“Sự thật về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc
và Đấng Cứu Chuộc” nơi Đức Gioan Phaolô II
Có thể nói mà không sợ sai lầm
rằng, căn cứ vào những chủ hướng minh nhiên và hoạt động
hiển nhiên trong một thời gian dài 26 năm rưỡi của ḿnh,
một thời gian kéo dài đứng vào hàng thứ 3 của lịch sử
Giáo Hội Công Giáo, th́ cốt lơi của giáo triều Đức Gioan
Phaolô II chính là Mầu Nhiệm Cứu Chuộc.
Phải chăng chính Đức Gioan Phaolô
II đă chính thức xác nhận điều này khi ngài tự thú trong
tác phẩm “Tặng Ân và Mầu Nhiệm – Gift and
Mystery” (ấn bản Anh Ngữ 1996), một tác phẩm được
xuất bản để mừng kỷ niệm 50 năm thụ phong linh mục của
ngài, (ở trang 82) như sau:
“Chúa Kitô là một vị linh mục
v́ Người là Đấng Cứu Chuộc của thế giới. Chức linh
mục của tất cả thành phần giáo sĩ thuộc về mầu nhiệm Cứu
Chuộc. Sự thật này về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc và Đấng
Cứu Chuộc đă từng là những ǵ trọng yếu đối với tôi; sự
thật ấy đă luôn tồn tại trong tôi qua tất cả những năm
tháng ấy, nó đă thấm nhập vào tất cả mọi kinh nghiệm mục
vụ của tôi, và nó đă tiếp tục cho tôi thấy những điều
phong phú mới mẻ.
“Trong 50 năm làm linh mục này,
tôi đă nhận thức được rằng, Việc Cứu Chuộc, cái giá phải
trả cho tội lỗi, bao gồm cả một thứ phục hồi mới, một
loại ‘tân tạo’ nơi toàn thể lănh vực tạo sinh, ở
chỗ, nó là những ǵ tái phục hồi con người là một ngôi
vị, phục hồi con người được Thiên Chúa dựng nên có nam
có nữ, một phục hồi của chân lư sâu xa nhất về tất cả
mọi hoạt động của con người, về văn hóa và văn minh của
con người, về tất cả những ǵ họ chiếm đạt cùng với các
khả năng sáng tạo của họ.
“Sau khi tôi được bầu làm Giáo
Hoàng, cái động lực thiêng liêng đầu tiên tôi cảm thấy
đó là hướng về Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc. Đó là nguồn gốc
của bức Thông Điệp ‘Redemptor Hominis – Đấng Cứu
Chuộc Nhân Trần’”. Như tôi đă chia sẻ về tất cả
những biến cố này, tôi thấy rơ hơn bao giờ hết cái liên
hệ chặt chẽ giữa sứ điệp của bức Thông Điệp này với hết
mọi sự ở trong tâm can của con người qua việc họ được
thông dự vào chức linh mục của Chúa Kitô”.
Thật vậy, nếu Mầu Nhiệm Cứu Chuộc
là những ǵ trực tiếp liên quan đến Tác Nhân Cứu Chuộc
là chính Đấng Cứu Chuộc, đến đối tượng được cứu chuộc
cho khỏi tội lỗi và sự dữ nhất là trong thời điểm văn
hóa sự chết ngày nay là con người hiện đại, và đến đường
lối cứu chuộc hiện đại là Người Mẹ của Đấng Cứu Chuộc,
th́ quả nhiên “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi của
Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II”.
Đúng thế, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần
chính là Đấng đă chi phối cả giáo triều của Đức Gioan
Phaolô II, từ đầu cho đến cuối, cả về lănh vực hoạt động
lẫn tâm tưởng của ngài.
1) Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần chi phối Hoạt Động
cả giáo triều của Đức Gioan Phaolô II
Trước hết, để mở màn, cho giáo
triều của ḿnh, Đức Gioan Phaolô II đă chính thức ban
hành bức thông điệp gói ghém tất cả chủ hướng của giáo
triều ḿnh vào ngày Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay
4/3/1979, với tựa đề “Redemptor Hominis - Đấng Cứu
Chuộc Nhân Trần”.
Sau hết, để kết thúc cho giáo
triều của ḿnh, ngài đă mở Năm Thánh Thể, năm hướng về,
nhận biết và cử hành Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần,
Đấng vẫn c̣n hiện diện trên trần gian qua Bí Tích Thánh
Thể và vẫn tiếp tục công cuộc cứu chuộc nhân trần qua
Phụng Vụ Thánh Thể.
Trong giáo triều của ḿnh, Đức
Gioan Phaolô II c̣n mở Năm Cứu Chuộc 1983-1984, mừng
1950 năm Ơn Cứu Chuộc, một năm được kết thúc vào ngày Lễ
Mẹ Thai Lời 25/3/1984, với việc Ngài hiến dâng chung thế
giới và riêng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội
Mẹ Đấng Cứu Chuộc.
Nhưng biến cố quan trọng nhất đó
là ngài đă mở Đại Năm Thánh 2000 để toàn thể Giáo Hội
hoàn vũ long trọng mừng Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Lời
Nhập Thể là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, một Đại Năm
Thánh đă được ngài hướng về ngay từ đầu giáo triều của
ngài, như chính ngài đă đề cập tới ở đoạn đầu bức Thông
Điệp “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” của ngài, một
thời điểm kéo dài cả 21 năm nữa trời (1979-2000), không
biết ngài có c̣n sống tới đó hay chăng.
Để sửa soạn cho Đại Năm Thánh 2000
được tổ chức một cách trọng thể vô tiền (có thể nói cả
khoáng hậu) này, ngài đă chẳng những ban hành vào ngày
10/11/1994 bức Tông Thư “Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba –
Tertio Millennio Adveniente” để phác họa chương
tŕnh sửa soạn xa (1994-1996) và gần (1997-1999), mà c̣n
triệu tập các cuộc Thượng Nghị Châu Lục về những chủ đề
liên quan đến Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần:
Thượng Nghị Giám Mục Phi Châu, với
242 vị nghị phu, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảngï
10/4-8/5/1994, về chủ đề "Giáo Hội ở Phi Châu với sứ
mệnh truyền bá Phúc Âm hướng về năm 2000: 'Các con sẽ là
nhân chứng của Thày'", một chủ đề đă được
ngài đúc kết trong tông huấn “Ecclesia in Africa – Giáo
Hội ở Phi Châu” ban hành ngày 14-9-1995, tại Yaoundé nước Cameroon;
Thượng Nghị Giám Mục Mỹ Châu, với
233 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng
16/11-12/12/1997, với chủ đề "Gặp gỡ Chúa Giêsu
Kitô hằng sống: Con đường dẫn đến Hối Cải, Hiệp
Thông và Đoàn Kết", một chủ đề đă được ngài đúc kết
trong tông huấn “Giáo Hội ở Mỹ Châu - Ecclesia in
America” ban hành dịp ngài thăm Mỹ Châu, tại Mexicô
City ngày 22-1-1999;
Thượng Nghị Giám Mục Á Châu, với
191 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời khoảng
19/4-14/5/1998, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô Cứu
Thế với Sứ Mệnh Yêu Thương và Phục Vụ của
Người ở Á Châu", một chủ đề được ngài đúc kết trong
tông huấn “Giáo Hội ở Á Châu - Ecclesia in Asia”
ban hành ngày 6/11/1999, dịp ngài thăm Á Châu ở Tân Đề
Li Ấn Độ;
Thượng Nghị Giám Mục Đại Dương
Châu, với 117 vị nghị phụ, nhóm họp tại Rôma trong thời
khoảng 23/11-12/12/1998, với chủ đề "Chúa Giêsu
Kitô và nhân dân Đại Dương Châu - 'Đi Con
Đường của Người, nói Sự Thật của Người và sống Sự Sống
của Người'", một chủ đề được ngài đúc kết trong tông
huấn “Giáo Hội tại Đại Dương Châu - Ecclesia in
Oceania” ban hành ngày 22/11/2001, và được ngài, lần
đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, ban hành và gửi đi bằng
hệ thống điện toán toàn cầu cho tất cả mọi giáo phận địa
phương thuộc châu lục này.
