Rạng sáng ngày 3.12.1552, cách nay đúng 450 năm, thánh
Phanxicô Xavier đã qua đời trên đảo Thượng Xuyên, sát cửa biển tỉnh
Quảng Đông của Trung Hoa. Lúc ấy, tay ngài đang cầm một cây nến cháy
sáng, do một thanh niên Trung Hoa tên là Antonio, người bạn đồng hành
duy nhất của ngài trao. Cả lục địa mênh mông trước mắt ngài sắp đón nhận
ánh sáng của rạng đông. Khi được tin ở Rôma, cha Polanco, thư ký của
thánh I-nhã, đã viết: “Thiên Chúa nhân hậu (đã gợi lên nơi cha Phanxicô)
những ước muốn ấy để ngài được thêm công phúc, nhưng nhất là chính ngài
đã muốn bắt chước Chúa Giêsu chết đi như một hạt lúa được gieo xuống
đất, ngay cửa ngõ Trung Hoa, để những người khác đến gặt hái hoa quả dồi
dào hơn”. Cái chết âm thầm lặng lẽ ấy chẳng bao lâu sẽ trở nên như một
chuyện thần kỳ.Nhưng
chúng ta hãy tạm dừng lại ở đây để, theo gợi ý của cha Xavier
Léon-Dufour, dõi bước theo hành trình của thánh Phanxicô Xavier, đặc
biệt ở ba thời điểm quan trọng nhất, tức là khi ngài rời Ấn Độ đi
Maluku, đi Nhật Bản và đi Trung Hoa. Ba lần lên đường này có thể hiểu
được dựa trên các kinh nghiệm thánh Phanxicô Xavier đã trải qua ở Paris
và Rôma, nhưng cũng đưa chúng ta vào những chiều sâu khác nữa. Lần thứ
nhất đánh dấu một quyết định quan trọng; lần thứ hai ghi dấu một cuộc
chiến đấu cam go; và lần thứ ba là cơ hội tự hiến đến trọn vẹn.
ĐI MALUKU
Vì thánh Phanxicô Xavier không để lại nhật ký, nên chúng
ta chỉ có thể theo bước chân ngài qua những lá thư ngài gửi cho anh em
Dòng Tên ở Châu Á hay cho thánh I-nhã và các bạn ở Rôma, hoặc cho cha
giám tỉnh hay vua Bồ Đào Nha. Đây là những tài liệu khá tản mạn, nhưng
không phải là không để lại những dấu ấn cá nhân đáng kể.
Phục vụ một “vua đời tạm”
Vừa đặt chân đến Goa, thánh Phanxicô Xavier bắt tay ngay
vào việc: giảng thuyết, dạy giáo lý, giải tội. Ngài hết sức tận tụy.
Ngày 20.9.1542, trong thư gửi về Rôma, ngài viết: “Tôi
tin rằng ai thực lòng yêu mến thánh giá Chúa Kitô sẽ tìm thấy an nghỉ
khi đương đầu với những thử thách. Còn cái chết nào tệ hơn đời sống của
người, sau khi đã biết Chúa Kitô, lại bỏ Chúa để chạy theo sở thích và
quyến luyến riêng! Thật không có gì buồn hơn. Trái lại, ai chết đi mỗi
ngày, tức là đi nguợc lại ý riêng, không tìm những điều thuộc về mình,
nhưng là những điều thuộc về Chúa Giêsu Kitô, sẽ được bình an biết bao”
(Bt 15,15). Ngài cũng báo tin sẽ xuống phía nam, đồng thời gửi cho thánh
I-nhã hai thư khác, một mặt xin Tòa Thánh rộng ban các đặc ân cho giáo
dân Ấn Độ (Bt 16), mặt khác đề cập vai trò quan trọng của vị Tổng Trấn
và của một trường học tại Goa (Bt 17). Trong hai năm sau đó, thánh
Phanxicô Xavier đã “vất vả ngày đêm” nhằm mục đích “chinh
phục khu vực ngoại giáo”(Lt 93). Năm 1543,
cùng với các tân tòng, ngài đối diện với những hoạt động thù nghịch của
những tín đồ Ấn giáo và Hồi giáo. Ước nguyện duy nhất với ngài - đây
cũng là ước nguyện của vị Giám Mục và của vị Tổng Trấn sở tại - là nới
rộng biên cương Hội Thánh dưới quyền “bảo trợ” của Bồ Đào Nha. Việc ngài
thiếu thiện cảm với văn hóa và tôn giáo Ấn Độ chỉ hiểu được trong bối
cảnh ấy. Từ năm 1544, ngài không còn đơn độc ở Mũi Comorin nữa: ngài có
bạn đồng hành là Malsilhas, người Bồ Đào Nha, một tập sinh được ngài
nhận vào Dòng Tên. Trong các thư gửi cho tập sinh này, chúng ta thấy
những hoạt động mục vụ và bác ái của ngài trong lúc giáo đoàn gặp nhiều
khó khăn. Rồi tiếng kêu cứu từ Sri Lanca, từ Maluku. Ngài bị xâu xé:
phải bảo vệ quyền lợi của Bồ Đào Nha hay phải bênh vực người Ấn Độ?
