ Maria chỉ sống trong Chúa Kitô và cho
Chúa Kitô mà thôi!"
Trong Tông Thư về cuốn “Luận Về
Ḷng Thành Thực Sùng Kính Đức Trinh Nữ” (8/12/2003)
Thật
vậy, trong Tông Thư đề ngày 8/12/2003 gửi Gia Đ́nh
các Hội Ḍng do Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)
thành lập, nhân dịp kỷ niệm 160 năm xuất bản tác
phẩm Thánh mẫu thời danh của vị thánh này, một tác
phẩm đă ảnh hưởng sâu xa đến ḷng sùng kính Thánh
Mẫu của ḿnh, Đức Gioan Phaolô II đă tự thú ở ngay
đoạn mở đầu như sau:
“Một
tác phẩm được viết để làm tác phẩm cổ điển về linh
đạo Thánh Mẫu đă được xuất bản cách đây 160 năm
trước. Thánh Louis Marie Grignion de Montfort đă
viết cuốn Luận Về Ḷng Thành Thực Sùng Kính Đức
Trinh Nữ vào đầu thế kỷ 18, thế nhưng, trên thực
tế, bản thảo đă không được biết đến trên một thế kỷ.
Cuối cùng, hầu như là t́nh cờ, nó đă được t́m thấy
vào năm 1842 và xuất bản vào năm 1843, tác phẩm này
đạt được thành quả ngay, cho thấy hiệu năng phi
thường của việc truyền bá ‘ḷng thành thực sùng
kính’ đối với Vị Trinh Nữ Rất Thánh này. Chính tôi,
trong những năm c̣n trẻ, đă t́m được hỗ trợ rất
nhiều khi đọc tác phẩm này. ‘Tôi đă thấy ở đó những
giải đáp cho các vấn nạn của ḿnh’, v́ có lúc tôi sợ
rằng nếu việc tôi tôn sùng Mẹ Maria ‘trở thành quá
đà th́ sẽ đi đến chỗ làm tổn thương tới tính cách
tối thượng của việc tôn thờ giành cho Chúa Kitô’ (Dono
e Mistero, Libreria Editrice Vaticana, 1996;
English edition: Gift and Mystery, Paulines
Publications Africa, p. 42). Với sự hướng dẫn khôn
ngoan của Thánh Louis Marie, tôi đă nhận ra rằng nếu
ai sống mầu nhiệm Mẹ Maria trong Chúa Kitô th́ không
có vấn đề nguy cơ này. Thật thế, tư tưởng Thánh Mẫu
của vị Thánh này ‘đă bắt nguồn từ mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi và từ sự thật Nhập Thể của Lời Thiên Chúa’
(ibid.).
“Từ khi
được hạ sinh, nhất là vào những lúc khó khăn nhất
của ḿnh, Giáo Hội đă thiết tha chiêm ngưỡng biến cố
Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô được Thánh Gioan đề cập
tới, đó là: ‘Đứng kề Thánh Giá Chúa Giêsu có Mẹ của
Người, và chị của Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas,
cùng với Maria Mai Đệ Liên. Khi Chúa Giêsu thấy Mẹ
của ḿnh và môn đệ Người yêu đứng gần th́ Người nói
với Mẹ ḿnh rằng: Hỡi Bà, này là con của bà!
Đoạn Người nói với người môn đệ rằng: Này là
người mẹ của con! Và từ lúc đó người môn đệ ấy
mang Người về nhà ḿnh’ (Jn 19:25-27). Qua gịng
lịch sử của ḿnh, Dân Chúa đă cảm nghiệm được tặng
ân này của Chúa Giêsu tử giá, đó là tặng ân Mẹ
Người. Mẹ Maria Rất Thánh thực sự là Mẹ của chúng
ta, vị đồng hành với chúng ta trong cuộc hành tŕnh
đức tin, đức cậy và đức mến, tiến tới chỗ càng được
hiệp nhất nên một hơn với Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ và
là Trung Gian cứu độ duy nhất (x Hiến Chế Ánh Sáng
Muôn Dân, các số 60, 62).
“Như đă quá rơ, cầu
vai áo choàng giáo phẩm của tôi cho thấy một cách
tượng trưng câu Phúc Âm được trích dẫn trên đây; câu
khẩu hiệu Totus tuus là câu được gợi hứng bởi
giáo huấn của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort
(cf. Gift and Mystery, pp. 42-43; Rosarium
Virginis Mariae, n. 15). Hai chữ này diễn tả việc hoàn toàn thuộc
về Chúa Giêsu qua Mẹ Maria: ‘Tuus totus ego sum,
et omnia mea tua sunt’, Thánh Montfort đă viết
như thế và ngài chuyển dịch sang ngôn từ của ḿnh
như sau: ‘Tất cả con là của Chúa, và tất cả những ǵ
con có là của Chúa, Ôi Chúa Giêsu rất dấu yêu, nhờ
Mẹ Maria, Người Mẹ rất thánh của Chúa’ (Treatise
on True Devotion, n. 233)
Nhận định của Vị Giáo Hoàng kế nhiệm Biển Đức XVI
Trong
bài giảng cho lễ an táng Đức Gioan Phaolô II tại
Quảng Trường Thánh Phêrô, một lễ an táng tràn đầy
niềm vui hơn thương tiếc, với những tràng pháo tay
vang rền và những lời hoan hô chúc tụng một vĩ nhân
thế giới của Giáo Hội Công Giáo vừa vĩnh viễn nằm
xuống, Đức Hồng Y chủ tịch Hồng Y Đoàn Joseph
Ratzinger đă nhận định về vị mà ngài không ngờ sau
bài giảng này 13 ngày (6-19/4/2005) sẽ trở thành vị
kế nhiệm của ngài.
“Đức
Thánh Cha đă thấy được cái phản ảnh thuần khiết nhất
của t́nh thương Thiên Chúa nơi Người Mẹ Thiên Chúa.