Thượng Nghị Giám Mục Âu Châu, với
117 vị nghị phụ, nhóm họp lần thứ hai, (lần nhất với 137
vị, vào thời điểm sau Biến Cố Đông Âu 1989, trong thời
khoảng 28/11-14/12/1991, ngay trước Biến Cố Nước Nga từ
bỏ chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản 25/12/1991), vào thời
khoảng 1-23/10/1999 tại Rôma, với chủ đề "Chúa
Giêsu Kitô vẫn sống nơi Giáo Hội, Nguồn Mạch
Hy Vọng cho Châu Âu", một chủ đề được ngài đúc kết
trong tông huấn “Giáo Hội tại Âu Châu - Ecclesia in
Europe” ban hành ngày 28/6/2003.
Để kết thúc Đại Năm Thánh 2000
cũng là để mở màn cho một tân thiên kỷ thứ ba Kitô Giáo,
Đức Gioan Phaolô II đă ban hành bức Tông Thư “Mở Màn
Cho Một Tân Thiên Kỷ – Novo Millennio Ineunte” vào
chính ngày Lễ Hiển Linh 6/1/2001, trong đó, ngài nhấn
mạnh đến chủ đề “Duc in altum – Hăy ra chỗ nước sâu
thả lưới đánh cá”, ở chỗ, (phần 1) gặp gỡ Chúa Kitô
(trong năm Thánh 2000); (phần 2) chiêm ngưỡng Dung Nhan
Chúa Kitô; (phần 3) bắt đầu lại từ Chúa Kitô; (phần 4)
Chứng nhân t́nh yêu.
Sau hết, để kết thúc giáo triều
của ḿnh, (một kết thúc chính ngài cũng không biết sẽ
xẩy ra thế nào và bao giờ), ngài đă mở Năm Thánh Thể và
ban hành bức Thông Điệp thứ 14, bức thông điệp cuối cùng
về Chúa Kitô. Cái trùng hợp ở đây là, trong 14 bức Thông
Điệp là các văn kiện có tầm vóc quan trọng vào bậc nhất
của thẩm quyền Giáo Hoàng, hai văn kiện đầu và cuối của
ngài đều về Chúa Kitô: Nếu bức Thông Điệp thứ nhất về
Chúa Kitô, “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor
Hominis”, có liên quan tới toàn thể nhân loại, th́
bức Thông Điệp thứ 14 về Chúa Kitô có liên quan tới Giáo
Hội, tới việc nội bộ Giáo Hội cần phải “duc in altum”
để có thể truyền bá phúc âm hóa thế giới tân tiến. Đó là
lư do bức Thông Điệp cuối cùng về Chúa Kitô này mới mang
tựa đề “Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể – Ecclesia de
Eucharistia”.
Trên đây là những chứng cớ hiển
nhiên cho thấy Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi của
Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II, một mầu nhiệm, trước
hết, liên quan trực tiếp tới tác nhân cứu chuộc là Chúa
Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, Đấng đă chi phối
toàn thể hoạt động của giáo triều của vị giáo hoàng thứ
264 này. Sau đây là những tâm tưởng và thâm tín của vị
giáo hoàng này về Chúa Giêsu Kitô, những ǵ được ngài
bày tỏ trong 2 văn kiện tiêu biểu Người nói rơ ràng đến
chủ đề Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của ngài, đó là Thông Điệp
Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần và Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm
Thứ Ba.
(Những chỗ in nghiêng và đậm
trong phần trích dịch và trích dẫn ở toàn bài viết này
là do người dịch muốn nhấn mạnh đến chủ trương cứu chuộc
và ư nghĩa cứu chuộc của vị Giáo Hoàng luôn qui hướng về
Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần).
2) Những tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này
về Chúa Giêsu Kitô trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân
Trần:
"Đấng Cứu
Chuộc Nhân Loại là Chúa Giêsu Kitô, trung tâm điểm của
vũ trụ và của lịch sử" (đây là câu mở
đầu cho cả bức thông điệp).
Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Trung Tâm Điểm Của Vũ Trụ:
"Đấng Cứu Chuộc của thế gian! Nơi Người tỏ hiện, bằng một đường lối mới
mẻ và tuyệt vời hơn, chân lư nền tảng liên quan đến việc tạo dựng mà Sách Khởi Nguyên chứng tỏ qua những lần
lập đi lập lại: 'Thiên Chúa thấy nó tốt lành' (đoạn 1).
Sự tốt lành bắt nguồn nơi Đức Khôn Ngoan và T́nh Yêu
Thương. Nơi
Chúa Giêsu Kitô, thế giới hữu h́nh mà Thiên Chúa dựng
nên cho con người (x.Gen 1:26-30), một thế giới khi tội lỗi đột nhập 'đă lụy
thuộc vào sự hư hoại' (Rm 8:20, x.Rm 8:19-22), phục hồi được mối liên hệ với nguồn mạch
thần linh nguyên thủy của Đức Khôn Ngoan và của T́nh Yêu
Thương...
"Khi phân tách một
cách sâu xa 'cái thế giới tân tiến này', Công Đồng Chung
Vaticanô II đă tiến đến một điểm quan trọng nhất của thế
giới hữu h́nh, đó là con người, bằng cách, như Chúa
Kitô, tiến sâu vào ư thức con người, và bằng cách chạm
đến mầu nhiệm nội tại của con người, cái mà ngôn ngữ
thánh kinh cũng như không phải thánh kinh đă diễn tả
bằng chữ 'trái tim'. Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc thế gian, là Đấng
đă thấu nhập vào mầu nhiệm của con người một cách đặc
thù và dứt khoát, cũng như Người đă đi vào 'tâm can' của
họ. Bởi
thế, Công Đồng Vaticanô II đă có lư khi dạy rằng: 'Sự thật đó là chỉ có ở nơi mầu nhiệm của
Lời Nhập Thể mà mầu nhiệm của con người mới được sáng
tỏ. V́
Adong, con người đầu tiên, kiểu mẫu của Đấng phải đến
(Rm 5:14) là Chúa Kitô. Chúa Kitô, một tân Adong, trong
việc mạc khải mầu nhiệm về Cha và về t́nh yêu của Cha,
đă hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con người họ và
làm sáng tỏ ơn gọi cao cả nhất của con người'. Công Đồng
tiếp: 'Đấng là h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh (Col
1:15), tự Ḿnh là một con người hoàn hảo, Đấng đă phục
hồi nơi gịng dơi Adong cái tương tự giống như Thiên
Chúa đă từng bị nguyên tội làm biến dạng đi. Bản tính
loài người, nhờ được mặc lấy chứ không bị mất đi trong
Người, đă được nâng lên nơi chúng ta tới một phẩm vị
khôn sánh. V́, nhờ Việc Nhập Thể của Người, Người, là Con
Thiên Chúa, một cách nào đó, đă hiệp nhất ḿnh với mỗi
một người. Người đă làm việc với đôi tay nhân loại,
Người đă suy nghĩ với trí khôn nhân loại. Người đă tác
động với ư muốn nhân loại, và Người đă yêu thương với
trái tim nhân loại. Được sinh hạ bởi Trinh Nữ Maria,
Người thực sự là một ngựi trong chúng ta, giống như
chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi' (Gaudium et Spes, đoạn 22). Người là Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại". (đoạn 8).
Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Trung Tâm Điểm Của Lịch Sử
"Thiên Chúa đă đi
vào lịch sử nhân loại, và như là một con người, Ngài đă
trở nên một người đi làm lịch sử này, một người trong
muôn ngàn triệu triệu con người, song đồng thời cũng
Chuyên Biệt! Qua việc Nhập Thể, Thiên Chúa đă ban cho sự
sống con người một chiều kích mà Ngài đă định ban cho
con người ngay từ ban đầu: Ngài đă ban cho họ chiều kích
này một cách dứt khoát - bằng một đường lối dành riêng
cho một ḿnh Ngài mà thôi, hợp với t́nh yêu và ḷng
thương vĩnh hằng của Ngài, hợp với niềm tự do của Thiên
Chúa - và Ngài cũng đă ban nó bằng một ḷng bao dung để
chúng ta, khi xét đến nguyên tội và suốt gịng lịch sử
tội lỗi của nhân loại, cũng như xét đến những lầm lẫn
của trí khôn con người, ư muốn và con tim của ḿnh, có
thể bồi hồi lập lại những lời của phụng vụ thánh: 'Ôi lỗi lầm diễm phúc... đă làm cho chúng ta
được một Đấng Cứu Chuộc cao cả như vậy' (Tụng Ca Lễ Vọng Phục Sinh)..." (đoạn 1).