Cuối cùng, ngài dứt khoát. Ngày 20.1.1545, ngài viết thư
xin vua João III của Bồ Đào Nha nghiêm túc xem xét lại những mục tiêu đã
đề ra ở Châu Á. Nhưng không phải vì giận người Bồ Đào Nha mà ngài bỏ đi;
thư gởi về Rôma sau đó mấy ngày cho thấy những lý do tích cực hơn và có
lẽ cũng sâu xa hơn.
Đến với Thiên Chúa bằng một
con đường khác
Thánh Phanxicô Xavier đã hiểu ra: việc phục vụ một vua
đời tạm chỉ nhằm mục đích “giúp
chiêm ngắm đời sống vị vua muôn đời”(Lt 91).
Phải trải qua kinh nghiệm ngài mới vào được trong khoa sư phạm ấy: liên
kết ý muốn của con người với ý muốn của Thiên Chúa, mục tiêu với phương
tiện của một tình yêu đích thực.
Chúng ta hãy theo ngài. Ngày 20.9.1542, ngài viết: “Xin
Chúa ban sức mạnh cho chúng ta ở đời này, để chúng ta phục vụ Chúa trong
mọi sự, như Chúa truyền dạy, và chu toàn thánh ý Chúa ở đời này.”(Bt 15,
câu kết). Ngày 15.1.1544, ngài tiến thêm một bước: “Xin Chúa ban cho
chúng ta ơn này là suốt thời gian đang phải lưu đày, chúng ta cảm nghiệm
được, từ bên trong tâm hồn, và chu toàn ý muốn rất thánh Chúa Người.”(Bt
20, câu kết). Ngày 27.1.1545, ngài bước thêm một bước dài: “Xin Chúa ban
cho chúng ta được biết và nhận ra ý muốn rất thánh thiện của Chúa, và
khi đã nhận ra, xin Chúa ban dồi dào sức lực và ân sủng, để với đức mến,
chúng ta chu toàn thánh ý ngay ở đời này.”(Bt
48, câu kết).
Kế đến, ngày 7 tháng 4 năm ấy, ngài viết cho Mansilhas:
“Chúa
muốn chúng ta luôn sẵn sàng chu toàn thánh ý mỗi khi Người bày tỏ và cho
chúng ta cảm nhận được từ trong lòng. Muốn sống tốt ở đời này, chúng ta
phải làm khách hành hương để đi bất cứ đâu, đến nơi chúng ta có thể phục
vụ Chúa.”(Bt 50,2). Sau khi cho biết ở
“Malacca”, vì thiếu người giúp, nên nhiều người không theo đạo được,
ngài kết luận: “Tôi
còn
nguyên tháng 5 để quyết định.” (Bt 50,3).
Ngài đến São Tomé để nhận định. Cha Coelho, cha sở nơi đó, người đã cho
ngài trọ, sau này kể lại: “Ngài
có thói quen cứ tối đến là lén… đến chòi lá sát đền kính vị tông đồ… Một
đêm, đang khi thầm thĩ cầu nguyện, ngài kêu lên nhiều lần: Thưa Mẹ, vậy
Mẹ không giúp con sao?” Tối tăm bao
trùm trong khi Chúa Thánh Thần thinh lặng. Nhưng cuối cùng, ngài nhận
được ánh sáng. Trong thư gửi về Goa ngày 8.5.1545, ngài viết: “Luôn
sẵn lòng từ bi, đang đã thương nhớ đến tôi, và tôi đã cảm nhận được an
ủi nội tâm mạnh mẽ, nên biết ý Chúa là tôi phải đi vùng Malacca”
(Bt 51,1).