Ngài là người đă mồ côi mẹ từ nhỏ đă càng tỏ ra kính
mến người mẹ thần linh này hơn nữa. Ngài đă nghe
thấy những lời của Chúa Kitô tử giá như là lời nói
với riêng ngài: ‘Này là Mẹ của con’. Bởi thế, ngài
thực hiện như người môn đệ yêu dấu đă làm, đó là
ngài đă đem Mẹ về nhà của ngài (eis ta idia: Jn
19:27) – ‘Totus Tuus – tất cả của con là của Mẹ’. Và
từ người mẹ này, ngài đă học nên giống Chúa Kitô”.
Trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 16/10/2005 về Ngày Kỷ Niệm Được Bầu Làm Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô II,
vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI cũng đă đề cập tới
Linh Đạo Thánh Mẫu của vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II
của ḿnh như sau:
"Chúng ta có thể diễn
tả Đức Gioan Phaolô II như là vị Giáo Hoàng hoàn
toàn hiến thân cho Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria, như khẩu
hiệu của ngài tỏ tường cho thấy: 'Totus tuus'. Ngài
đă được tuyển chọn vào giữa tháng mân côi, và chuỗi
mân côi, thường được ngài cầm trong tay, trở thành
một trong những biểu hiệu cho giáo triều của ngài,
một giáo triều được Đức Trinh Nữ trông nom săn sóc
bằng mối quan tâm từ mẫu. Qua truyền thanh và truyền
h́nh, tín hữu trên thế giới đă có thể liên kết với
ngài vào một số dịp cầu loại kinh Thánh Mẫu ấy, và
nhờ gương sáng cùng các giáo huấn của ngài, họ tái
nhận thức được ư nghĩa đích thực của kinh nguyện
này, một ư nghĩa chiêm niệm và Kitô học (xem tông
thư “Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria”, các khoản
9-17)".
Trong
Bài Giảng Thánh Lễ Đồng Tế với Tân 15 Hồng Y Thứ Bảy ngày 25/3/2006, Lễ Mẹ Thai Lời, vị
Giáo Hoàng thừa nhiệm của ngài đă nhấn mạnh đến
chiều kích Thánh Mẫu của Giáo Hội là chiều kích đă
được ngài làm nổi bật qua giáo triều dài thứ ba
trong lịch sử Giáo Hội:
"Tầm
vóc quan trọng của nguyên tố Thánh Mẫu trong Giáo
Hội, sau công đồng chung Vaticanô II, được đề cao
một cách đặc biệt bởi Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
tiền nhiệm yêu dấu của tôi, hợp với khẩu hiệu của
ngài ‘Totus tuus’.
"Trong
linh đạo của ngài, cũng như trong thừa tác vụ liên
lỉ của ngài, sự hiện diện của Mẹ Maria như là Người
Mẹ và là Nữ Vương của Giáo Hội đă trở thành hiển
nhiên trước mắt mọi người. Nhất là ngài đă quảng bá
sự hiện diện từ mẫu của Mẹ nơi vụ ám sát ngày
13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Để tưởng nhớ
biến cố bi thương này, ngài đă đặt một bức ảnh Đức
Trinh Nữ bằng vi thạch ghép trên cao Tông Dinh Giáo
Hoàng, nh́n xuống Quảng Trường Thánh Phêrô, để hỗ
trợ những giây phút chính yếu và diễn tiến hằng ngày
cho giáo triều dài lâu của ngài".
2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực
Với ư
thức về Thánh Mẫu như thế, chẳng những Đức Gioan
Phaolô II đă chọn khẩu hiệu “Totus Tuus” mà
c̣n sống động và hiện thực niềm xác tín “Totus
Tuus” này nữa, cả trước khi làm Giáo Hoàng, lẫn
trong thời gian làm Giáo Hoàng, và trong thời gian
làm Giáo Hoàng ngài đă hiện thực niềm xác tín “Totus
Tuus” của ḿnh qua những văn kiện về Thánh Mẫu (như
Thông Điệp Mẹ Đấng Cứu Chuộc, Tông Thư Kinh Mân Côi
Trinh Nữ Maria), hay qua các huấn từ về Thánh Mẫu
(như các bài Giáo Lư về Thánh Mẫu), cũng như qua
những tác động về Thánh Mẫu của ngài (như việc mở
Năm Thánh Mẫu và Năm Mân Côi, việc cầu Kinh Mân Côi
và việc tin tưởng kư thác hiến dâng v.v.)
Trước Khi Làm Giáo Hoàng
Cũng
trong cuốn “Tặng Ân và Mầu Nhiệm” trên đây,
ngài đă cho biết những ǵ xẩy ra về ḷng tôn sùng
Thánh Mẫu của ngài trước và sau khi ngài chọn sống
chân lư “Totus Tuus” này, trong thời gian
chưa làm Giáo Hoàng như sau.
Trước
khi chọn sống “Totus Tuus”, ngài cho biết là
“tôi đă học biết các việc tôn sùng theo truyền
thống đối với Người Mẹ của Thiên Chúa nơi gia đ́nh
của tôi cũng như nơi giáo xứ của tôi ở Wadowice”.
Chẳng hạn như việc học sinh như ngài sáng chiều,
trước sau mỗi ngày học, cùng nhau đến nguyện đường
Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của giáo xứ “để cầu nguyện
cùng Đức Trinh Nữ”. Ngoài ra, giáo dân ở địa
phương Wadowice cũng kéo nhau đông đảo tới đan viện
Carmelo ở trên một ngọn đồi, một sự kiện được thể
hiện qua việc phổ thông “mang áo Đức Bà Carmêlô”
nơi họ, cũng như nơi thiếu nhi tương lai làm giáo
hoàng của chúng ta, như ngài tự thú: “Tôi cũng
nhận áo này, vào lứa tuổi lên 10, và tôi vẫn c̣n
mang áo ấy”, một việc làm cũng được ngài tái xác
nhận ở đoạn 6 kết bức Thư đề ngày 25/3/2001 gửi Ḍng
Carmêlô dịp kỷ niệm 750 năm Áo Đức Bà.