"Thập giá trên đồi
Canvê mà Chúa Giêsu Kitô - một Con Người, Con của Trinh
Nữ Maria, được nghĩ là con của Giuse Nazarét - 'để lại'
cho thế giới này, cũng là một biểu hiện mới mẻ về t́nh
phụ tử đời đời của Thiên Chúa, Đấng mà trong Người, một
lần nữa, đến gần nhân loại, gần với mỗi một con người,
khi ban cho Người 'Thần chân lư' (Jn16:13) ba lần thánh.
"Việc mạc khải này của Cha và việc tuôn đổ
Thánh Linh để đóng một niêm ấn không phai nḥa trên mầu
nhiệm cứu chuộc đă nói lên ư nghĩa của cây thập giá và
cái chết của Đức Kitô. Vị Thiên Chúa của việc tạo dựng được mạc
khải như là một Vị Thiên Chúa của việc cứu chuộc, như Vị Thiên Chúa 'trung tín với chính
ḿnh' (1Thes 5:24), cũng như trung tín với t́nh yêu
thương của Ngài đối với nhân loại và thế gian, một t́nh
yêu Ngài đă mạc khải vào ngày tạo dựng. T́nh yêu của
Ngài là một t́nh yêu không rút lui trước bất cứ một cái
ǵ đ̣i Ngài phải dùng đến phép công thẳng. Bởi thế, 'v́
chúng ta, (Thiên Chúa) đă làm cho Người (Con) là Đấng
không biết đến tội lỗi thành tội lỗi' (2Cor 5:21; x.Gal
3:13). Nếu Người 'thành tội lỗi', Người là Đấng không
bao giờ có một tội lỗi nào, th́ tỏ ra rằng t́nh yêu luôn
luôn cao trọng hơn tất cả mọi tạo vật, một t́nh yêu là
chính Ḿnh Người, v́ 'Thiên Chúa là t́nh yêu' (Jn
4:8,16). Trên tất cả mọi sự, t́nh yêu vĩ đại hơn cả tội
lỗi, hơn cả yếu đuối, hơn cả 't́nh trạng hư hoại của tạo
vật' (Rm 8:20); nó mạnh hơn cả sự chết; nó là một t́nh
yêu luôn luôn sẵn sàng để nâng cao và tha thứ, luôn luôn
sẵn sàng để đi gặp người con hoang đàng (x.Lk 15:11-32),
luôn luôn mong đợi 'cuộc thể hiện của con cái Thiên
Chúa' (Rm 8:18) là thành phần được kêu gọi 'đến vinh
quang sẽ được tỏ hiện' (Thánh Tomas tiến sĩ). Việc mạc khải của t́nh yêu này cũng được
diễn tả như mạc khải của ḷng thương xót; và trong lịch
sử của con người, mạc khải của t́nh yêu và ḷng thương
xót này đă mặc một h́nh thức và mang một danh hiệu: đó
là Giêsu Kitô" (đoạn 9).
"Con người không thể
nào sống mà không yêu thương. Họ măi là một hữu thể
không hiểu được ḿnh, đời sống của họ vô nghĩa, nếu t́nh
yêu không tỏ hiện cho họ thấy, nếu họ không gặp gỡ t́nh
yêu, nếu họ không cảm nghiệm được nó và làm cho nó thành
của ḿnh, nếu họ không mật thiết liên kết với nó. Đó là,
như đă nói đến, lư do tại sao Đức Kitô Đấng Cứu Chuộc 'hoàn toàn tỏ cho
con người biết về chính con người họ'. Nếu chúng ta cần
diễn tả, th́ đây là chiều kích nhân loại của mầu nhiệm
của việc cứu chuộc. Trong chiều kích này, con người, một lần
nữa, t́m được sự cao cả, phẩm vị và giá trị thuộc về
nhân tính của họ. Nơi mầu nhiệm của việc cứu chuộc, con người
được 'thể hiện' một cách mới mẻ, và, một cách nào đó,
được tạo dựng một cách mới mẻ. Con người được tạo dựng
một cách mới mẻ! 'Không c̣n Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự
do, nam hay nữ; v́ anh em tất cả là một trong Đức Giêsu
Kitô' (Gal 3:28). Con người muốn hiểu ḿnh hoàn toàn - không chỉ hợp với những tiêu chuẩn và mức
độ trực tiếp, bán phần, thường nông cạn, hay ảo tưởng về
hữu thể ḿnh - họ phải đến gần Chúa Kitô, với nỗi khắc khoải và lo âu của họ, cả với
nỗi yếu đuối và tội lỗi của họ, với sự sống và cái chết
của họ. Như thế, họ phải vào trong Người với tất cả cái tôi
riêng của họ, họ phải 'thích hợp' và đồng hóa với toàn
thể thực tại của mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc để t́m
thấy chính ḿnh. Nếu tiến tŕnh sâu xa này xẩy ra nơi họ,
th́ họ mới sinh hoa trái, chẳng những nơi việc tôn thờ
Thiên Chúa, mà c̣n nơi cả sự bỡ ngỡ lạ lùng về ḿnh
nữa. Con
người quí hóa là chừng nào trước mắt của Hóa Công, khi
họ 'được một Đấng Cứu Chuộc cao cả như vậy' (tụng ca Lễ Vọng Phục Sinh), và một khi Thiên Chúa 'đă ban Con duy nhất
của ḿnh' là để con người 'không phải chết nhưng được sự
sống đời đời' (Jn 3:16)”. (đoạn 10).
3) Những
tâm tưởng và thâm tín của vị giáo hoàng này về Chúa
Giêsu Kitô trong Tông Thư Tiến Đến Ngàn Năm Thứ Ba:
“Chúa Giêsu Kitô là một khởi sự
mới cho tất cả mọi sự … là măn nguyện của ước vọng cho
mọi tôn giáo trên thế giới” (đoạn 6).
“Chúa Kitô, đấng cứu chuộc thế
giới, là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài
người, nên không có một danh hiệu nào khác ở dưới gầm
trời này có thể cứu được chúng ta (x.Acts 4:12). Như
chúng ta đọc thấy trong Thư gửi cho các tín hữu Êphêsô:
‘Nơi Đức Kitô, chúng ta nhờ máu của Người mà được ơn cứu
chuộc, được ơn tha thứ những lỗi phạm của ḿnh, theo ân
sủng dồi dào Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên chúng ta. V́
Thiên Chúa đă tỏ cho chúng ta, bằng tất cả khôn ngoan và
sáng suốt... mục đích của Ngài đă phác họa nơi Chúa Kitô
một dự án cho thời điểm viên trọn, mục đích đó là hiệp
nhất tất cả trong Người, những sự trên trời cùng những
sự dưới đất’ (1:7-10). V́ thế, Chúa Kitô, Ngôi Con là
một với Chúa Cha, là Đấng mạc khải dự án của Thiên Chúa
cho tất cả mọi tạo vật, đặc biệt là cho con người. Theo
một câu đáng nhớ của Công Đồng Chung Vaticanô II th́
Chúa Kitô ‘hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con
người và làm sáng tỏ ơn gọi cao trọng của họ’ (hiến chế
Gaudium et Spes, đoạn 22). Người tỏ cho chúng ta ơn gọi
này bằng việc mạc khải mầu nhiệm về Cha và về t́nh yêu
của Cha” (đoạn 4).
“Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, Chúa của vũ
trụ, cũng là Chúa của lịch sử, một lịch sử mà Người là
‘Alpha và Omega’ (Rev.1:8;21:6), là ‘nguyên thủy và là
cùng đích’ (Rev.21:6). Nơi Người, Chúa Cha đă nói lên
một lời thực sự về con người và về lịch sử của họ. Lời
này được diễn tả một cách tóm gọn và hùng hồn qua Bức
Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái: ‘Bằng nhiều thể nhiều
cách, xưa kia Thiên Chúa đă nói với cha ông chúng ta nhờ
các tiên tri; thế nhưng, trong những ngày sau hết này,
Ngài đă nói với chúng ta qua Người Con’ (Heb.1:1-2)”
(đoạn 5).