Kết quả,
ngài đã đến tận đảo Môrô, điểm tận cùng của ý Chúa và của “an ủi”. Ngài
viết cho anh em Dòng Tên ở Rôma ngày 20.1.1548: “Tôi
nhớ là xưa nay chưa từng được an ủi thiêng liêng lớn lao và liên tiếp
như trên các đảo này, lại ít cảm thấy phải cực nhọc vê phần xác (…) Thay
vì gọi đó là Các Đảo Môrô, có lẽ nên gọi là Các Đảo Hy Vọng Vào Chúa thì
hơn” (Bt 59,4).
GIỮA SÓNG DẬP GIÓ VÙI
Nhờ ơn
Chúa, ngay trên quần đảo Inđônêxia, thánh Phanxicô Xavier đã tận hiến
cho Thiên Chúa: “Sau
khi đã suy nghĩ, con muốn và ước ao nên giống Chúa, miễn là điều này
giúp con phục vụ và ca ngợi Chúa hơn…” (Lt 98). Nhưng ở
Malacca, trên bán đảo Mã Lai, đang khi ngài chờ tàu đi Ấn Độ, có một
người Nhật Bản đến gặp ngài (Bt 59,15).
Một lựa chọn đúng và tốt
Kể từ ngày
ấy, các hòn đảo Nhật Bản chiếm một chỗ quan trọng trong tâm trí ngài.
Ngày 20.1.1548, ngài viết cho thánh I-nhã: “Con
chưa quyết định dứt khoát là trong khoảng một năm rưỡi nữa con sẽ phải
đi Nhật Bản cùng với một hay hai anh em trong Dòng, hoặc con sẽ phải gửi
hai anh em trong Dòng đến đó. Có điều chắc chắn là nếu con không đi
được, con sẽ gửi người đi. Cho đến nay, con nghiêng về phía chính con đi
hơn. Con đang xin Chúa cho con biết rõ điều nào phù hợp với ý Chúa hơn”
(Bt 60,4). Cùng hôm ấy, ngài nói rõ ý định của mình trong các thư gửi
vua João III và anh em Dòng Tên ở Rôma. Trong thư trước, ngài đã nghĩ
đến việc không ở lại Ấn Độ nữa: “Tôi
chưa quyết định dứt khoát đi Nhật Bản, nhưng dần dần tôi sẽ biết phải
làm gì, vì tôi rất ít tin tưởng là tôi sẽ được giúp đỡ thực sự ở Ấn Độ,
cả để đạo thánh tiến triển cũng như để duy trì tình trạng đạo như hiện
nay” (Bt 61,9). Trong thư sau, ngài có cái nhìn tích cực hơn
về việc ra đi: “Tôi
nghĩ (người Nhật Bản) hiếu học hơn tất cả các dân khác chúng ta từng
biết cho đến nay” (Bt 59,16). Ít lâu sau, ngày 2.4.1548,
viết cho ông Diogo Pereira, ngài đã dứt khoát: “Tôi
rất ước ao và rất vui báo cho ông đôi điều, như với một người bạn đích
thực và tâm phúc của tôi, về chuyến đi Nhật Bản mà tôi dự tính sẽ thực
hiện trong vòng một năm nữa” (Bt 65,1).