Sau khi
chọn sống “Totus Tuus”, ngài đă cho biết là
kiến thức Thánh Mẫu của ngài trở nên sâu xa hơn nơi
những việc tôn sùng Mẹ Maria, nhất là về việc nguyện
Kinh Truyền Tin và chính Kinh Truyền Tin: “Tôi đă
hiểu được tại sao Giáo Hội nguyện Kinh Truyền Tin
một ngày 3 lần. Tôi đă nhận thức được tầm quan trọng
biết bao của những lời lẽ trong kinh nguyện ấy”,
cũng như về “Các Giờ Kinh Vô Nhiễm của Đức Trinh
Nữ Maria”: “Tôi đă nghe hát về Các Giờ Kinh
Vô Nhiễm của Đức Trinh Nữ Maria ở nhà thờ của
giáo xứ, nhưng chỉ sau đó tôi mới nhận ra cái nội
dung phong phú về thần học và thánh kinh của những
giờ ấy…”
Ngài
tiếp tục chia sẻ cảm nhận thành quả của cái nhận
thức Thánh Mẫu mới liên quan tới việc chọn sống “Totus
Tuus” này như sau:
“Những
kinh nghiệm này là những ǵ nền tảng trong việc h́nh
thành cuộc hành tŕnh nguyện cầu và chiêm ngưỡng dần
dần dẫn tôi tới thiên chức linh mục, rồi sau đó tiếp
tục hướng dẫn tôi qua tất cả mọi biến cố của đời
sống tôi. Ngay cả khi c̣n nhỏ, hơn thế nữa khi làm
linh mục và Giám Mục, nó khiến tôi thường xuyên thực
hiện các cuộc hành hương Thánh Mẫu đến Kalwaria
Zebrzydowska. Kalwaria là Đền Thánh Mẫu chính của
Tổng Giáo Phận Cracow. Tôi thường đến đó, một ḿnh
đi dọc theo những con đường và dâng lời nguyện lên
Chúa về những vấn đề khác nhau của Giáo Hội, nhất là
trong những lúc khốn khó ở vào thời đấu tranh chống
cộng. Khi nh́n lại, tôi mới thấy được ra sao tất cả
mọi sự có liên hệ với nhau: hôm nay cũng như hôm
qua, chúng ta đều thấy ḿnh không ít ch́m đắm
trong cùng một mầu nhiệm ấy”.
Thông Điệp Mẹ Đấng Cứu Chuộc và Năm Thánh Mẫu
Thông
Điệp “Mẹ Đấng Cứu Chuộc – Redemptoris Mater”
của ngài là bức Thông Điệp thứ 6 trong 14 văn kiện
có tầm mức giá trị giáo huấn quan trọng nhất đối với
thẩm quyền giảng dạy của một vị Giáo Hoàng, được ban
hành ngày 25/3/1987. Nội dung của bức Thông Điệp
Thánh Mẫu này, ngoài phần mở và phần kết, c̣n được
chia làm 3 phần, thứ tự như sau: Mẹ Maria trong Mầu
Nhiệm Chúa Kitô, Người Mẹ Thiên Chúa ở Tâm Điểm của
Giáo Hội Lữ Hành, và Vai Tṛ Môi Giới Từ Mẫu. Riêng
trong phần thứ ba, chương cuối cùng trong 3 chương
của phần này, ngài giành để nói tới việc ngài mở Năm
Thánh Mẫu, từ ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
ngày 7/6/1987 đến ngày Lễ Mẹ Mông Triệu 15/8/1988.
Sau đây là mấy đoạn tiêu biểu có thể tổng tóm đại
quan nội dung của bức Thông Điệp Thánh Mẫu “Mẹ
Đấng Cứu Chuộc” này của ngài.
“Người
Mẹ của Đấng Cứu Chuộc chiếm một vị thế
đặc biệt nơi dự án cứu độ, v́ ‘khi tới thời
gian viên trọn th́ Thiên Chúa đă sai Con ḿnh, hạ
sinh bởi người nữ, hạ sinh theo lề luật, để cứu
chuộc những ai lệ thuộc lề luật, nhờ đó chúng ta
được ơn làm nghĩa tử. Và v́ anh chị em là con mà
Thiên Chúa đă sai Thần Linh Con Ngài đến với tâm can
của chúng ta, để vang lên ‘Abba! Lạy Cha’ (Gal
4:4-6).
“Bằng
những lời ấy của Thánh Phaolô, những lời được Công
Đồng Chung Vaticanô II sử dụng để bắt đầu việc bàn
đến Đức Trinh Nữ Maria (xem Hiến Chế Ánh Sáng Muôn
Dân, đoạn 52, và toàn chương 8), tôi cũng muốn bắt
đầu việc chia sẻ của tôi về vai tṛ của Mẹ
Maria trong mầu nhiệm của Chúa Kitô cũng như về sự
hiện diện chủ động và gương mẫu của Mẹ trong đời
sống của Giáo Hội. V́ chúng là những lời tôn
tụng chung cả t́nh yêu của Chúa Cha, sứ vụ của Chúa
Con và tặng ân của Thần Linh, vai tṛ của người nữ
sinh ra Đấng Cứu Chuộc, và thiên chức làm con cái
thần linh của riêng chúng ta, trong mầu nhiệm ‘thời
gian viên trọn’ (thời điểm theo Galata 4:4 và nội
dung của toàn đoạn Thánh Kinh Tân Ước này th́ việc
Con Thiên Chúa đến trần gian cho thấy rằng thời gian
đă đạt tới giới hạn của nó theo lời Chúa hứa ban
Đấng Thiên Sai)” (khoản số 1).