“Chúa Giêsu được sinh ra từ dân tuyển chọn để hoàn tất
lời hứa mà Abraham đă lănh nhận và các tiên tri liên tục
nhắc nhớ. Các tiên tri nhân danh Thiên Chúa và thay cho
Ngài mà nói. Thật vậy, công cuộc của Cựu Ước được sắp
xếp chính là để sửa soạn và loan truyền cho việc Đức
Kitô đến, Đấng cứu chuộc hoàn vũ, cũng như cho vương
quốc mà Người thiết lập. Bởi thế, những cuốn sách của
Cựu Ưùớc măi măi là một chứng cớ cho một giáo thuyết
thần linh xác thực (x. hiến chế Mạc Khải đoạn 15). Giáo
thuyết này đă đạt mục tiêu của nó nơi Đức Kitô: đúng thế
Chúa Giêsu không chỉ ‘nhân danh Chúa’ mà nói như các vị
tiên tri, mà Người chính là Thiên Chúa nói bằng Lời hằng
sống nhập thể của ḿnh. Ở đây chúng ta chạm đến một điểm
chính yếu làm cho Kitô giáo khác với tất cả mọi tôn giáo
khác, những tôn giáo diễn tả việc con người t́m kiếm
Thiên Chúa từ những thời cổ xưa nhất. Khởi điểm của Kitô
giáo bắt nguồn từ việc Lời nhập thể. Như thế, không phải
là con người t́m kiếm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa đích
thân đến nói với chính con người, và chỉ cho con người
đường nẻo để con người có thể đến với Ngài. Đó là điều
đă được công bố trong Phần Nhập Đề của Phúc Âm thánh
Gioan: ‘Chưa có ai đă từng thấy được Thiên Chúa; Người
Con duy nhất, Đấng ở trong ḷng Cha, Người đă tỏ Cha ra’
(Jn.1:18). Như thế, Lời nhập thể làm thỏa nguyện ước
vọng nơi tất cả các đạo giáo của nhân loại. Chính Thiên
Chúa đă làm cho con người được thỏa nguyện, ngoài mọi
ước mong của con người. Đó là một mầu nhiệm của ân sủng.
“Nơi Chúa Kitô, tôn giáo không c̣n là một ‘cuộc kiếm t́m
Thiên Chúa một cách mù quáng’ (Acts 17:27) nữa, mà là
một đáp ứng của đức tin vào Thiên Chúa là Đấng tỏ ḿnh
ra. Nó là một đáp ứng mà con người nói với Thiên Chúa
như với Hóa Công, với một Người Cha, một đáp ứng đă
thành hiện thực nhờ một con người cũng chính là Ngôi
Lời, mà nơi Người, Thiên Chúa đă nói với từng người, và
nhờ Người mỗi người có thể đáp lại Thiên Chúa. C̣n nữa,
cũng ở nơi con người này mà mọi tạo vật đáp lại Thiên
Chúa. Chúa Giêsu Kitô là một khởi sự mới cho tất cả mọi
sự. Nơi Người, tất cả mọi sự có; chúng được thăng hóa
rồi được trả về cho Hóa Công là Đấng dựng nên chúng. Như
thế, Đức Kitô là măn nguyện của ước vọng cho mọi tôn
giáo trên thế giới, nên Người làụ tầm mức viên trọn đích
thực duy nhất của họ. Thiên Chúa nói thẳng với con người
nơi Đức Kitô thế nào, tất cả loài người và toàn thể tạo
vật cũng tự ḿnh nói với Thiên Chúa trong Đức Kitô như
vậy, thực sự đó là việc tự hiến ḿnh cho Thiên Chúa. Mọi
vật trở về với cội nguồn của ḿnh là vậy. Chúa Giêsu
Kitô làm cho mọi sự tái tạo (x.Eph.1:10), đồng thời làm
hoàn tất mọi sự trong Thiên Chúa: một hoàn tất làm vinh
danh Thiên Chúa. Tôn giáo có nền tảng nơi Đức Kitô là
một tôn giáo vinh quang; nó là một tầm vóc mới mẻ của sự
sống để chúc tụng vinh quang Thiên Chúa (x.Eph.1:12).
Tất cả mọi tạo vật thực sự là một biểu hiện của vinh
quang Người. Đặc biệt con người (vivens homo) là sự hiển
linh của vinh quang Thiên Chúa, một loài được kêu gọi để
sống bằng sự sống viên trọn trong Thiên Chúa” (đoạn 6)
“Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa chẳng những nói với loài
người mà c̣n t́m kiếm họ nữa. Việc Con Thiên Chúa nhập
thể chứng tỏ là Thiên Chúa đi t́m kiếm con người. Chúa
Giêsu nói về việc t́m kiếm này như t́m kiếm một con
chiên lạc đàn (x.Lk.15:1-7). Đó là một cuộc t́m kiếm mà
khởi điểm bắt đầu từ cơi ḷng của Thiên Chúa và đích
điểm ở nơi việc nhập thể của Ngôi Lời. Nếu Thiên Chúa đi
t́m con người, loài được dựng nên theo h́nh ảnh Ngài và
giống như Ngài, là v́ đời đời Ngài yêu thương họ nơi
Ngôi Lời, và trong Đức Kitô Ngài muốn nâng họ lên danh
phận làm một người con được thừa nhận. Thế nên, Thiên
Chúa đi t́m kiếm con người là sở hữu đặc biệt của Ngài
bằng một đường lối không giống như các tạo vật khác. Con
người là sở hữu của Thiên Chúa bởi việc yêu thương chọn
lựa: Thiên Chúa t́m kiếm con người theo tấm ḷng hiền
phụ rung cảm của ḿnh.
“Tại sao Thiên Chúa lại t́m kiếm con người? Là v́ con
người đă bỏ Ngài mà đi, ẩn ḿnh đi như Adong đă làm
trong Vườn Địa Đàng (x.Gn.3:8-10). Con người đă để cho
ḿnh bị kẻ thù của Thiên Chúa (x.Gn.3:13) làm lạc hướng.
Satan đă đánh lừa con người, làm cho con người tin rằng
họ cũng là một thần linh, như Thiên Chúa, họ có khả năng
biết lành biết dữ, cai trị thế giới theo ư ḿnh mà không
cần phải căn cứ vào ư muốn thần linh (x.Gn.3:5). Đi t́m
kiếm con người qua Con của ḿnh như thế là Thiên Chúa
muốn chinh phục con người, để họ rời bỏ những đường nẻo
gian ác đă dẫn họ càng ngày càng đi sai lạc. ‘Làm cho họ
rời bỏ’ những đường nẻo này nghĩa là làm cho họ hiểu
được rằng họ đang đi sai đường lạc hướng; nghĩa là chế
ngự sự dữ ở bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử loài
người. Chế ngự sự dữ: đó là ư nghĩa của việc cứu chuộc.
Điều này đă được thực hiện nơi việc hy sinh của Đức
Kitô, nhờ đó loài người được cứu cho khỏi nợ nần tội lỗi
và được ḥa giải cùng Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đă làm
người, nhận lấy một thân xác và một linh hồn trong cung
ḷng một Trinh Nữ, chính v́: để trở nên một hy tế cứu độ
hoàn hảo. Tôn giáo của mầu nhiệm Nhập Thể là một tôn
giáo của ơn cứu thế, nhờ hiến tế của Đức Kitô, một hiến
tế chiến thắng sự dữ, tội lỗi và chính sự chết. Chấp
nhận cái chết trên thập giá là Đức Kitô cùng một lúc vừa
tỏ bày sự sống vừa thông ban sự sống, v́ Người đă sống
lại và sự chết không c̣n làm ǵ được Người nữa” (đoạn
7).
Tóm lại, v́ Mầu Nhiệm Cứu Độ là
Cốt Lơi của Giáo Triều Gioan Phaolô II theo chiều kích
“Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” là Lời Nhập Thể này, mà vị
Giáo Hoàng đă từng là Nghị Phụ góp phần soạn thảo Hiến
Chế Mục Vụ về Giáo Hội “Vui Mừng Và Hy Vọng”, như ngài
thú nhận trong cuốn Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng (ấn bản
Anh Ngữ, trang 159), và quyết tâm áp dụng đường hướng
cùng giáo huấn của Công Đồng có tính cách mục vụ hướng
ngoại như một Giáo Hội Trong Thế Giới Tân Tiến này, đă
liên tục giảng dạy và mạnh mẽ hoạt động cho văn hóa sự
sống, tức cho những ǵ hợp với phẩm vị cao quí của con
người được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa nơi Mầu
Nhiệm Tạo Dựng, mà c̣n được cứu chuộc bởi Thiên Chúa nơi
Mầu Nhiệm Vượt Qua nữa, và chống văn hóa sự chết là
những ǵ không hợp với thiên chức cùng ơn gọi làm người
đă được hoàn toàn sáng tỏ nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con
Thiên Chúa.