Đến ngày
1.2.1459, việc nhận định kết thúc: ngài sẽ cùng với cha Cosma de Torres
khởi hành vào tháng 4. Ngài viết cho thánh I-nhã: “Ở
Nhật Bản, tất cả là lương dân, không có người Hồi giáo cũng không có
người Do Thái, mà lại có đầu óc tò mò, rất muốn học biết cái mới, cả về
Thiên Chúa cũng như về những điều tự nhiên khác, nên con đã quyết định
sẽ đến đó. Con thấy tâm hồn rất phấn khởi… Con không ngại đi Nhật Bản,
vì con cảm nhận trong tâm hồn mình cái gì đó dào dạt, mặc dầu con hầu
như chắc chắn sẽ gặp nhiều nguy hiểm lớn lao hơn những gì con từng gặp
xưa nay” (Bt 70,8.10). Tin chắc là đã được chính Thiên Chúa
thúc bách, ngài nêu lên những lý do (Lt 180-183). Ngài giải thích với
thánh I-nhã là ở Nhật Bản “anh
em trong Dòng chúng ta có thể dùng đời sống làm trổ sinh hoa trái, và
sau đó chính họ sẽ tiếp nối” (Bt 70,8). Về điều này, ngài đã
được xác chuẩn: Anjiro, người Nhật Bản ngài đã gặp ở Malacca, cùng với
hai người bạn đã sẵn sàng lên đường. Ngài viết cho thánh I-nhã: “Ở
Học viện Đức Tin tại Goa, có ba thanh niên sinh trưởngt tại đảo Nhật Bản
ấy. Họ cùng từ Malacca đến đó với con năm 48. Họ đã cho con biết nhiều
điều về khu vực Nhật Bản, và con hiểu dân chúng ở đó có phong hóa tốt,
lại rất thông minh, cách riêng là Phaolô… Trong vòng 8 tháng, Phaolô đã
học đọc, viết và nói tiếng Bồ Đào Nha, và hiện đang tập Linh Thao. Anh
ấy tiến rất xa và đi sâu vào những điều thuộc Đức Tin. Con rất hy vọng,
điều này chỉ đặt hết nơi Thiên Chúa, là ở Nhật Bản sẽ có nhiều người
theo đạo” (Bt 71,8). Với cha Simão Rodrigues, ngài nói rõ: “Trong
các khu vực này (Ấn Độ), người ta không cần đến tôi lắm nữa, vì có các
cha đến trong năm nay” (Bt 73,3).
Viết cho
vua João III, ngài nói khác: “Kinh
nghiệm đã dạy cho tôi biết là Hoàng Thượng thi hành quyền bính ở Ấn Độ
không phải chỉ vì muốn tăng số người tin vào Đức Kitô: Hoàng Thượng thi
hành quyền bính cũng để chiếm hữu của cải vật chất ở Ấn Độ nữa. Xin
Hoàng Thượng thứ lỗi vì tôi nói toạc ra như vậy (…) Tôi không hy vọng
chút nào là những mệnh lệnh hay chỉ thị có lợi cho giáo đoàn mà Hoàng
Thượng gửi đến sẽ được tuân giữ ở Ấn Độ. Chính vì vậy mà tôi đi Nhật
Bản, gần như bỏ trốn, để khỏi mất thêm thời giờ như trước kia đã mất”
(Bt 77,2.3). Đến Malacca vào mùa xuân năm 1549. Ngài biết rõ là những
nguy hiểm do bão tố và cướp biển luôn chờ đợi ngài. Với những ai sợ,
ngài trả lời: “Vì
Thiên Chúa có quyền trên chúng ta hết thảy, nên tôi không sợ ai, ngoại
trừ Thiên Chúa… Còn những nỗi sợ, những nguy hiểm khác, những đau khổ
khác, mà bạn bè nói tới, tôi kể là số không. Tôi chỉ còn sợ Thiên Chúa,
vì nỗi sợ đối với các thụ tạo chỉ lớn tới mức Đấng Sáng Tạo ra chúng cho
phép là cùng” (Bt 78,2). Nhưng một cuộc chiến khác đang chờ
đợi người “khách hành hương”.
Đương đầu với “thủ lãnh các kẻ thù”
Lúc còn ở
Ấn Độ, để khích lệ cha Henriques đang ở Travancore, ngài đã viết: “Hãy
thấy là cha sinh được nhiều hoa trái ở vương quốc Travancore này hơn cha
nghĩ, vì từ khi cha đến đó, bao nhiêu trẻ em đã được rửa tội và đã qua
đời, hiện nay đang sống trong vinh quang Thiên Đàng (…) Kẻ thù của loài
người rất thù ghét cha, và muốn cha tránh xa xứ ấy, để đừng ai rời bỏ
vương quốc Travancore mà lên Thiên Đàng nữa. Ma quỉ thường nhử những
người đang phục vụ Đức Giêsu Kitô là họ sẽ phục vụ Thiên Chúa được nhiều
hơn, với ý xấu là làm cho một linh hồn đang phục vụ Thiên Chúa được ở
nơi này phải áy náy và bối rối, vì vậy bỏ đi nơi khác, thế là nó đuổi
được người ấy ra khỏi nơi họ đang phục vụ được Thiên Chúa”
(Bt 68,3). Mấy tháng sau, đang khi chờ tàu tại Malacca, ngài viết thư
gửi anh em Dòng Tên Ấn Độ: “Kẻ
Thù vùng vẫy rất nhiều để ngăn cản tôi thực hiện chuyến đi này: tôi
không biết nó sợ gì trong việc chúng tôi đi Nhật Bản.” Rồi
ngài viết tiếp: “Thực
ra, tôi luôn luôn giữ trước mắt và trước trí khôn tôi điều tôi đã nhiều
lần nghe cha I-nhã nói: những ai muốn thuộc về Dòng này phải chịu gian
khổ để thắng được mình và đuổi xa mọi nỗi sợ là điều ngăn cản người ta
tin, cậy và mến Chúa, và muốn được như vậy, phải sử dụng những phương
thế thích đáng” (Bt 85,8.13). Đây chẳng phải là ngài ám chỉ các qui tắc
nhận định sao (Lt 325-327)?
