Tục
ngữ Do Thái có câu: “Thiên Chúa không thể ở mọi nơi, nên Ngài
đã tạo dựng những người mẹ” (God could not be everywhere, so
He made mothers). Đây là tình cảm lâu dài và tốt đẹp. Tuy nhiên,
tôi nghĩ rằng nhờ đảo ngược câu nói mà chúng ta đến gần chân lý
hơn: “Thiên Chúa có thể ở mọi nơi và chúng tỏ điều đó bằng cách
tạo dựng những người mẹ” (God could be everywhere and proved it
by creating mothers). Hình ảnh này phù hợp với nhận xét của tiểu
thuyết gia Hoa Kỳ William Makepeace Thackeray, trong cuốn Vanity
Fair (Hội chợ Phù phiếm): “Mẹ là danh xưng đối với Thiên Chúa
trên những đôi môi và trong những trái tim của những người con
bé bỏng”.
Người mẹ không thể thay thế
Thiên Chúa, nhưng hành động như người trung gian chuyển lòng
nhân từ của Thiên Chúa sang những người khác. Dĩ nhiên, người ta
có thể phản bác rằng người cha cũng làm điều này. Điều này đủ
mức thật. Nhưng có điều gì đó trong đặc quyền về cách thức mà
người mẹ bộc lộ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Theo cách mầu nhiệm
nào đó, điều đó như thể người mẹ có được vậy, một kinh nghiệm
đối diện của Thiên Chúa. Điều này có thể đáng hoan nghênh hơn
nếu chúng ta hiểu vai trò của Đức Mẹ là nguyên mẫu tâm linh của
mọi người mẹ.
ĐGH Bênêđictô XVI đã nhận xét về
Đức Mẹ: “Mẹ giữ trong lòng bí mật làm Mẹ Thiên Chúa, là người
đầu tiên được thấy Thiên-Chúa-làm-người, hoa trái của lòng mẹ”.
Khái niệm về việc Đức Mẹ là người trần tục đầu tiên Mary thấy
Thiên Chúa vừa gây ngạc nhiên vừa soi sáng. Là mẫu gương của
những người mẹ, kinh nghiệm này gồm cả bản chất làm mẹ và mẫu
gương của các phụ nữ đã từng sinh con.
Nếu ông bà nguyên tổ coi Thiên
Chúa là Cha nghiêm khắc theo cách nào đó, thì các thế hệ đều tôn
kính Đức Mẹ là người hiền từ và dễ gần gũi. Nathaniel Hawthorne
bày tỏ tình cảm này đẹp hơn trong cuốn Blithedale Romance khi
ông viết: “Tôi luôn ganh tỵ với người Công giáo về đức tin của
họ nơi Đức Trinh Nữ thánh thiện và ngọt ngào, Đức Mẹ đứng ở giữa
họ và Thiên Chúa, che chắn sự chói lọi uy nghiêm của Ngài, nhưng
cho phép Tình yêu Chúa tuôn đổ trên người thờ kính theo cách
hiểu của con người qua vị trung gian của sự dịu dàng nữ tính”.
Thánh Augustinô nói rằng sự dịu
dàng từ mẫu đặc biệt này có thể thấy ngay ở những con thú hung
dữ – như người Việt nói: “Cọp dữ không ăn thịt con”. Ông
nhận xét trong The City of God (Thành phố của Thiên Chúa):
“Có con cọp cái nào không thương và không vuốt ve con nó?”.
Ngược với câu tục ngữ Do Thái nói ở trên, chúng ta có thể ám chỉ
câu tục ngữ Tây Ban Nha: “An ounce of mother is worth a ton of
priests” (Tạm dịch: “Một lạng người mẹ đáng một tấn linh mục”).
Khái niệm về “sự nhiệt thành” đã
thôi miên người Hy Lạp cổ đại. Thế giới không thể là một nơi,
như Democritus ước đoán, không có gì hơn một số nguyên tử không
thể đếm xuất hiện trong rất nhiều hình thể. Nghĩa là có thể tính
toán đối với sự nhiệt thành tìm được sự hưng phấn và niềm vui
trong kinh nghiệm sống bằng cách nào? Sự hưng phấn là hoạt động
tâm linh không thể giải thích bằng vật chất. Người ta đã nghi
ngờ nhiều thứ: nhân đức, chân lý, kiến thức, và ngay cả tình yêu.
Nhưng không ai có thể nghi ngờ thực tế khả nghiệm của sự hăng
hái. Thế giới hiện đại của chúng ta vẫn liên kết với sự thấu
hiểu này của người Hy Lạp cổ đại. Từ ngữ “sự nhiệt thành” theo
tiếng Hy Lạp là enthusiasmos, được rút từ chữ entheos có nghĩa
là “được Thiên Chúa sở hữu” hặc “được Thiên Chúa linh ứng”.
Người Hy Lạp tin rằng một người
có thể hít thở bằng cuộc sống của Thiên Chúa, người đó có thể là
người đem đến tinh thần của Ngài. Họ tin rằng con người có thể
là “bình chứa” đối với Thiên Chúa. Một trong những từ đối với sự
sống là zoe, không ám chỉ sự sống rộn ràng trong mỗi người, mà
nói đến sự sống có thể được chia sẻ với người khác. Khái niệm
này về sự sống là nền tảng không thể thiếu đối với khái niệm của
Kitô giáo về sự sống của Thiên Chúa, hoặc ân sủng, điều có thể
chia sẻ trong chúng ta, và với Mẹ Maria và những người mẹ theo
cách đặc biệt. Đời sống của Đức Mẹ với Chúa Con là sự sống cao
tới mức ưu việt.
ĐHY Joszef Mindszenty, người can
đảm bảo vệ Giáo hội trong thời gian cộng sản chiếm lĩnh Hungary,
đã dành tình cảm mạnh mẽ với cương vị người mẹ. Trong cuốn The
Mother (Người Mẹ), ngài viết hùng hồn bày tỏ lòng tôn kính những
người mẹ, nhấn mạnh sự gần gũi của họ đối với Thiên Chúa:
“Người quan trọng nhất trên thế gian này là người mẹ. Bà không
thể đòi hỏi lòng tôn kính của việc xây dụng Nhà thờ Đức Bà. Bà
không cần. Bà đã xây dựng cái gì đó quan trọng hơn bất cứ nhà
thờ nào – sự cư ngụ đối với một linh hồn bất tử, sự hoàn hảo gọn
gàng của cơ thể đứa trẻ. Các thiên thần không được chúc lành
bằng ân sủng như vậy. Các thiên thần không thể chia sẻ phép mầu
sáng tạo của Thiên Chúa là đưa những vị thánh mới vào Thiên Quốc.
Chỉ có người mẹ khả thi. Những người mẹ gần gũi với Thiên Chúa
Tạo Hóa hơn bất cứ sinh vật nào, Thiên Chúa liên kết các sức
mạnh với những người mẹ trong việc sáng tạo. Còn gì vinh quang
hơn là được làm mẹ?”. |