Thật thế, về việc giảng dạy văn hóa sự sống chống văn
hóa sự chết, trong 16 bức Thông Điệp của ḿnh, ngoài
những Thông Điệp về tín lư thần học, như bộ ba Thông
Điệp về Ba Ngôi Thiên Chúa: Redemptor Hominis
(4/3/1979), Dives in Misericordia (30/11/1980), và
Dominum et Vivificantem (18/5/1986), hay bộ 3 Thông Điệp
về hoạt động của Giáo Hội: Redemptoris Missio về truyền
giáo (7/12/1990), Ut Unum Sint về hiệp nhất (25/5/1995)
và Ecclesia de Eucharistia về nội tâm (17/4/2003), c̣n
có 3 Thông Điệp về xă hội: Laborem Exercens (14/9/1981),
Sollicitudo Rei Socialis (30/12/1987), và Centesimus
Annus (1/5/1991), và 3 Thông Điệp về luân lư: Veritatis
Splendor (6/8/1993), Evangelium Vitae (25/3/1995) và
Fides et Ratio (14/9/1998). Trong hai bộ ba Thông Điệp
về xă hội và luân lư này, ngài đă chính thức loan truyền
“Phúc Âm Sự Sống”, nhất là, như các tín điều Thánh Mẫu
được hai vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của ngài dùng quyền
tối cao tuyên tín, (Đức Piô IX với Tín Điều Vô Nhiễm
ngày 8/12/1854, và Đức Piô XII với Tín Điều Thánh Mẫu
Mông Triệu ngày 1/11/1950), ngài cũng đă mạnh mẽ chính
thức sử dụng quyền bính tối cao của ḿnh để tuyên tín
luân điều của Giáo Hội về sự sống buộc phải tuân giữ,
(một sự kiện tuyên tín về luân lư như thế chưa từng xẩy
ra trong lịch sử Giáo Hội), trực tiếp liên quan tới vấn
đề cấm phá thai (Thông Điệp Evangelium Vitae, khoản 62),
cũng như tới hành động không được triệt sinh an tử
(khoản 65).
Về những hoạt động cho văn hóa sự sống chống văn hóa sự
chết, lịch sử thế giới không thể chối căi được vai tṛ
ngài đă đóng như “Nguyên Tố gây Sụp Đổ Đông Âu”, “Sứ Giả
Ḥa B́nh Thế Giới ở Thánh Địa và Iraq”, “Khởi Xướng
Chiến Dịch Băi Nợ Quốc Tế”, “Đẩy Mạnh Phong Trào Hủy Bỏ
Án Tử H́nh”, và “Vô Địch Thủ của Hội Nghị Dân Số Cairô”,
(những vấn đề đă được người viết bài này tŕnh bày khá
đầy đủ trong cuốn “Đức Gioan Phaolô II: Sống Là Chúa
Kitô – Chết Là Vinh Thắng” (Cao-Bùi, 5/2005). Ngài chẳng
những hoạt động từ chính Ngai Ṭa Phêrô của ḿnh ở Giáo
Đô Vatican, mà c̣n đi khắp thế giới, theo chiều hướng
Giáo Hội Trong Thế Giới Tân Tiến, mang “Vui Mừng và Hy
Vọng” đến cho loài người, qua 104 chuyến tông du mục vụ,
để cổ vơ công lư và ḥa b́nh, kêu gọi hết mọi thành phần
“Hăy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”. Bởi v́, theo ngài, con
người được Thiên Chúa dựng nên không thể nào được cứu độ
và được thăng hóa nếu không có “Đấng Cứu Chuộc Nhân
Trần”, như được ngài vừa đặt vấn đề vừa giải đáp trong
tác phẩm “Vược Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, (bản Anh Ngữ,
trang 197), như sau:
“Con người là ai, một khi Người Con đi mặc lấy bản tính
của con người? Con người này phải là ai, nếu Con Thiên
Chúa lại phải trả giá cao nhất cho phẩm vị của họ
đây?... Đấng Cứu Chuộc củng cố quyền lợi của con người
chỉ nguyên bằng việc phục hồi tính cách trọn vẹn của
phẩm vị mà con người đă lănh nhận khi Thiên Chúa tạo
dựng nên họ theo h́nh ảnh Ngài và tương tự như Ngài”.
4) Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Đức Gioan Phaolô II: Sống là
Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng (x Phil 1:21)
Nếu Mầu Nhiệm Cứu Chuộc, theo cảm
nhận và chia sẻ của Đức Gioan Phaolô II được trích dẫn
và chứng thực trong bài viết này, là mầu nhiệm liên quan
đến Mầu Nhiệm Vượt Qua, tức chẳng những liên quan đến
tội lỗi và sự chết, mà c̣n liên quan đến cả sự sống và
vinh quang nữa, th́ chính bản thân và cuộc đời Giáo
Hoàng của Đức Gioan Phaolô II đă chứng thực như thế, và
do đó, lại càng là một chứng cớ hùng hồn cho khẳng định:
Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi của Giáo Triều Đức Gioan
Phaolô II.
Trước hết, về khía cạnh đau khổ và sự chết liên quan tới
Mầu Nhiệm Cứu Chuộc, mầu nhiệm mà chính Con Thiên Chúa
đă phải trải qua cuộc Khổ Nạn và Tử Giá vô cùng tang
thương, nơi cuộc đời làm Giáo Hoàng của ngài, không phải
hay sao, chính bản thân của ngài đă bị ám sát, gây ra
bởi một tội ác, có thể nói, mở màn cho nạn khủng bố sau
này, và cho dù có thoát chết, từ đó, bị ảnh hưởng bởi
cuộc ám sát này, sức khỏe của một con người yêu thích
thể thao như ngài đă bị sa sút, đến nỗi, nhiều lần dư
luận đă cho rằng ngài sắp chết, v́ ngài đă được mang vào
bệnh viện đến 10 lần, thứ tự như sau: ngày 13/5/1981 ở
bệnh viện Gemelli sau khi bị ám sát chết hụt ở Quảng
Trường Thánh Phêrô; ngày 20/6/1981, tái nhập bệnh viện
này và chịu một cuộc giải phẫu thứ hai vào ngày 5/8, Lễ
Đức Mẹ Xuống Tuyết; ngày 15/7/1992, nhập cùng bệnh viện
để được mổ v́ cục bưới lành ở ruột; ngày 2/7/1993, được
chụp CAT scan xem t́nh h́nh ra sao sau cuộc giải phẫu
năm 1992; ngày 11/11/1993, cũng tại cùng bệnh viện sau
khi bị găy xương vai bên phải; ngày 29/4/1994, lại nhập
bệnh viện này v́ bị ngă gay xương đùi tối hôm trước;
ngày 14/8/1996, nhập bệnh viện Regina Apostolorum Clinic
ở Albano để được chụp CAT scan; ngày 8/10/1996, nhập
bệnh viện Gemelli để cắt ruột dư; ngày 1/2/2005, nhập
bệnh viện Gemelli v́ bộ phận hô hấp bị nhiễm trùng cấp
tính, cho đến ngày 10/2; và lần cuối cùng cấp tốc trở
lại bệnh viện này vào ngày 24/2, v́ cúm tái phát gây khó
thở, và ở đó cho tới ngày 13/3. Để rồi, vào ngày 31/3,
bị nhiễm trùng đường tiểu, và cuối cùng đă qua đời sau
đó mấy ngày tại tông pḥng của ngài ở Vatican.
Vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI,
trước khi được trúng tuyển làm giáo hoàng 13 ngày, tức
vào hôm 8/4/2005, ở phần cuối bài giảng của ḿnh, đă
nhận định về chung con người và về riêng cuộc khổ nạn
cuối đời của Đức Gioan Phaolô II như sau:
“Bằng việc chăn dắt đàn chiên của Chúa Kitô, Thánh Phêrô
đă đi vào mầu nhiệm vượt qua, thánh nhân đă tiến về phía
thập tự giá và về cuộc phục sinh. Chúa Kitô đă nói về
điều này bằng những lời: ‘… khi con c̣n trẻ, con thường
tự ḿnh thắt lưng lấy và đi đâu tùy ư con muốn’ (Jn
21:18). Trong những năm đầu của giáo triều ḿnh, những
năm c̣n trẻ trung và đầy nhiệt huyết, Đức Thánh Cha đă
đi đến tận cùng trái đất theo sự dẫn dắt của Chúa Kitô.
Thế nhưng sau đó, ngài càng ngày càng đi sâu vào cuộc
hiệp thông khổ đau với Chúa Kitô; càng hiểu được sự thật
của những lời này: ‘Người ta sẽ thắt lưng cho con’. Và
trong chính cuộc hiệp thông đau khổ này với Chúa Kitô
một cách liên tục và càng gia tăng hơn, ngài đă loan báo
Phúc Âm, loan báo mầu nhiệm về một t́nh yêu thương cho
đến cùng tận (x Jn 13:1).