Nhưng mặt
biển mới là nơi thử thách nặng nề. Trên chiếc thuyền gỗ của một nhà buôn
Trung Hoa có biệt danh là Hải Tặc, một bức tượng Thủy Tề được đặt trang
trọng ở mũi thuyền. Thánh Phanxicô Xavier kinh hoàng và khổ sở: “Người
ta mang theo một tượng thần trên thuyền, đặt ngay ở phía trước; anh
thuyền trưởng và các kẻ ngoại khác cầu khẩn cúng bái bức tượng liên tục,
và chúng tôi không sao ngăn cản được họ nhiều lần gieo quẻ để hỏi tượng
thần xem chúng tôi có đến Nhật Bản được không, gió cần cho thuyền chạy
có kéo dài không: khi thì họ nói là tốt, khi thì họ nói là xấu, theo như
họ tin (…) Anh em thấy là chúng tôi phải khổ sở thế nào trong chuyến đò
ấy, vì chúng tôi có đi Nhật Bản được hay không là tùy thuộc ý kiến của
ma quỉ và các tôi tớ của nó, mà những người điều khiển và hướng dẫn con
thuyền thì cứ nhất nhất làm theo như ma quỉ nói với họ qua các thẻ”(Bt
90,2.4). Hẳn là ngài nghĩ đến điều thánh I-nhã viết trong Linh Thao:
Luxiphe gửi thuộc hạ đi “bủa
lưới và xiềng xích” khắp nơi (Lt 142). Bão tố nổi lên, các
tai họa dồn dập, và thánh Phanxicô Xavier bị thử thách tận trong đấy
lòng. Chính ngài phải chiến đấu: “Tôi
cảm nhận được, biết được bằng chính cảm nghiệm, nhiều điều liên hệ đến
những nỗi kinh hoàng rụng rời do ma quỉ gây ra” (Bt 90,7).
Nhưng chính Thiên Chúa cũng chỉ cho ngài lối thoát:
“Phương thuốc tốt
nhất cần dùng trong những hoàn cảnh như vậy là hết sức dũng cảm chống
lại Kẻ Thù, đừng tin tưởng chút nào nơi mình, nhưng đặt hết tin tưởng
nơi Thiên Chúa, đặt tất cả sức mạnh và tất cả hi vọng nơi Người, và nhờ
Đấng Bảo Vệ vĩ đại như vậy, chúng ta trở nên mạnh mẽ; đừng hèn nhát và
không chút nghi ngờ việc mình sẽ chiến thắng” (Bt 90,7). Vậy
là ngài trở nên rất khiêm tốn, thoát ra khỏi chính mình, đặt mình trọn
vẹn trong tay Chúa: ngài đang chiến đấu dưới cờ hiệu của Đức Kitô, “ở
một nơi khiêm tốn, xinh đẹp và dễ thương”, chứ không phải
như Luxiphe hay các thuộc hạ của nó “dữ
tợn và đáng sợ, ngồi trên ngai lửa và khói” (Lt 140 và 143).
Bão tố đến
rồi đi. Vì có hải tặc, người chủ thuyền không dám ghé vào Quảng Đông như
dự tính, nhưng tiến thẳng đến Nhật Bản, và mọi chuyện êm xuôi. Trong lá
thư đề ngày 29.1.1552, gửi anh em Dòng Tên ở Rôma, thánh Phanxicô Xavier
kể khá kỹ về thời gian ngài lưu lại trên đất Nhật Bản, đặc biệt là những
câu hỏi người ta nêu lên về Thiên Chúa và việc Sáng Tạo (Bt 96). Nhưng
người Nhật Bản vẫn thắc mắc: Tại sao người Trung Hoa không biết và tin
Chúa Giêsu?