“Giờ
đây, theo đường hướng của Công Đồng Chung Vaticanô
II, tôi muốn nhấn mạnh đến sự hiện diện đặc biệt của
Người Mẹ Thiên Chúa trong mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu
nhiệm Giáo Hội của Người. V́ đây là một chiều kích
cốt yếu xuất phát từ Khoa Thánh Mẫu Học của Công
Đồng này…
“Trong ư nghĩa ấy, Năm Thánh
Mẫu là năm phát động việc đọc lại một cách kỹ lưỡng
hơn những ǵ Công Đồng đă nói về Đức Trinh Nữ Maria,
Mẹ Thiên Chúa, trong mầu nhiệm Chúa Kitô và mầu
nhiệm Giáo Hội của Người, một đề tài là tất cả những
ǵ được bức Thông Điệp này bàn tới. Ở
đây chúng ta chẳng những nói về vấn đề tín lư của
đức tin mà c̣n về sự sống của đức tin nữa, tức về
‘linh đạo Thánh Mẫu’ chân thực, theo chiều hướng của
Thánh Truyền, và nhất là thứ linh đạo Công Đồng huấn
dụ chúng ta sống (x Hiến Chế Ánh Sáng Muôn
Dân, 66-67). Ngoài ra, linh đạo Thánh Mẫu, như việc
tôn sùng tương xứng của nó, c̣n có được một nguồn
mạch rất dồi dào phong phú từ kinh nghiệm lịch sử
của những cá nhân cũng như của những cộng đồng Kitô
hữu khác nhau ở các dân tộc và các quốc gia khác
nhau trên thế giới. Về khía cạnh này, tôi xin nhắc
đến, trong số những chứng nhân và các bậc thày về
linh đạo, h́nh ảnh Thánh Louis Marie Grignion de
Montfort (xem cuốn “Luận về Ḷng Thành Thực Sùng
Kính Mẹ Maria - Traite de la varie devotion a la
sainte Vierge”. Thánh Montfort có lẽ liên hệ với
Thánh Anphongsô, tác giả cuốn “Le glorie di Maria
- Vinh Quang Mẹ Maria”), vị đă đề ra việc tận
hiến cho Chúa Kitô nhờ tay Mẹ Maria, như là một
phương tiện cho Kitô hữu sống trung thành với những
lời hứa quyết rửa tội của họ. Tôi hân hoan nhận thấy
rằng trong cả thời đại của chúng ta đây cũng không
thiếu những dấu hiệu mới của thứ linh đạo và ḷng
tôn sùng này”. (khoản số 48)
“Nhân
loại đă thực hiện những khám phá kỳ diệu và đă chiếm
được những thành quả phi thường nơi các lănh vực
khoa học và kỹ thuật. Nó đă đạt được những thăng
tiến lớn lao trên con đường tiến bộ và văn minh, để
rồi, trong thời gian gần đây, người ta có thể nói
rằng nó đă thành công trong việc gia tốc nhịp độ của
lịch sử. Thế nhưng, việc biến đổi cốt yếu,
việc biến đổi có thể được gọi là ‘chính cống’, là
những ǵ hằng liên lỉ theo sát cuộc hành tŕnh của
con người, và qua tất cả mọi biến cố của lịch sử,
đồng hành với mỗi người và mọi người. Nó là cuộc
biến đổi từ ‘gục ngă’ đến ‘chỗi dạy’, từ chết đến
sống. Nó cũng là một thách đố liên lỉ đối
với lương tâm của con người, một thách đố cho việc
nhận thức về tất cả lịch sử của con người, đó là một
thách đố trong việc đi theo con đường ‘không gục
ngă’, bằng những cách thức vốn cũ mà hằng mới, cũng
như đi theo con đường ‘lại chỗi dạy’ nếu bị ngă gục.
“… Giáo
Hội thấy Người Mẹ Diễm Phúc của Thiên Chúa nơi mầu
nhiệm cứu độ của Chúa Kitô cũng như nơi chính mầu
nhiệm của Mẹ. Giáo Hội thấy Mẹ Maria gắn bó sâu xa
với lịch sử của nhân loại, với ơn gọi vĩnh hằng của
con người theo dự án quan pḥng Thiên Chúa giành cho
họ từ đời đời. Giáo Hội thấy Mẹ Maria,
một cách từ mẫu, hiện diện nơi và chia sẻ vào nhiều
vấn đề phức tạp ngày nay là những ǵ đang bủa vây
đời sống của cá nhân, gia đ́nh và quốc gia; Giáo Hội
thấy Mẹ hỗ trợ dân Kitô Giáo trong cuộc tranh đấu
liên lỉ giữa thiện và ác, để bảo đảm là dân này
‘không gục ngă’, hay nếu có ngă gục th́ ‘lại chỗi
dạy’”. (khoản 52).
Huấn Từ Về Thánh Mẫu
Đối với
huấn từ về Thánh Mẫu của Đức Gioan Phaolô II phải kể
đến loạt bài Giáo Lư Thánh Mẫu của ngài cho các buổi
triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần. Loạt bài Giáo Lư
Thánh Mẫu này gồm có 70 bài trong thời khoảng 1 năm
rưỡi, từ ngày 6/9/1995 đến 12/11/1997, sau đó là
loạt bài Giáo Lư về từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên
Chúa, Chúa Kitô năm 1997, Chúa Thánh Thần năm 1998
và Chúa Cha năm 1999. Loạt bài về mỗi Ngôi này đều
được kết thúc bằng một bài Giáo Lư về Thánh Mẫu,
theo chiều hướng ngài bao giờ cũng kết lời về Thánh
Mẫu ở tất cả mọi văn thư hay bài huấn dụ thuộc nội
bộ Giáo Hội của ngài.