“Ngài đă giải thích cho chúng ta mầu nhiệm vượt qua như
là một mầu nhiệm của ḷng thương xót Chúa. Trong tác
phẩm cuối cùng của ḿnh, ngài đă viết: Cái giới hạn áp
đặt trên sự dữ ‘tối hậu là Ḷng Thương Xót Chúa’ (Hồi
Niệm và Căn Tính, trang 60-61). Và khi suy nghĩ về biến
cố mạng sống ngài bị cố sát, ngài đă nói: ‘Trong việc hy
hiến ḿnh cho tất cả chúng ta, Chúa Kitô đă cống hiến
cho đau khổ một ư nghĩa mới, mở ra một chiều kích mới,
một trật tự mới, đó là trật tự của yêu thương… Chính cái
đau khổ này đốt cháy và thiêu rụi đi sự dữ bằng ngọn lửa
yêu thương và rút ran gay từ tội lỗi cả một cuộc bừng nở
đầy những thiện hảo’ (cùng nguồn, trang 189-190). Được
thôi thúc bởi nhăn quan ấy, vị Giáo Hoàng này đă chịu
đựng khổ đau và đă yêu qúi việc hiệp thông với Chúa
Kitô, nên đó là lư do tại sao sứ điệp về khổ đau của
ngài cùng việc thinh lặng của ngài là những ǵ thất là
sống động và hiệu năng.
"Không ai trong chúng ta có thể quên được cảnh tượng
diễn ra hôm Chúa Nhật Phục Sinh vừa rồi trong cuộc đời
của ngài, Đức Thánh Cha, đầy những đớn đau, lại tiến đến
cửa sổ Tông Dinh của ḿnh để ban phép lành ‘urbi et orbi
– cho thành Rôma và cho thế giới’ một lần cuối cùng”.
Tưởng cũng nên nhắc đến ở đây một chi tiết liên quan đến
khổ đau và sự dữ trong Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi
của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II, đó là, ngoài khổ đau
và sự dữ mà chính bản thân ngài phải chịu trong cuộc đời
làm Giáo Hoàng của ḿnh, như giá trả thiết yếu trong
việc đồng công với Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần để giải
thoát con người hiện đại nói chung và Khối Đông Âu nói
riêng khỏi sự dữ Cộng Sản vô thần duy vật, ngài c̣n
thiết lập Ngày Bệnh Nhân Thế Giới nữa, từ ngày
13/5/1992, và Ngày Bệnh Nhân Thế Giới đầu tiên được tổ
chức tại chính Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức vào chính Lễ Mẹ
Lộ Đức 11/2/1993, và sau đó, hằng năm, cũng vào chính
ngày Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2 này, Giáo Hội cử hành Ngày Thế
Giới Bệnh Nhân tại các Đền Thánh Mẫu khắp các châu lục,
chẳng hạn như năm 2005 được tổ chức tại Đền Thánh Mẫu ở
Yaounde Cameroon, Phi Châu.
Ngoài ra, ngài c̣n ban hành bức Tông Thư “Khổ Đau Cứu Độ
- Salvifici Doloris” ngày Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2/1984 trong
chính Năm Thánh Cứu Chuộc., v́ đau khổ của loài người có
liên hệ mật thiết với Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của “Đấng Cứu
Chuộc Nhân Trần”. Sau đây là những lời mở đầu cho bức
Tông Thư chất chứa phần nào nội dung của nó:
“Khi loan báo về quyền năng của khổ đau cứu độ, Vị Tông
Đồ Phaolô viết: ‘Tôi hoàn tất nơi xác thịt của tôi những
ǵ c̣n thiếu nơi những cuộc khổ nạn của Chúa Kitô phải
chịu v́ thân thể của Người là Giáo Hội’ (Col 1:24)
“…Vị Tông Đồ này chia sẻ việc khám phá của ḿnh và hân
hoan với việc khám phá đó v́ tất cả những ai việc khám
phá này có thể giúp hiểu được – như nó đă giúp cho ngài
– ư nghĩa cứu độ của khổ đau”. (đoạn 1)
“Đề tài đau khổ là những ǵ cần phải đặc biệt đối diện
trong bối cảnh của Năm Thánh Cứu Chuộc, và sở dĩ như
thế, trước hết là v́ Việc Cứu Chuộc được hoàn tất nhờ
Thập Giá của Chúa Kitô, tức là, nhờ khổ đau của Người.
Đồng thời, trong Năm Cứu Chuộc, chúng ta cũng nhắc lại
sự thật được diễn tả trong bức Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc
Nhân Trần, đó là, nơi Chúa Kitô, ‘hết mọi người trở
thành đường lối cho Giáo Hội’ (khoản 14,18,21,22). Có
thể nói rằng, con người đặc biệt trở thành đường lối cho
Giáo Hội khi khổ đau xẩy ra cho cuộc sống của họ”. (đoạn
3)
Chưa hết, vị Giáo Hoàng mà chính
bản thân ngài cũng là một bệnh nhân trường kỳ đă giành
riêng một Ngày Mừng Đại Năm Thánh 2000 cho thành phần
bệnh nhân là ngày Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2/2000, và đă xức dầu
cho riêng 200 bệnh nhân tiêu biểu rồi gặp gỡ chung họ
với những lời huấn dụ theo chiều hướng của bức Tông Thư
“Khổ Đau Cứu Độ”, như sau:
“Đau đớn và bệnh nạn là số phận nơi mầu nhiệm của con
người trên trái đất này. Dĩ nhiên con người vẫn có quyền
chiến đấu với bệnh nạn, v́ sức khỏe là một tặng ân của
Thiên Chúa. Thế nhưng, người ta cũng cần phải làm sao có
thể nhận ra dự án của Thiên Chúa mỗi khi đau khổ đến gơ
cửa nhà của chúng ta nữa. ‘Ch́a khóa’ để có thể nhận
thức được điều này ở nơi Thập Giá của Chúa Kitô. Lời
nhập thể đă ôm lấy nỗi yếu đuối của chúng ta, mang lấy
nó trong mầu nhiệm Thập Giá. Từ bấy giờ, tất cả mọi khổ
đau có một ư nghĩa khả dĩ làm cho nó có một giá trị đáng
kể. Từ ngày của Cuộc Khổ Nạn, qua 2000 năm rồi, Thập Giá
vẫn chiếu sáng như là một cuộc bộc lộ tối hậu mối t́nh
của Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Những ai có thể chấp
nhận nó trong đời sống của ḿnh đều cảm thấy rằng, theo
ánh sáng đức tin, đau đớn đă trở thành nguồn hy vọng và
cứu độ” (đoạn 3.1).
“Quí bệnh nhân thân mến, đây là giây phút tuyệt đỉnh của
Cuộc Mừng Kỷ Niệm của anh chị em! Bằng việc bước qua
ngưỡng Cửa Thánh, anh chị em hợp với tất cả những ai
trên khắp thế giới đă bước qua đó và những ai sẽ bước
qua đó trong Năm Mừng Kỷ Niệm này. Chớ ǵ việc bước qua
Cửa Thánh là dấu hiệu của việc anh chị em thiêng liêng
tiến vào mầu nhiệm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc tử giá
và phục sinh, Đấng v́ yêu đă mang lấy ‘những sầu thương
và gánh chịu những buồn phiền của chúng ta’ (Is 53:4)”
(đoạn 4.2).
Sau nữa, về khía cạnh sự sống và vinh quang liên quan
tới Mầu Nhiệm Cứu Chuộc nơi cuộc đời làm Giáo Hoàng của
ngài, không phải hay sao, trước hết, nhờ cuộc ám sát
này, hay nhờ ngài đă đáp lại lời yêu cầu của Trời Cao,
trong việc cùng với hàng giáo phẩm trên thế giới hiến
dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ngày
25/3/1984, mà sau khi nhà lănh đạo cuối cùng của Khối
Cộng Sản Liên Bang Sô Viết xuất hiện đúng 1 năm sau đó,
năm 1985, cũng vào Tháng 3, Nước Nga đă từ bỏ chế độ và
chủ nghĩa Cộng Sản vào chính ngày Lễ Giáng Sinh
25/12/1991.