HƯỚNG VỀ TRUNG HOA
Trên đường
trở lại Ấn Độ, thánh Phanxicô Xavier dừng chân tại Malacca. Ngài nhận
được nhiều thư từ và tin tức, đặc biệt thư của thánh I-nhã thiết lập
Tỉnh Dòng Ấn Độ và đặt ngài làm giám tỉnh, và tình trạng đáng lo ngại ở
Học viện Thánh Phaolô tại Goa. Ngài có nhiều việc phải lo hơn, nhưng
cũng được tự do trong hoạt động tông đồ hơn.
Sức mạnh của lòng yêu mến
Trước khi
đi Nhật Bản, thánh Phanxicô Xavier đã đi thăm một vòng các anh em ở
nhiều nơi để thảo luận về công cuộc truyền giáo và về việc thiết lập hay
phát triển các trường học. Riêng về Học viện Thánh Phaolô ở Goa, mặc dầu
ngài thấy cha viện trưởng Antonio Gomes quá độc đoán, cần phải thuyên
chuyển, nhưng ngài chưa dứt khoát. Ngài đã viết cho thánh I-nhã trong
thư ngày 1.2.1549: “Ở
đây, anh em trong Dòng không lấy làm gương sáng lắm trước lệnh do N.
mang đến là bắt giam và trói bằng xiềng xích những ai, theo N., không
làm gương sáng lắm ở đây để gửi vể Bồ Đào Nha”(Bt 70,4). Rồi
ngài tâm sự với thánh I-nhã: “Con
nghĩ rằng Dòng Tên là Dòng yêu mến và hiệp nhất tâm hồn, chứ không phải
là ép buộc hay sợ hãi như nô lệ”(Bt 70,5). Ba năm sau, từ
Nhật Bản trở về, ngài thấy tình hình trở nên tệ hại hơn, và ngài vẫn
không thay đổi ý kiến. Cha Antonio Gomes quả là không hiểu gì thánh
Phanxicô Xavier khi muốn biến Học viện Thánh Phaolô ở Goa thành một Học
viện Coimbra thứ hai: xây dựng thật lớn lao, nhưng chỉ nhận học sinh
người Bồ Đào Nha. Trái lại, ở Cochin, Dòng Tên cũng có một trường học,
nhưng không có một nhà thờ xứng đáng, ngài đã không ngần ngại tiếp nhận
nhà thờ Madre de Dios, của Hội Từ Thiện Casa da Misericordia, tổ chức
tốt nhất của người Bồ Đào Nha tại Châu Á thời ấy. Trong một thời gian
ngắn, ngài thu xếp mọi công việc đâu vào đó, để rồi lại thực hiện một
chuyến đi xa nữa.
Thực ra,
ước nguyện của thánh Phanxicô Xavier không chỉ dừng lại ở việc làm “triển
nở” cộng đồng tín hữu Bồ Đào Nha ở Ấn Độ, nhưng còn muốn góp phần tạo ra
những cộng đồng mới: không còn tranh chấp, kiện tụng, gương xấu, nhưng
giữa anh em Dòng Tên và hàng giáo sĩ, triều cũng như dòng, có sự thông
cảm và cộng tác; còn những kỳ đà cản mũi trong Dòng Tên thì bị loại trừ
khỏi Dòng (Bt 100 và 101). Đi xa hơn nữa, ngài ra lệnh cho
cha Berze, viện trưởng mới của Học viện Thánh Phaolô: “Trong
cách xử sự với các cha và các anh em, phải rất quí mến, bác ái và khiêm
tốn, đừng thô bạo hay gắt gao…”(Bt 115,1); “Còn về cách giúp (các tín
hữu) thì càng phổ cập hơn càng tốt” (Bt 115,4). Ngài cũng
muốn các tập sinh trong Dòng phải được huấn luyện tử tế bằng việc tập
Linh Thao và thực hiện nghiêm túc các thực nghiệm. Nhưng ngài nhấn mạnh
đặc biệt đến việc anh em trong Dòng phải hiệp nhất với nhau và với bề
trên (Bt 117). Ngài nghĩ cả đến việc được gọi trở về Rôma để gặp thánh
I-nhã. Trong thư ngày 29.1.1552, ngài gần như gợi ý với thánh I-nhã: “Cha
viết cho con là cha rất mong được gặp con trước khi lìa khỏi cõi đời
này… Đối với đức tuân phục thì không có gì là không thể được”(Bt
97,3). Thư hồi âm của thánh I-nhã đến Ấn Độ thì thánh Phanxicô Xavier đã
qua đời từ lâu rồi!