V́ ḷng
tôn sùng Thánh Mẫu chân chính chẳng những có tính
cách Kitô học mà c̣n liên hệ cả với Chúa Ba Ngôi
nữa, như ngài đă nhờ Thánh Long Mộng Phố cảm nhận
được trong thời gian có ơn gọi làm linh mục, một cảm
nhận ngài đă chia sẻ trong cuốn “Tặng Ân và Mầu
Nhiệm” (đă được trích dẫn trên đây): “Tư
tưởng về khoa Thánh Mẫu Học của Thánh Long Mộng Phố
được bắt nguồn từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cũng
như mầu nhiệm Nhập Thể của Lời Thiên Chúa”, và
ngài cũng đă lập lại cảm nhận này ở đầu bức Thông
Điệp “Mẹ Đấng Cứu Chuộc”, ngay sau khi ngài
trích dẫn lời Thánh Phaolô: “Khi tới thời gian viên
trọn th́ Thiên Chúa đă sai Con ḿnh, hạ sinh bởi
người nữ, hạ sinh theo lề luật, để cứu chuộc những
ai lệ thuộc lề luật, nhờ đó chúng ta được ơn làm
nghĩa tử. Và v́ anh chị em là con mà Thiên Chúa đă
sai Thần Linh Con Ngài đến với tâm can của chúng ta,
vang lên ‘Abba! Lạy Cha’ (Gal 4:4-6)”, như sau:
“những lời này tôn tụng chung cả t́nh yêu của Chúa
Cha, sứ vụ của Chúa Con và
tặng ân của Thần Linh…”. Sau đây là ba
đoạn được trích trong 3 bài Giáo Lư về Thánh Mẫu
được ngài chia sẻ để kết thúc từng loạt bài Giáo Lư
dọn mừng Đại Năm Thánh 2000 về từng Ngôi trong Ba
Ngôi Thiên Chúa:
Thánh Mẫu với Chúa Cha:
“Nơi
Mẹ, ‘Nữ Tử dấu ái của Chúa Cha’ (Hiến Chế Ánh
Sáng Muôn Dân, đoạn 53), dự án thần linh yêu
thương nhân loại được tở hiện. V́ nhắm tuyển lựa Mẹ
làm mẹ cho Con của ḿnh, Chúa Cha đă chọn Mẹ giữa
tất cả mọi tạo vật và đă nâng Mẹ lên tới một phẩm vị
cao cả nhất, cũng như lên tới một sứ vụ trọng đại
nhất trong việc phục vụ dân của Ngài.
“Dự án
của Chúa Cha bắt đầu được mạc khải qua
‘Protoevangelium’ (phúc âm tiên khởi), khi mà, sau
lúc Adong và Evà sa ngă phạm tội, Thiên Chúa loan
báo cho biết rằng Ngài sẽ gây mối thù giữa con rắn
và người nữ: chính người con trai của người nữ sẽ
đạp nát đầu con rắn (x.Gen 3:15).
“Lời hứa này đă được
nên trọn trước hết ở biến cố Truyền Tin, khi Mẹ
Maria được mời gọi trở nên một Người Mẹ của Đấng Cứu
Thế”. (Bài 79, ngày 5/1/2000, đoạn 1)
Thánh Mẫu với Chúa Con:
“Trong
thảm kịch Canvê, đức tin của Mẹ Maria cũng không hề
xao xuyến. Đối với đức tin của các môn đệ th́ thảm
cảnh này thật là quá sức. Chỉ nhờ có tác dụng của
lời Chúa Giêsu cầu nguyện mà Phêrô, cùng với các
tông đồ khác cũng bị thử thách, đă có thể tiếp tục
theo con đường đức tin để trở nên các chứng nhân cho
việc Chúa Phục Sinh.
“Khi viết rằng Mẹ
Maria đứng dưới chân Thập Giá, Thánh kư Gioan
(x.19:25) cho chúng ta thấy rằng Mẹ Maria vẫn đầy
can đảm trong giây phút khẩn trương nhất. Giây phút
khẩn trương này thực là giai đoạn khó vượt nhất
trong ‘cuộc hành tŕnh đức tin’ của Mẹ (x.Hiến
Chế Lumen Gentium, đoạn 58). Thế nhưng, v́ Mẹ
vẫn vững mạnh đức tin nên Me đăï có thể đứng đó. Bị
thử thách, Mẹ Maria vẫn tiếp tục tin rằng Chúa Giêsu
là Con Thiên Chúa, và tin rằng, bằng hy hiến của
Người, Người sẽ biến đổi định mệnh con người”. (ngày 6-5-98, bài 15, đoạn
5)
Thánh Mẫu với Thánh Thần:
“Từ
Thập Giá, Đấng Cứu Thế muốn đổ xuống trên nhân loại
những gịng sông chảy nước sự sống (x.Jn.7:38), tức
là đổ xuống dồi dào Thánh Linh. Thế nhưng, Người
muốn việc trào đổ ân sủng này phải được gắn liền với
dung nhan của một người mẹ, Mẹ của Người. Vậy
Mẹ Maria đă hiện lên như một tân Evà, một người mẹ
sinh linh, hay Nữ Tử Sion, người mẹ của tất cả mọi
dân nước. Tặng ân mẫu thân phổ quát này được bao gồm
trong sứ vụ cứu chuộc của Đấng Thiên Sai: ‘Sau đó,
biết rằng tất cả đă hoàn tất, Chúa Giêsu…’, Thánh Kư
viết lời này ngay sau hai câu: ‘Này bà, người con
của bà đó!’ và ‘Đó là người mẹ của con!’
(Jn.19:26-28).
“Nơi khung cảnh này,
chúng ta mới có thể hiểu được sự ḥa điệu của ư định
Thiên Chúa liên quan đến vai tṛ của Mẹ Maria trong
tác động cứu độ của Chúa Thánh Thần. Nơi mầu nhiệm
Nhập Thể, Mẹ đă đóng một vai tṛ trọng yếu trong
việc Mẹ cộng tác với Thần Linh; nơi mầu nhiệm hạ
sinh và tăng trưởng con cái Thiên Chúa, việc trợ
giúp từ mẫu của Mẹ Maria cũng gắn liền với tác động
của Chúa Thánh Thần”. (ngày 9/12/98, bài 43 đoạn
3).