Thế rồi, nếu ngài đă bị bệnh vào ngay trước Mùa Chay,
nhất là trong suốt Mùa Chay 2005, đến nỗi, vào Chúa Nhật
Phục Sinh, ngài bắt đầu bị câm nín, không thể nói được
nữa, (ngay khi ngài muốn lên tiếng trước máy vi âm để
ban huấn từ Chúa Nhật Phục Sinh), một thời điểm Mùa Chay
mà cách đó đúng 26 năm, ngài đă ban hành bức Thông Điệp
Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, th́ ngài đă được về với Đấng
tuyên phán: “Thày là sự sống lại và là sự sống” (Jn
11:25) ngay trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh, áp Chúa Nhật
Lễ T́nh Thương.
"Santo Subito - Xin Phong Thánh ngay"
Chưa bao giờ có chuyện vỗ tay vang lừng trong Thánh
Lễ an táng, ngoại trừ với Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II
5) Mầu Nhiệm Cứu Độ, đối với Thánh Gioan Phaolô II, là
Thánh Giá của Ḷng Thương Xót Vinh Thắng trên tất cả mọi
sự dữ
Và Thánh Lễ An Táng của ngài, được
diễn ra vào Thứ Sáu 8/4/2005, có thể nói, vinh quang của
Giáo Hội Công Giáo đă lên đến tột đỉnh trong lịch sử của
riêng Giáo Hội và của chung thế giới. Thi thể của vị
Giáo Hoàng, như hạt múa miến bị mục nát đi mới sinh
nhiều hoa trái này (x Jn 12:24), chẳng những đă được dân
chúng chờ chực cả nửa ngày trời hay hơn để được kính
viếng trong ṿng nửa phút trong Đền Thờ Thánh Phêrô, mà
cho tới nay, cả 9 tháng sau, Quảng Trường Thánh Phêrô,
vẫn c̣n những hàng người nhẫn nại hằng ngày chờ chực lâu
giờ, không phải để viếng Đền Thờ Thánh Phêrô như đă xẩy
ra trong Đại Năm Thánh 2000, mà là để được kính viếng
thi thể của vị Giáo Hoàng đă được châm chước thời hạn 5
năm trong tiến tŕnh phong chân phước cho ngài, vị Giáo
Hoàng “totus tuus” sống động và hiện thực Mầu Nhiệm Cứu
Chuộc như Cốt Lơi của một Giáo Triều ở vào cuối thiên
niên thứ hai và đầu thiên niên thứ ba Kitô Giáo.
Vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI, trong bài chia sẻ ngày
19/4 tại Nguyện Đường Sistine với Hồng Y Đoàn ngay sau
ngày được bầu làm Giáo Hoàng, cũng như trong Huấn Từ
Truyền Tin Chúa Nhật XXIX Thường Niên ngày 16/10/2005,
kỷ niệm 27 năm Đức Gioan Phaolô II được bầu làm Giáo
Hoàng, đă nhận định về sự kiện “chết là vinh thắng” của
vị tiền nhiệm yêu dấu khả kính của ḿnh, như sau:
“Vào lúc này đây, kư ức của tôi nhớ lại cảm nghiệm không
thể nào quên được mà tất cả chúng ta đă trải qua với cái
chết và lễ an táng cho Đức Gioan Phaolô II tiếc thương.
Quanh thi thể của ngài, nằm trên mặt đất trống, các vị
lănh đạo chư quốc đă qui tụ lại, cùng với dân chúng
thuộc tất cả mọi giai cấp xă hội, nhất là giới trẻ, để
tỏ ḷng măi măi gắn bó quí mến và ca ngợi ngài. Toàn thể
thế giới đă tin tưởng nh́n vào ngài. Đối với nhiều người
th́ việc tham dự đông đảo này, một cuộc tham dự được các
phương tiện truyền thông phóng đại đến cả những nơi xa
xôi của hành tinh này, như thể là việc nhân loại văn
minh tân tiến, một nhân loại bị hoang mang sợ hăi và bất
ổn, đang tự hỏi ḿnh về tương lai, muốn đồng thanh yêu
cầu vị Giáo Hoàng này giúp đỡ” (với Hồng Y Đoàn).
“Trước ngôi mộ của ngài trong hầm mộ Vatican, nhiều tín
hữu vẫn không ngừng tiếp tục tuốn đến kính viếng, và
điều này cho thấy một dấu hiệu hùng hồn là Đức Gioan
Phaolô II yêu dấu của chúng ta đă đi vào ḷng người như
thế nào, trước hết, là v́ chứng từ yêu thương của ngài
và việc ngài sẵn sàng chấp nhận khổ đau. Nơi ngài, chúng
ta có thể ca tụng sức mạnh của đức tin và lời nguyện cầu
của ngài, và cách ngài hoàn toàn phó thác bản thân ngài
cho Đức Maria Rất Thánh, vị luôn đồng hành với ngài và
bảo vệ chở che ngài, nhất là trong những lúc khốn khó
nhất và bi thảm nhất cuộc đời của ngài” (Huấn Từ Truyền
Tin).
Trong bài diễn từ tất niên ngỏ cùng Giáo Triều Rôma ngày
Thứ Năm 22/12/2005, vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI đă
nhận định về vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của ḿnh theo
chiều kích Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là mầu nhiệm đă được thể
hiện qua chính cuộc đời và cảm nhận của vị tiền nhiệm
của ḿnh như sau:
“Không có một vị Giáo Hoàng nào như ngài đă để lại cho
chúng ta một số lượng văn bản như ngài đă lưu lại cho
chúng ta; không có một vị Giáo Hoàng nào như ngài đă có
thể viếng thăm toàn thế giới và trực tiếp nói với dân
chúng ở tất cả mọi châu lục.
“Thế mà, cuối cùng, số phận của ngài là một cuộc hành
tŕnh đau thương và câm nín. Chúng ta không thể nào quên
được những h́nh ảnh Chúa Nhật Lễ Lá, lúc mà, cầm trong
tay cành lá cây dầu và cảm thấy đớn đau, ngài đă tiến
đến cửa sổ để Ban Phép Lành của Chúa như chính bản thân
ngài sắp sửa bước tới cây Thập Tự Giá.
“Sau đó là cảnh ở trong Nguyện Đường Riêng của ngài, lúc
mà, cầm Thánh Giá trong tay, ngài tham dự Đường Thánh
Giá bấy giờ đang diễn tiến ở Hí Trường Colosseum, nơi
ngài rất hay thường vác Thập Giá dẫn đầu đoàn người diễn
hành theo sau.
“Sau hết là Phép Lành âm thầm của ngài hôm Chúa Nhật
Phục Sinh, nơi phép lành âm thầm này chúng ta đă thấy
niềm hứa hẹn của cuộc Phục Sinh, của sự sống đời đời,
rạng ngời tỏa sáng qua tất cả mọi nỗi đớn đau của ngài.
Bằng cả lời nói và hành động, Đức Thánh Cha đă cống hiến
cho chúng ta rất nhiều điều cao cả; bài học này cũng
không kém phần quan trọng được ngài ban cho chúng ta từ
ngai ṭa khổ đau và câm nín.
“Trong cuốn sách cuối cùng của ngài là “Hồi Niệm và Căn
Tính” (Weidenfeld and Nicolson, 2005), ngài đă để lại
cho chúng ta một dẫn giải về khổ đau, không phải như một
thứ lư thuyết về thần học hay triết lư mà là một hoa
trái chín mùi qua cuộc hành tŕnh khổ đau của bản thân
ngài, một cuộc hành tŕnh khổ đau ngài đă quyết chịu
bằng niềm tin tưởng vào Vị Chúa tử giá. Lời dẫn giải
này, một việc dẫn giải được ngài khai triển bởi đức tin
và là việc dẫn giải mang lại ư nghĩa cho khổ đau của
ngài, một khổ đau được ngài chấp nhận trong mối hiệp
thông với nỗi khổ đau của Chúa, là việc dẫn giải đă được
vang lên qua thái độ âm thầm chịu đựng của ngài, khi
ngài biến việc chịu đựng này thành một sứ điệp quan
trọng.
“Cả ở phần mở đầu và lập lại một lần nữa ở cuối cuốn
sách được đề cập tới trên đây, vị Giáo Hoàng này đă cho
thấy rằng ngài cảm thấy rất thấm thía trước cảnh tượng
của quyền lực sự dữ, một quyền lực sự dữ chúng ta đă
trải qua một cách thê thảm trong thế kỷ vừa chấm dứt.
Ngài nói trong cuốn sách này rằng: ‘Sự dữ này… không
phải là một thứ sự dữ có tầm mức nhỏ hẹp… Nó là một sự
dữ có những tầm vóc khổng lồ, một sự dữ được tổ chức
đàng hoàng để thực hiện hoạt động gian ác của nó, một sự
dữ trở thành một cơ cấu’ (trang 189).