Chẳng những
là một người dễ gần gũi, mà thánh Phanxicô Xavier còn là một người thích
chia sẻ và hiệp thông nữa. Ngài học được với thánh I-nhã là “mọi điều
thiện hảo, mọi ân huệ đều từ trên cao ban xuống”
(Lt 237), nên việc kết hiệp với
Thiên Chúa được đặt nền móng trên việc Người hiện diện khắp nơi. Nhưng
đối với thánh Phanxicô Xavier, kinh nghiệm này rất sống động. Tìm gặp
Thiên Chúa trong hiện tại chính là tìm kiếm Người mọi nơi mọi lúc. Do
đó, nơi ngài, việc nhận định được liên kết với việc mở rộng hoạt động
truyền giáo, và muốn tiến bộ trong chiêm niệm phải nhìn ngắm thế giới
này bằng con mắt thiêng liêng. Như trong bài “Chiêm niệm để đạt tới tình
yêu” trong Linh Thao (Lt 230-237), việc “tìm gặp Thiên Chúa trong mọi
sự” được nâng lên thành một chia sẻ và hiệp thông trong yêu mến, nơi đó
con người được mời gọi mở cửa cho Thiên Chúa, Đấng hoạt động cả bên
trong cũng bên ngoài.
“Xin đừng bao giờ để con lìa xa Chúa”
Vừa về đến
Ấn Độ, thánh Phanxicô Xavier bày tỏ ngay với thánh I-nhã về ước muốn đi
Trung Hoa để phục vụ Thiên Chúa hơn. Chúng ta đã biết điều gì thúc bách
ngài, ở đây chúng ta để ý đến điểm đặc biệt là các suy nghĩ của ngài rất
gần với những điều được trình bày trong Hiến Chương Dòng Tên. Nguyên tắc
hướng dẫn việc lựa chọn hoạt động tông đồ của Hiến Chương Dòng Tên là
trong hoàn cảnh cụ thể, ưu tiên cho hoạt động nào “phục
vụ Thiên Chúa hơn và lợi ích phổ cập hơn”. Đó cũng chính là điều thánh
Phanxicô Xavier đã nghĩ khi viết: “Trong Thiên Chúa, tôi rất hi vọng là
một con đường sắp được mở ra, không chỉ cho anh em trong Dòng, mà còn
cho tất cả các dòng khác…” (Bt 96,52).
Theo Hiến
Chương Dòng Tên, phải chọn nơi nào người ta sẵn sàng để hoa trái thiêng
liêng trổ sinh hơn. Thánh Phanxicô Xavier quyết định đi Trung Hoa vì
người Trung Hoa “có trí khôn sâu sắc” và “hiếu học” hơn người Nhật Bản
nhiều (Bt 96,50). Theo Hiến Chương Dòng Tên, “sự
thiện càng phổ cập
càng đẹp lòng Thiên Chúa”, nên phải ưu tiên đối với những
người sẽ làm cho sự thiện đến được những người khác nữa, “những
người dưới quyền họ hoặc chịu ảnh hưởng của họ”. Đây cũng
chính là điều thánh Phanxicô Xavier nhắm tới: khi người Trung Hoa đón
nhận Đạo Chúa Kitô, họ sẽ giúp cho người Nhật Bản bỏ lòng tin tưởng nơi
các giáo phái từ Trung Hoa truyền sang.
Đã nắm vững
những nguyên tắc hướng dẫn ấy, thánh Phanxicô Xavier chuẩn bị chuyến đi
hết sức chu đáo. Ngày 8.4.1552, ngài viết cho vua João III: “Ông
Diogo Pereira đi với tư cách là đại sứ (của Tổng Trấn Bồ Đào Nha tại Ấn
Độ), để đòi lại những người Bồ Đào Nha đang bị (chính quyền Trung Hoa)
cầm tù, và cũng để thiết lập quan hệ hòa bình và hữu nghị giữa Hoàng
Thượng và vua Trung Hoa. Về phần chúng tôi, các linh mục Dòng Tên Chúa
Giêsu, tôi tớ của Hoàng Thượng, chúng tôi đi để gây chiến tranh và bất
hòa giữa ma quỉ với những người thờ lạy chúng, thay mặt Thiên Chúa nài
van trước là nhà vua, sau là tất cả dân chúng trong vương quốc, để họ
đừng thờ lạy ma quỷ nữa, nhưng thờ lạy Đấng tạo thành trời đất, vì chính
Người đã dựng nên họ, và chính Chúa Giêsu Kitô đã cứu chuộc họ”
(Bt 109,5). Trong lá thư cuối gửi cho thánh I-nhã, thánh Phanxicô Xavier
hạ giọng hơn, như thổ lộ tâm tình, trong đó chúng ta thấy sứ mạng và
chiêm niệm quyện vào nhau: “Mọi
người đều nói với con là từ Trung Hoa có thể đi Giêrusalem được”(Bt
110,12). Sau khi huấn dụ anh em Dòng Tên ở Goa vào đêm thứ năm Tuần
Thánh, ngài rời Goa đi Malacca để theo tàu của ông Pereira đi Trung Hoa.