Năm Mân Côi và Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria
Tông
Thư “Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria” làvăn kiện
mở màn cho Năm Mân Côi (16/10/2002-19/10/2003) và về
Kinh Mân Côi của vị Giáo Hoàng được qua đời vào
chính đêm Thứ Bảy Đầu Tháng (2/4/2005), cuối Tuần
Bát Nhật Phục Sinh. Nội dung của Tông Thư Kinh Mân
Côi ra sao? Và tại sao ngài lại mở Năm Mân Côi vào
thời điểm này, mà không vào thời điểm khác? Theo
ngài, là v́ “Totus Tuus”, là v́ ngài đă dâng
phú cho Mẹ cả bản thân ngài lẫn giáo triều của ngài,
một giáo triều đă trọn 24 năm và tiến vào năm thứ
25. Ngài đă bày tỏ như thế trong buổi triều kiến
chung Thứ Tư hằng tuần vào chính ngày 16/10/2002,
ngày kỷ niệm đúng 24 năm biến cố ngài được bầu làm
giáo hoàng. Sau đây là nguyên văn những ǵ ngài đă
nói liên quan cả về nội dung Tông Thư Kinh Mân Côi
lẫn ư nghĩa việc ngài mở Năm Mân Côi:
1.-
Trong cuộc trở về Balan của Tôi mới đây, Tôi đă dâng
lên Đức Mẹ những lời sau đây: ‘Hỡi Mẹ Rất Thánh,
[,,,] xin Mẹ cũng hăy ban cho con sức mạnh về cả thể
xác lẫn tinh thần, để con có thể chu toàn đến cùng
sứ mệnh Đấng Phục Sinh đă ủy nhiệm cho con. Con
dâng lên Mẹ tất cả mọi hoa trái của cuộc đời con
cũng như của thừa tác vụ con làm, con kư thác cho Mẹ
tương lai của Giáo Hội; […] con tin
tưởng nơi Mẹ và con xin thưa cùng Mẹ một lần nữa là:
‘Totus tuus, Maria! Totus tuus!’, ‘Ôi
Maria, tất cả của con là của Mẹ! Tất cả của con là
của Mẹ!’ Amen”. (Kalwaria Zebrzydowska, Aug.
19, 2002). Hôm nay, Tôi lập lại cũng những lời
này để cảm tạ Thiên Chúa về 24 năm Tôi phục vụ Giáo
Hội nơi Ṭa Thánh Phêrô. Vào ngày đặc biệt này, một
lần nữa, Tôi xin trao phó vào bàn tay Mẹ Thiên Chúa
sự sống của Giáo Hội cùng với sự sống của nhân loại
đang bị thử thách đau thương. Tôi cũng xin kư thác
tương lai của Tôi cho Mẹ. Tôi đặt tất cả nơi tay Mẹ,
để Mẹ lấy t́nh yêu từ mẫu của Mẹ mà hiến dâng mọi sự
cho Con Mẹ, “hầu chúc tụng vinh quang của Người” (Eph
1:12).
2.- Chúa
Kitô, Đấng Cứu Chuộc của con người, là tâm điểm của
đức tin chúng ta. Mẹ Maria không làm
cho Người bị lu mờ đi, cũng không làm lu mờ đi công
cuộc cứu độ của Người. Được mông triệu về
trời cả hồn lẫn xác, Đức Trinh Nữ, người đầu tiên
được hoan hưởng các hoa trái tử nạn và phục sinh của
Con ḿnh, Mẹ là Vị dẫn chúng ta đi con đường
chắc chắn nhất đến với Chúa Kitô, đích điểm tối hậu
của tác hành cũng như của tất cả đời sống chúng ta.
Bởi thế, khi ngỏ lời cùng toàn thể Giáo Hội trong
tông thư “Vào Lúc Mở Màn Cho Một Ngàn Năm Mới -
Novo Millennio Ineunte”, Tôi đă thêm vào lời
Chúa Kitô kêu gọi “hăy thả lưới ở chỗ nước sâu” là
“trong cuộc hành tŕnh này, chúng ta được Đức Trinh
Nữ Maria hỗ trợ, Đấng […] đă được Tôi kư thác ngàn
năm thứ ba trước sự hiện diện của một số đông các vị
giám mục […]” (số 58). Và, trong việc mời gọi các
tín hữu hăy không ngừng chiêm ngưỡng dung nhan của
Chúa Kitô, Tôi đă hết ḷng mong muốn trong việc
chiêm ngưỡng ấy, Maria, Mẹ của Người, phải là vị tôn
sư chỉ dạy cho tất cả mọi người.
3.- Hôm nay, Tôi muốn thể hiện ḷng ước muốn này
một cách rơ ràng hơn nữa, bằng hai cử chỉ tiêu biểu.
Trong ít phút nữa đây, Tôi sẽ kư bức tông thư “Kinh
Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria - Rosarium Virginis
Mariae”. Chưa hết, cùng với việc ban hành văn thư
nói về kinh nguyện mân côi này, Tôi cũng công bố một
năm kéo dài từ Tháng Mười 2002 tới Tháng Mười 2003,
đó là “Năm Mân Côi”. Tôi làm như vậy, chẳng những v́
đây là năm thứ 25 giáo triều của Tôi, mà c̣n v́ là
dịp kỷ niệm 120 năm thông điệp “Supremi Apostolatus
Officio” được Vị Tiền Nhiệm của Tôi là Đức Lêô XIII
ban hành vào ngày 1/9/1883 để mở màn cho một loạt
các văn kiện đặc biệt khác của Ngài về kinh mân côi.
Ngoài ra, c̣n có một lư do nữa, đó là trong
lịch sử của Các Cuộc Đại Hỷ Kỷ Niệm c̣n có một
truyền thống tốt lành, ở chỗ, sau Năm Thánh dâng
kính Chúa Kitô và tôn kính công cuộc Cứu Chuộc của
Người c̣n có một năm dâng kính cho Mẹ Maria nữa, như
thể muốn kêu cầu với Mẹ để Mẹ giúp cho các ân sủng
đă nhận lănh từ Năm Thánh được sinh hoa kết trái.