“’Phải chăng sự dữ là những ǵ bất khả thắng? Phải chăng
nó là một quyền năng tối hậu của lịch sử?’ V́ kinh
nghiệm về sự dữ, mà đối với Giáo Hoàng Wojtyla, vấn đề
cứu chuộc đă trở thành thiết yếu và là vấn đề trọng yếu
trong đời sống của ngài và được suy tưởng như là một
Kitô hữu. Có một giới hạn nào đó chống lại những ǵ bị
quyền lực sự dữ này hủy hoại hay chăng? ‘Có chứ’, vị
Giáo Hoàng này đă trả lời trong cuốn sách ấy của ngài
cũng như trong Thông Điệp về việc cứu chuộc của ngài.
“Quyền năng hạn chế sự dữ này là Ḷng Thương Xót Chúa.
Bạo lực, h́nh thức thể hiện của sự dữ, bị Ḷng Thương
Xót Chúa chống lại qua gịng lịch sử. Chúng ta có thể
nói theo Sách Khải Huyền là Con Chiên mạnh hơn con rồng.
“Ở cuối cuốn sách, bằng việc ôn lại quá khứ về cuộc tấn
công vào ngày 13/5/1981, và dựa vào căn bản của kinh
nghiệm nơi cuộc hành tŕnh của ngài với Thiên Chúa cũng
như với thế giới, Đức Gioan Phaolô II c̣n giải đáp vấn
đề này một cách sâu xa hơn nữa.
“Cái hạn chế quyền lực sự dữ, cái quyền lực chế ngự nó,
theo cách ngài nói, đó là nỗi khổ đau của Thiên Chúa,
nỗi khổ đau của Người Con Thiên Chúa trên Thập Tự Giá:
‘Nỗi khổ đau của Vị Thiên Chúa Tử Giá không phải chỉ là
một h́nh thức khổ đau duy nhất trong số những h́nh thức
khổ đau khác…. Bằng việc hy sinh bản thân ḿnh v́ tất cả
chúng ta, Chúa Kitô đă cống hiến cho đau khổ một ư nghĩa
mới, mở ra một chiều kích mới, một tầm vóc mới, đó là
tầm vóc yêu thương…. Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trên
Thập Giá là những ǵ cống hiến cho đau khổ một ư nghĩa
hoàn toàn mới mẻ, biến đổi nó tự bản chất… Chính cái đau
khổ này thiêu đốt và làm tiêu hao đi sự dữ, bằng ngọn
lửa yêu thương…. Tất cả khổ đau của loài người, tất cả
mọi đớn đau, tất cả mọi yếu đuối bạc nhược đều chất chứa
nơi ḿnh một hứa hẹn cứu độ; …. Sự dữ hiện diện trên thế
giới một phần là để khơi động lên ḷng yêu thương trong
chúng ta, một t́nh yêu trao hiến bản thân ḿnh trong
việc phục vụ cách quảng đại và vô tư những ai bị khổ đau
dằn vặt… Chúa Kitô đă cứu thế giới: ‘Chúng ta đă được
chữa lành nhờ những vết thương của Người’ (Is 53:5)
(trang 189 và sau đó).
“Tất cả những điều này không phải chỉ là một thứ thuần
kiến thức về thần học, mà là một bày tỏ của một đức tin
sống động và trưởng thành qua đau khổ. Chắc chắn là
chúng ta cần phải làm mọi sự có thể để giảm bớt khổ đau
và ngăn ngừa t́nh trạng bất công là những ǵ gây cho
thành phần vô tội khổ đau. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải
làm mọi sự trong tầm tay của ḿnh để giúp con người có
thể khám phá ra được cái ư nghĩa của khổ đau, nhờ đó, họ
biết chấp nhận khổ đau của họ và liên kết nó với khổ đau
của Chúa Kitô.
“Có thế, nó mới ḥa nhập với t́nh yêu thương cứu chuộc
và nhờ vậy mới trở thành một quyền năng chống lại sự dữ
trên thế giới này.
“Việc đáp ứng khắp thế giới trước cái chết của vị Giáo
Hoàng này là việc nhiệt liệt bày tỏ ḷng tri ân về sự
kiện là ngài đă hoàn toàn hiến thân cho Thiên Chúa v́
thế giới, khi thi hành thừa tác vụ của ngài; một lời tạ
ơn cho sự kiện là trong một thế giới đầy hận thù và bạo
lực này, ngài đă dạy một cách mới mẻ t́nh yêu thương và
khổ đau trong việc phục vụ tha nhân; có thể nói ngài đă
tỏ cho chúng ta thấy trong xác thịt Đấng Cứu Chuộc, việc
cứu chuộc, và đă cống hiến cho chúng ta niềm tin tưởng
rằng, thật ra sự dữ không phải là phán quyết tối hậu
trên thế gian này”.
Tóm lại, đối với Đức Gioan Phaolô
II, tác giả cuốn sách triết học nhân bản “Vượt Qua
Ngưỡng Cửa Hy Vọng” năm 1994, và là Vị Giáo Hoàng của
“Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”, nhờ “Người Mẹ của Đấng Cứu
Chuộc”, đă nỗ lực mang “Vui Mừng và Hy Vọng” đến cho
thành phần Thụ Nhân Cứu Chuộc là nhân loại tân tiến cuối
thiên kỷ thứ 2 và đầu thiên kỷ thứ 3 Kitô Giáo, th́ ngay
cuối đường hầm sự dữ le lói ánh sáng sự sống, ngay trong
tận cùng khổ đau nung nấu mầm hy vọng, hay nói ngược
lại, khổ đau là kích tố hy vọng, sự dữ là cuộc vượt qua
để vào sự sống, và sự dữ cùng khổ đau hướng về việc cứu
độ và niềm vui, như chính ngài đă xác tín, khẳng định và
loan truyền như thế trong tác phẩm “Hồi Niệm và Căn
Tính” cuối đời của ḿnh, những lời sau hết (ở trang 168
ấn bản Anh Ngữ) được ngài viết ra chẳng những để hoàn
toàn kết thúc một tác phẩm triết học luân lư (đă bắt đầu
được thai nghén từ năm 1993) của ḿnh, mà tự chúng c̣n
chứng thực cảm nhận “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lơi của
Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II”:
“Tất cả mọi khổ đau của loài người, tất cả mọi nhược bại
yếu hèn, đều chất chứa nơi chúng niềm hứa hẹn cứu độ,
niềm hứa hẹn hoan lạc: ‘Tôi giờ đây hân hoan nơi những
khổ đau của ḿnh v́ anh chị em’, Thánh Phaolô đă viết
như thế (Col 1:24). Điều này áp dụng cho tất cả mọi h́nh
thức khổ đau là những ǵ xuất phát từ sự dữ. Nó áp dụng
cho cái sự dữ cả thể về xă hội lẫn chính trị đang xâu xé
và hành hạ thế giới ngày nay: sự dữ chiến tranh, sự dữ
đàn áp hành khổ cá nhân con người cùng các dân tộc, sự
dữ của t́nh trạng bất công xă hội, của t́nh trạng phẩm
giá của con người bị chà đạp, của t́nh trạng kỳ thị về
chủng tộc và tôn giáo, sự dữ bạo động, khủng bố, thi đua
vơ trang – tất cả mọi sự dữ này, đang hiện diện trên thế
giới đây, một phần, là để khơi động t́nh yêu của chúng
ta, khơi động việc chúng ta hiến ḿnh một cách quảng đại
và vô vị lợi trong việc phục vụ những ai đang bị khổ đau
day dứt. Nơi t́nh yêu xuất phát từ trái tim của Chúa
Kitô, chúng ta thấy được niềm hy vọng của thế giới. Chúa
Kitô đă cứu chuộc thế giới: ‘Chúng ta đă được chữa lành
bởi các thương tích của Người’ (Is 53:5)”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Loạt bài về Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phổ biến
trước sau dịp Mừng 100 Năm Sinh Nhật của ngài
(18/5/2010)
Đă cống hiến
3- Vị
GH của Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần
2- Thời
Điểm Gioan Phaolô II
1- Thánh
GH Gioan Phaolô II - Bách Niên Sinh Nhật 18/5/1920-2020
Sẽ phổ biến
4- Vị Giáo Hoàng của Mẹ Chúa Cứu Chuộc;
Totus Tuus!
5- Vị Giáo Hoàng Vui Mừng và Hy
Vọng: Đừng Sợ!