Thật bất ngờ: hai người con của nhà thám hiểm lỗi lạc Vasco da Gama cùng
ở Malacca, nhưng đối xử với ngài hoàn toàn khác nhau. Người anh là Pedro
da Silva da Gama, trấn thủ trên đất, hết lòng ủng hộ ngài, nhưng người
em là Alvaro da Ataida da Gama, trấn thủ trên biển, nhất định không cho
tàu nhổ neo. Ngài phải lấy quyền Phái Viên Tòa Thánh để ra vạ tuyệt
thông, nhưng viên sĩ quan ấy cũng chỉ cho phép tàu đi mà không có ông
Pereira. Mọi sự bỗng nhiên như sụp đổ trước mắt ngài. Nhưng rồi ngài vẫn
đi, “không có
một đặc ân nào của ai, hi vọng một người Môrô hay một kẻ ngoại sẽ chở
tôi vào đất liền ở Trung Hoa”(Bt 125,4).
Khoảng đầu
tháng 9 năm 1552, ngài đặt chân lên đảo Thượng Xuyên, một hòn đảo vốn
hoang vu đã được các nhà buôn Trung Hoa và Bồ Đào Nha biến thành một
thương cảng. Nhờ các tàu buôn Bồ Đào Nha đi Malacca, thánh Phanxicô
Xavier tiếp tục điều hành Tỉnh Dòng qua thư từ. Trong khi nóng lòng chờ
đợi một nhà buôn Trung Hoa đến đón như đã hẹn, ngài đề ra những phương
án khả thi khác: trở về Ấn Độ, theo một phái đoàn sứ thần Thái Lan để
vào Trung Hoa. Nhưng rồi ngài ngã bệnh. Dầu vậy, ngài vẫn chưa ngã lòng:
“Có Thiên Chúa
bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?” (Rm 8,31). Nhưng ngài
không dậy được nữa. Giờ đã đến để ngài dâng lên Thiên Chúa của lễ tối
hậu: “Lạy Chúa, xin thương nhận… Mọi sự đều là của Chúa, xin Chúa sử
dụng tùy ý Chúa. Xin ban cho con tình yêu và ân sủng của Chúa. Ơn Chúa
làm thỏa lòng con” (Lt 234).
Nếu ước
nguyện duy nhất của thánh Phanxicô Xavier là đem Tin Mừng đến cho những
người ở xa, thì mười năm ở Châu Á của ngài được ghi dấu bằng ba cột mốc
là ba chuyến đi lớn. Khi rời Ấn Độ đi Inđônêxia, ngài phần nào tách khỏi
quyền “bảo trợ truyền giáo” của Bồ Đào Nha và lao mình vào nơi ngài chưa
hề biết gì. Đó cũng là dịp để ngài đến với Thiên Chúa một cách khác.
Quyết định đi Nhật Bản là kết quả một cuộc nhận định lâu dài, nhưng dọc
theo bờ biển Trung Hoa, ngài khám phá ra Thiên Chúa đòi hỏi ngài hơn
nữa: phó thác trọn vẹn nơi Người. Chuyến đi cuối cùng của ngài vẫn nằm
trong ước nguyện cơ bản nguyên thủy: đó không phải là một cuộc chạy trốn
về phía trước, vì mặc dầu bất đắc dĩ phải ở lại Thượng Xuyên, ngài vẫn
tận tình chu toàn nhiệm vụ giám tỉnh. Nhưng chính lúc ấy, cái đến đến
thật bất ngờ. Chắc chắn ba chuyến đi ấy chưa làm cho ngài kiệt sức,
nhưng đủ làm nổi rõ những đường nét thâm sâu trong cuộc sống của ngài. |