4.- Có lẽ không c̣n phương tiện nào tốt hơn
kinh nguyện mân côi đối với nỗ lực cần thiết nhưng
hết sức sâu xa trong việc cùng với Mẹ Maria chiêm
ngưỡng dung nhan Chúa Kitô? Tuy nhiên, để
làm điều này, chúng ta cần phải tái nhận thức cái
thâm sâu của mầu nhiệm được chất chứa nơi tính cách
giản dị của kinh nguyện rất được truyền thống phổ
thông yêu chuộng này. Thật vậy, theo kết cấu của
ḿnh, kinh nguyện Thánh Mẫu trước hết là việc suy
niệm về các mầu nhiệm thuộc đời sống và hoạt động
của Chúa Kitô. Bằng việc lập đi lập lại tiếng kêu
cầu “Kính mừng Maria”, chúng ta sâu xa suy nghĩ về
những biến cố chính yếu của sứ vụ Con Thiên Chúa
thực hiện trên thế gian, những biến cố được Phúc Âm
và Truyền Thống lưu truyền cho chúng ta. Để
bản tổng hợp Phúc Âm này được trọn vẹn hơn, cũng như
để thêm khởi sắc, trong tông thư Kinh Mân Côi của
Đức Trinh Nữ Maria “Rosarium Virginis Mariae”, Tôi
đă đề ra năm mầu nhiệm khác nữa, thêm vào những mầu
nhiệm vốn được suy niệm trong kinh mân côi, và Tôi
đă gọi 5 mầu nhiệm mới này là “những mầu nhiệm ánh
sáng”. Những mầu nhiệm ánh sáng ấy bao gồm
đời sống công khai của Đấng Cứu Thế, từ biến cố phép
rửa ở sông Dược Đăng cho đến khi bắt đầu cuộc Khổ
Nạn. Mục đích của việc đề ra này là để mở rộng chân
trời kinh mân côi, nhờ đó, ai lần hạt mân côi
với ḷng sùng mộ chứ không phải một cách máy móc mới
có thể càng đi sâu hơn nữa vào nội dung của Tin Mừng
và càng kết hợp hơn nữa cuộc sống của ḿnh với cuộc
sống của Chúa Kitô.
Việc
ngài mở Năm Mân Côi ngay giữa Đại Năm Thánh
(25/12/1999-6/1/2001) mừng Mầu Nhiệm “Đấng Cứu
Chuộc Nhân Trần” Nhập Thể và Năm Thánh Thể
(17/10/2004-23/10/2005) về Mầu Nhiệm “Đấng Cứu
Chuộc Nhân Trần” Sự Sống, phải chăng theo chiều
hướng, như ngài đă đề cập tới trong cuốn “Vượt
Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, như được trích dẫn trên
đây: “Mẹ Maria là vị dẫn chúng ta đến với Chúa
Kitô, thế nhưng, vào lúc ấy, tôi cũng bắt đầu
nhận thấy rằng Chúa Kitô dẫn chúng ta tới với Mẹ
của Người nữa”. Đại Năm Thánh 2000 trước Năm Mân
Côi, chẳng những đúng như Đức Thánh Cha nói trên
đây, là theo thông lệ theo sau Năm Thánh về Chúa, mà
c̣n như thể “Chúa Kitô dẫn chúng ta tới với Mẹ
của Người”, và Năm Mân Côi trước Năm Thánh Thể
như thể “Mẹ Maria là vị dẫn chúng ta đến với Chúa
Kitô”.
Việc Cầu Kinh Mân Côi
Nếu nội
dung và chủ đích của Tông Thư “Mở Màn cho Một Tân
Thiên Kỷ” được ngài ban hành vào ngày bế mạc Đại
Năm Thánh 2000, 6/1/2001, là để kêu gọi Giáo Hội
trong ngàn năm thứ ba Kitô Giáo “Duc in altum –
Ra chỗ nước sâu thả lưới đánh cá”, mà chỗ nước
sâu đây là ǵ nếu không phải là việc sâu xa sống đức
tin, và c̣n ai có một đức tin sâu xa như Mẹ, một đức
tin đầy ơn phúc (x Lk 1:45; 11:28). Việc sống đức
tin sâu xa đây được thể hiện như thế nào, nếu không
phải, theo chiều hướng của cùng bức Tông Thư này
(phần 2), đó là việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa
Kitô, mà việc chiêm ngưỡng Chúa Kitô này không thể
nào trọn vẹn nếu không với Mẹ Maria, nếu không bằng
đức tin đồng công của Mẹ, tuyệt đối tin vào Thiên
Chúa, liên lỉ tin vào các mầu nhiệm của Người Con
Thiên Chúa Nhập Thể và Vượt Qua, những mầu nhiệm là
hồn sống của Kinh Mân Côi. Cầu Kinh Mân Côi là cùng
Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, như ngài
đă đề cập tới chi tiết này ở ngay đầu đoạn 4 của
huấn từ cho buổi triều kiến chung trên đây, hay
trong chính Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, ở
đoạn 3.
Thế
nhưng, dầu sao Kinh Mân Côi, đúng hơn Mầu Nhiệm Mân
Côi cũng chỉ là những ǵ nhắc nhở lại những biến cố
lịch sử thuộc về quá khứ mà thôi, chứ không phải là
những ǵ hiện thực và sống động, như Hiến Tế Thánh
Thể của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” được Giáo
Hội cử hành nơi Phụng Vụ. Phải chăng đó là lư do Năm
Mân Côi phải được mỡ ra trước Năm Thánh Thể, để “Mẹ
Đấng Cứu Chuộc” giúp chung Giáo Hội và riêng
Kitô hữu chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô từ các Mầu
Nhiệm Mân Côi đến chính Mầu Nhiệm Thánh Thể. Đức
Gioan Phaolô II đă xác nhận tính cách dạo khúc của
Kinh Mân Côi đối với việc cử hành Phụng Vụ Thánh Thể
ở đoạn 4.
Nói đến
Biến Cố Fatima là nói đến danh hiệu “Ta là Đức Mẹ
Mân Côi” của Mẹ Maria, như Mẹ tự nhận ḿnh vào
lần hiện ra cuối cùng với 3 Thiếu Nhi Fatima ngày
13/10/1917, và như Mẹ lần nào hiện ra, trong cả 6
lần, đều kêu gọi “hăy cầu kinh Mân Côi hằng ngày”.
Không ai có thể chối căi là bản thân Đức Gioan
Phaolô II đă thực hiện việc “cầu Kinh Mân Côi
hằng ngày” này. Ngài chẳng những làm riêng, mà
c̣n, những khi có thể, phát động làm chung nữa, điển
h́nh nhất là ngày 14/8/1983, lần ngài viếng thăm
Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức lần đầu tiên. Sau đó, ngài
c̣n tiếp tục thực hiện ít là những lần công khai
được ghi nhận sau đây: ngày 7/10/1995 ở Vương Cung
Thánh Đường Saint Patrick, Nữu Ước Hoa Kỳ, ngày
4/5/1996 ở Vương Cung Thánh Đường Mẹ Mông Triệu của
Giáo Phận Como Ư quốc, ngày 5/10/1996 và 3/5/1997 ở
Đền Thờ Thánh Phaolô Rôma, ngày 7/6/1997 ở Đền Thánh
Đức Mẹ Ludzmierz Balan, ngày 5/7/1997 và 6/6/1998 ở
Khuôn Viên Thánh Damascô Vatican, ngày 2/8/1997 và
6/9/1997 ở khuôn viên tông dinh nghỉ mát Castel
Gandolfo. Lần cuối cùng ngài cầu Kinh Mân Côi chung
với cộng đồng Dân Chúa là ngày 14/8/2004, lần ngài
viếng thăm Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức lần thứ hai
cũng là lần sau hết, trong lần này, ngài đă ngỏ lời
huấn dụ cùng đoàn tín hữu Hành Hương Thánh Mẫu để
kết thúc cuộc Cung Nghinh Thánh Mẫu Cầu Kinh Mân Côi
như sau, những lời lẽ như nhắc nhở con cái ḿnh hăy
tôn kính Mẹ Maria hiển vinh và nhờ Mẹ đến với Chúa
Kitô Phục Sinh:
“Năm nay, vị Giáo Hoàng đây cũng tham
gia với anh chị em nơi hành động tôn sùng và mến yêu
đối với Đức Nữ Trinh Rất Thánh này, người nữ hiển
vinh của Sách Khải Huyền, được đội triều thiên 12
ngôi sao (x Rev 12:1). Cầm trong tay cây đuốc sáng,
chúng ta nhớ lại và tuyên xưng niềm tin của chúng ta
vào Chúa Kitô Phục Sinh. Nơi Người toàn thể đời sống
của chúng ta được chiếu soi và hy vọng”.
Trong
Huấn Từ Truyền Tin cho Chúa Nhật XXIX Thường Niên
ngày 16/10/2005, dịp kỷ niệm đúng 27 năm vị hồng y
người Balan được bầu làm giáo hoàng 27 năm trước đó,
vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI đă nhận định về vị
tiền nhiệm rất đáng kính mến của ngài đối với ḷng
biệt tôn Thánh Mẫu liên quan tới khẩu hiệu “Totus
Tuus” và Kinh Mân Côi như sau:
“Chúng
ta có thể diễn tả Đức Gioan Phaolô II như là
vị Giáo Hoàng hoàn toàn hiến thân cho Chúa Giêsu nhờ
Mẹ Maria, như khẩu hiệu của ngài tỏ
tường cho thấy: ‘Totus tuus’. Ngài đă được
tuyển chọn vào giữa tháng mân côi, và chuỗi
mân côi, thường được ngài cầm trong tay, trở thành
một trong những biểu hiệu cho giáo triều của ngài,
một giáo triều được Đức Trinh Nữ trông nom săn sóc
bằng mối quan tâm từ mẫu. Qua truyền
thanh và truyền h́nh, tín hữu trên thế giới đă có
thể liên kết với ngài vào một số dịp cầu loại kinh
Thánh Mẫu ấy, và nhờ gương sáng cùng các
giáo huấn của ngài, họ tái nhận thức được ư nghĩa
đích thực của kinh nguyện này, một ư nghĩa chiêm
niệm và Kitô học (xem tông thư “Kinh Mân Côi Trinh
Nữ Maria”, các khoản 9-17)”.
Hành Hương Thánh Mẫu
Để mở
màn cho giáo triều của ḿnh, việc đầu tiên, ngay một
tuần sau Lễ Đăng Quang của ḿnh, vị Giáo Hoàng Totus
Tuus này đă thực hiện, đó là đến kính viếng Đền
Thánh Mẫu Đức Trinh Nữ Maria ở Mentorella Rôma ngoài
thành Vatican ngày 29/10/1978, cũng ngay trong Tháng
10, tháng Thánh Mẫu cũng là Tháng Giáo Hoàng của
ngài (như vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI đă đề cập
tới chi tiết này trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật
16/10/2005), để rồi, không hẹn mà ḥ, ngài cũng đă
chấm dứt 104 chuyến tông du mục vụ của ḿnh ngoài
nước Ư ở Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức ngày 15/8/2004,
nhân dịp kỷ niệm 150 năm Tín Điều Vô Nhiễm Nguyên
Tội của Mẹ. Lần đầu tiên ngài đến Linh Địa Thánh Mẫu
Lộ Đức này là thời khoảng 14-15/8/1983, trong Năm
Thánh Cứu Chuộc (25/3/1983-22/4/1984), v́ đối với
ngài, “Mẹ Đấng Cứu Chuộc – Redemptoris Mater”
là vị bất khả phân ly với chính “Đấng Cứu Chuộc
Nhân Trần – Redemptor Hominis”.
Nói đến
việc kín
...